Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Quá trình phát triển quan hệ EU – ASEAN từ năm 1994 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 190 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HÀ

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN HỆ EU – ASEAN
TỪ NĂM 1994 ĐẾN NĂM 2015

Ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 9 22 90 11

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ

Hà Nội
i - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Thu Hà

i



LỜI CẢM ƠN
Luận án được nghiên cứu sinh (NCS) thực hiện tại Khoa Lịch sử, Học Viện
KHXH, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn
Thị Mỹ
NCS xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Thị Mỹ đã tận
tình chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong quá trình hướng dẫn NCS hoàn thành
luận án.
NCS xin chân thành cảm ơn Học viện, Phòng Đào tạo, Khoa Lịch sử, các thầy
trong Khoa Lịch sử Học viện KHXH, Ban Lãnh đạo Viện Nghiên cứu châu Âu đã
giúp đỡ và tạo điều kiện để NCS hoàn thành luận án.
NCS xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học trong và ngoài Viện Hàn lâm đã
đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp NCS kịp thời bổ sung, hoàn thiện nội dung luận án.
NCS xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình từ các cá nhân, tổ
chức đã giúp đỡ trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu phục vụ cho mục đích
nghiên cứu.
NCS xin chân thành cảm ơn gia đình và đồng nghiệp luôn ở bên cạnh,
hỗ trợ về tinh thần và chia sẻ những lúc khó khăn trong quá trình học tập,
nghiên cứu.

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.......8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ......................................................................... 8
1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................................ 23
1.3. Vấn đề đặt ra cho luận án ....................................................................................... 24
Chương 2: THỰC TẾ PHÁT TRIỂN CỦA QUAN HỆ EU – ASEAN
GIAI ĐOẠN 1994 - 2001............................................................................................. 28

2.1. Khái quát quan hệ EU – ASEAN trước 1994 ........................................................ 28
2.2. Các nhân tố tác động tới quan hệ EU - ASEAN giai đoạn 1994 - 2001 ................ 36
2.3. Quan hệ EU– ASEAN từ sau khi NAS được công bố đến năm 2000
Tiểu kết chương 2........................................................................................................... 59
Chương 3: TIẾN TRIỂN MỚI TRONG QUAN HỆ EU – ASEAN GIAI ĐOẠN 2001 2015 ............................................................................................................................................................. 62
3.1. Những nhân tố mới tác động tới quan hệ EU – ASEAN những năm đầu thế kỷ
21 ................................................................................................................................... 62
3.2. Tiến triển trong quan hệ EU – ASEAN giai đoạn 2001 - 2015 ............................. 76
Tiểu kết chương 3......................................................................................................... 102
Chương 4: NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ EU – ASEAN GIAI ĐOẠN 1994 - 2015 ............. 103
4.1. Thành tựu và hạn chế trong quan hệ EU - ASEAN giai đoạn 1994 - 2015 ............. 103
4.2. Đặc điểm của quan hệ EU – ASEAN .................................................................. 122
4.3. Tác động của quan hệ EU - ASEAN đối với các bên tham gia ........................... 127
Tiểu kết chương 4......................................................................................................... 143
KẾT LUẬN ............................................................................................................................................ 145
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .............................................. 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 149
PHỤ LỤC ............................................................................................................................................... 165

iii


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
AC
AEC
AEBS
AEMM
AFTA


Tiếng Anh

Tiếng Việt
Cộng đồng ASEAN

ASEAN Community
ASEAN Economic

Cộng đồng Kinh tế ASEAN

Community
ASEAN – EU Business

Hội nghị Thượng đỉnh Kinh

Summit

doanh ASEAN – EU

ASEAN – EU Minister

Cuộc họp cấp Bộ trưởng

Meeting

ASEAN - EU

ASEAN Free Trade Area

Khu vực Thương mại Tự do

ASEAN
An ninh phi truyền thống

ANPTT
ARF

ASEAN Regional Forum

Diễn đàn khu vực ASEAN

ASC

ASEAN Security Community

Cộng đồng An ninh ASEAN

ASEAN

Associate of Southeast Asian

ASEM

Asia – Europe Meeting

Hội nghị Thượng đỉnh Á – Âu

ASEAN Socio Cultural

Cộng đồng Văn hóa - Xã hội


Community

ASEAN

European Community

Cộng đồng Châu Âu

ASCC
EC
EEC
EU

European Economic

ACFTA
CEPT

Nam Á

Cộng đồng Kinh tế Châu Âu

Community
European Union -

Liên minh Châu Âu
Đơn vị tiền tệ châu Âu

ECU/EUR
EUSFTA


Hiệp hội các Quốc gia Đông

EU - Singapore Free Trade

Hiệp định Thương mại Tự do

Agreement

EU - Singapore

ASEAN China Free Trade

Hiệp định Thương mại Tự do

Agreement

ASEAN – Trung Quốc

Common Effective

Hiệp định ưu đãi thuế quan có
iv


Preferential Tariff

hiệu lực chung

ASEAN - EU Join


Uỷ ban Hợp tác chung ASEAN

Cooperation Committee

– EU

Generalized Systems of

Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ

Preferences

cập

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FTA

Free Trade Area

Hiệp định thương mại tự do

Partnership Cooperation

Hiệp định khung Đối tác


Agreement

và Hợp tác toàn diện

JCC
GSP

PCA

Treaty of Amity and
TAC

Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác

Cooperation in Southeast

ASEAN

Asia
TREATI

Trans - Regional EU –

Sáng kiến thương mại xuyên

ASEAN Trade Initiative

khu vực EU- ASEAN
Đơn vị tiền tệ của Mỹ (đôla


USD

Mỹ)
Regional EU – ASEAN

Công cụ Đối thoại Khu vực EU

Dialogue Instrument

- ASEAN

South Asian Association for

Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam

Regional Cooperation

Á

ASEAN

ASEAN Senior Officials

Hội nghị các quan chức Cao

SOM

Meeting


cấp ASEAN

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Thế giới

READI
SAARC

v


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Những ưu tiên được xác định trong Thông cáo về ASEAN năm 2003.......70
Bảng 2: EU 28 xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa đến và từ ASEAN, 2004 và 20122014 ...........................................................................................................................82
Bảng 3: Xuất khẩu hàng hóa của ASEAN sang EU năm 2015 ................................83
Bảng 4: Sự hỗ trợ của EU cho Cộng đồng ASEAN [111] ........................................97
Bảng 5: Hỗ trợ của EU cho các nước thành viên [82] ..............................................99
Bảng 6: Chương trình trao đổi học bổng Erasmus Mundus....................................101
Bảng 7: Cấu trúc thể chế của quan hệ EU – ASEAN .............................................112
Bảng 8: Các số liệu cơ bản về EU và ASEAN năm 2011[82, tr.5] ........................122
Danh mục các Phụ lục
Phụ lục 1: Thương mại của EU với ASEAN [91]...................................................165
Phụ lục 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở ASEAN ..................................................166
Phụ lục 3: Xuất khẩu của EU sang ASEAN theo những mặt hàng chính...............166
Phụ lục 4: Nhập khẩu của EU từ ASEAN theo các lĩnh vực chính ........................167
Phụ lục 5: Đầu tư ra bên ngoài của EU vào châu Á ................................................167
Phụ lục 6: Hợp tác kinh tế và công nghiệp EU - ASEAN ......................................168

Phụ lục 7: Viện trợ phát triển của EU cho các nước thành viên ASEAN...............168
Phụ lục 8: Tình hình tăng trưởng kinh tế thế giới ...................................................169
Phụ lục 9: Các số liệu chủ chốt về EU ....................................................................169
Phụ lục 10: Tình hình đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở một số nước ASEAN trong
thời kỳ này được phản ánh qua bảng sau ................................................................170
Phụ lục 11: Quan niệm về hình ảnh nổi bật của EU ...............................................171
Phụ lục 12: Hiệp định Hợp tác giữa Các nước Thành viên ASEAN và Cộng đồng
châu Âu ...................................................................................................................172
Phụ lục 13: Tuyên bố Nuremberg 2007 về Đối tác Tăng cường EU - ASEAN .....178

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ EC/EU - ASEAN cho đến nay đã trải qua hơn 4 thập kỷ hình thành
và phát triển với nhiều giai đoạn thăng, trầm. Thời kỳ trước năm 1994, mối quan hệ
này chưa được EC chú trọng phát triển một cách toàn diện. Tuy nhiên, từ sau 1994,
với việc triển khai Chiến lược châu Á mới, và nhất là từ sau 2007, với Tuyên bố
Nuremberg về việc tăng cường quan hệ đối tác, quan hệ EU - ASEAN đã phát triển
mạnh mẽ và ngày càng sâu sắc hơn.
Sự phát triển của quan hệ EU - ASEAN đã mang lại những lợi ích thiết thực
cho cả hai bên, đồng thời là nhân tố quan trọng đóng góp vào hòa bình, ổn định và
phát triển của cả hai khu vực, đặc biệt là đối với ASEAN, trong thời kỳ sau Chiến
tranh Lạnh. Hợp tác với EU không chỉ giúp ASEAN tạo thêm cơ hội cho các nước
thành viên thu hút các nguồn lực từ EU vào phát triển đất nước, mà bản thân
ASEAN với tư cách một tổ chức hợp tác khu vực duy nhất ở Đông Nam Á cũng
được thụ hưởng những lợi ích thiết thực, cụ thể. Với sự hiện diện về chính trị và
kinh tế ngày càng tăng của EU, ASEAN đã có điều kiện thuận lợi để thực hiện chủ
trương cân bằng quan hệ giữa các nước lớn ở Đông Nam Á mà Hiệp hội này đã kiên

trì theo đuổi từ sau Chiến tranh Lạnh. Sự ủng hộ của EU là một trong những nhân tố
giúp ASEAN duy trì và giữ vững vai trò trung tâm trong cấu trúc khu vực đang định
hình. EU là đối tác đối thoại duy nhất đã và sẽ tiếp tục cung cấp cho ASEAN những
kinh nghiệm quý giá về hội nhập khu vực, một công cuộc hoàn toàn mới mẻ với
ASEAN, nhưng không xa lạ với EU.
Là một nước thành viên ASEAN, Việt Nam đã tham gia vào quan hệ ASEAN
- EU ngay khi gia nhập Hiệp hội này (7/1995). Quan hệ ASEAN - EU đã mang lại
cho Việt Nam nhiều lợi ích, đặc biệt là về thương mại và đầu tư. Sự hiện diện ngày
càng tăng của EU ở ASEAN nói chung, Việt Nam nói riêng cũng là một nhân tố
quan trọng đối với hòa bình và ổn định của Việt Nam. Do vậy, tham gia tích cực
vào mối quan hệ này, góp phần thúc đẩy quá trình tiến tới quan hệ đối tác chiến
lược ASEAN - EU là yêu cầu cấp bách trong chính sách hội nhập khu vực và quốc
tế của Việt Nam.

1


Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc nghiên cứu về quan hệ EU – ASEAN chưa thật
sự được chú ý. Cho đến nay, vẫn chưa có một nghiên cứu hệ thống, toàn diện về
mối quan hệ này, đặc biệt là giai đoạn từ sau 1994 đến nay. Tiếp tục tình trạng đó sẽ
khiến Việt Nam không chỉ không khai thác hết các lợi ích mà quan hệ EU - ASEAN
đem lại cho mỗi nước thành viên ASEAN mà còn không thể phát huy hết vai trò và
năng lực của mình trong quá trình phát triển của mối quan hệ trên. Do vậy, việc
nghiên cứu về quan hệ EU - ASEAN từ sau 1994 thật sự là cần thiết, cấp bách.
Về phương diện khoa học:
Quan hệ EU – ASEAN là quan hệ giữa một tổ chức hợp tác của các nước
công nghiệp phát triển ở châu Âu, đã tiến tới nấc thang cao nhất trong tiến trình hội
nhập khu vực, với một tổ chức hợp tác của các quốc gia đang phát triển ở Đông
Nam Á mới đi những bước hội nhập khu vực đầu tiên. Quan hệ với EU là một trong
những mối quan hệ quốc tế sớm mà ASEAN có được sau 10 năm thành lập. Các

nền kinh tế của EU và của ASEAN có khả năng bổ sung tốt cho nhau. EU lại là một
trong ít đối tác đối thoại được ASEAN và các nước thành viên của nó coi là “Cường
quốc lành”. Nhưng trong thực tế, mối quan hệ này lại phát triển chậm chạp hơn so
với các mối quan hệ mà ASEAN thiết lập muộn hơn với các đối tác đối thoại khác,
đặc biệt là Trung Quốc. Đây là một nghịch lý trong quan hệ quốc tế đương đại, nói
chung, quan hệ quốc tế của ASEAN, nói riêng. Việc lý giải nghịch lý này không chỉ
góp phần giúp EU và ASEAN tìm ra những nguyên nhân đang kìm hãm sự phát
triển của họ mà còn cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu lý thuyết về hợp
tác và hội nhập quốc tế.
Với nhận thức trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Quá trình phát triển quan
hệ EU - ASEAN từ năm 1994 đến năm 2015” làm đề tài Luận án Tiến sỹ Lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích: Làm rõ sự tiến triển của quan hệ EU – ASEAN từ 1994 đến
2015, những thành tựu, hạn chế của mối quan hệ này và tác động của nó tới mỗi bên
tham gia và tới Việt Nam.
Về nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận án là:

2


- Phân tích những nhân tố tác động tới quá trình phát triển của quan hệ EU –
ASEAN trong giai đoạn được nghiên cứu (1994 - 2015);
- Phục dựng lại quá trình phát triển của mối quan hệ này trên một số lĩnh vực
cơ bản;
- Làm rõ những thành tựu và hạn chế của quan hệ EU – ASEAN và nguyên
nhân của những thành tựu và hạn chế đó;
- Chỉ ra những đặc điểm của quan hệ EU – ASEAN trong giai đoạn 1994-2015;
- Phân tích tác động của quan hệ EU – ASEAN đối với EU, với ASEAN và
Việt Nam;
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình phát triển của quan hệ EU ASEAN từ 1994 tới 2015 và lấy EU là chủ thể trong mối quan hệ đó.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Từ năm 1994 đến hết năm 2015.
Lý do chọn năm 1994 và 2015 là mốc bắt đầu và kết thúc nghiên cứu vì:
Về mốc 1994:
i) Là năm EU công bố văn kiện quan trọng “Hướng tới một Chiến lược
châu Á mới” làm nền tảng cho sự phát triển quan hệ EU với châu Á, trong đó có
Đông Nam Á.
ii) Trong văn kiện này, EU xác định ASEAN là cửa ngõ để tiến vào khu vực
châu Á, vì thế, đã quyết định tạo ra một sự năng động mới cho quan hệ EU ASEAN tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao EU - ASEAN (AEMM) họp tại
Karlsruhe, CHLB Đức tháng 9/1994. Từ đây quan hệ EU - ASEAN bước vào giai
đoạn phát triển mới.
Về mốc cuối 2015: Có 3 lý do để nghiên cứu sinh chọn mốc này:
(i) ASEAN đã hoàn thành việc xây dựng Cộng đồng ASEAN (AC). Từ đây,
ASEAN bước vào giai đoạn phát triển mới với mục tiêu hiện thực hóa Tầm nhìn
Cộng đồng ASEAN 2025. Quan hệ của EU với ASEAN ở giai đoạn sau 2015 sẽ có
những điều chỉnh mới, nhằm giúp EU phát huy được các lợi thế so sánh của họ, đặc
biệt là các kinh nghiệm hội nhập khu vực ở cấp độ cao hơn để có thể cạnh tranh
thành công với các đối tác đối thoại khác ở Đông Nam Á. Về phía ASEAN, quan hệ

3


với EU được chờ đợi giúp Hiệp hội củng cố AC và tạo tiền đề cần thiết để bước
sang nấc thang hội nhập khu vực cao hơn. Như vậy, sau 2015, quan hệ EU ASEAN sẽ chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, với những mục tiêu mới, cao
hơn giai đoạn 1994 - 2015.
(ii) Việc dừng nghiên cứu về quan hệ EU - ASEAN vào cuối 2015 sẽ tạo cơ
hội đánh giá về mối quan hệ này trong một thập niên rưỡi của kỷ nguyên sau Chiến
tranh lạnh và chỉ ra những tiền đề mà nó đã tạo ra cho những bước phát triển mới
của quan hệ EU - ASEAN sau 2015.

(iii) Tháng 5 năm 2015, Nghị viện và Hội đồng châu Âu đưa ra “Thông cáo
chung EU - ASEAN: Một quan hệ đối tác với mục tiêu chiến lược”. Trong Thông
cáo đó, EU đặt ra mục tiêu nâng cấp quan hệ EU - ASEAN lên Quan hệ đối tác
chiến lược. Từ 2016, các hoạt động của EU được tập trung vào việc chuẩn bị cho sự
nâng cấp trên.
Như vậy, giai đoạn 1994 - 2015 là giai đoạn EU và ASEAN củng cố, nâng cấp
và hiện thực hóa Quan hệ đối tác tăng cường. Từ 2016, mối quan hệ này được
chuẩn bị để bước sang một giai đoạn phát triển mới, cao hơn.
- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu vào khu vực EU và ASEAN,
xét từ phương diện lãnh thổ, địa - chính trị và địa - kinh tế .
- Về nội dung:
Nghiên cứu quan hệ song phương giữa Liên minh châu Âu (trước 1/1/1993 gọi
là Cộng đồng châu Âu) với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á với tư cách là hai tổ
chức hợp tác khu vực, hai chủ thể quan hệ quốc tế.
Quan hệ giữa các thành viên EU với các thành viên ASEAN không thuộc
phạm vi nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các mối quan
hệ này được sử dụng để minh họa cho việc thực hiện các quyết định, các dự án hợp tác
giữa EU và ASEAN ở cấp độ các nhà nước thành viên của hai bên.
Trong quá trình xúc tiến hội nhập kinh tế với ASEAN, EU đã 3 lần thay đổi
cách tiếp cận từ hội nhập kinh tế với cả ASEAN với tư cách một thực thể sang hội
nhập với từng quốc gia, rồi lại trở lại cách tiếp cận ban đầu từ 2017. Vì thế, hội

4


nhập kinh tế của EU với một vài nước thành viên ASEAN cũng thuộc phạm vi
nghiên cứu của luận án này.
Ngoài ra, do thực tế quan hệ EU - ASEAN giai đoạn 1994 - 2015 chưa trở
thành một mối quan hệ phát triển toàn diện và cũng do những khó khăn trong tiếp
cận tư liệu nên luận án chỉ tập trung phân tích quan hệ EEC/EU - ASEAN trên một

số lĩnh vực cơ bản: Chính trị ngoại giao, an ninh, thương mại, đầu tư và hợp tác hội
nhập khu vực.
4. Phương pháp luận, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Luận án sử dụng các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam về các vấn đề quốc tế làm phương pháp luận để nghiên cứu các vấn đề của
luận án.
Về cách tiếp cận
Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của ngành Quan hệ Quốc tế
(Chủ nghĩa Hiện thực, Chủ nghĩa Tự do và Chủ nghĩa Kiến tạo) và lý thuyết về hội
nhập kinh tế khu vực làm phương pháp tiếp cận và giải quyết các nội dung khác
nhau của luận án.
Về phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng những phương pháp cơ bản của khoa học Lịch sử (thu thập
và khảo cứu văn bản, sách tham khảo; phương pháp Lịch đại để dựng lại quá trình
phát triển của quan hệ EU - ASEAN trong giai đoạn 1994 - 2015; phương pháp
Đồng đại để so sánh quan hệ EU - ASEAN với quan hệ của một vài đối tác đối
thoại khác với ASEAN trong cùng thời kỳ.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp phổ biến của một số
ngành khoa học xã hội khác như thống kê, lập biểu, bảng, phương pháp lô gich và
phỏng vấn, khi cần thiết và thích hợp.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Phục dựng được quá trình phát triển của quan hệ EC/EU – ASEAN trong
giai đoạn 1994 – 2015 trên một số lĩnh vực chính.
- Nhận diện được một số đặc điểm cơ bản của mối quan hệ trên.

5



- Làm rõ những thành tựu, hạn chế của quan hệ EU - ASEAN giai đoạn 1994 2015 và lý giải được vì sao mối quan hệ này lại phát triển chậm chạp hơn quan hệ
của một vài đối tác đối thoại khác với ASEAN.
- Chỉ ra được những tác động của quan hệ EU - ASEAN đối với EU, với
ASEAN và với quan hệ EU - Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Các kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa về phương diện lý luận.
Thứ nhất, thông qua việc làm rõ bản chất và đặc điểm của quan hệ EU ASEAN ở thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, luận án làm rõ những thay đổi trong môi
trường chính trị, kinh tế quốc tế đã tác động tới quan hệ giữa các tổ chức hợp tác
khu vực nói riêng, quan hệ giữa các khu vực, nói chung, như thế nào.
Thứ hai, sự phát triển quan hệ giữa hai khu vực không tùy thuộc nhiều vào các
tiền đề khách quan thuận lợi. EU và ASEAN có nhiều tiền đề thuận lợi để thúc đẩy
quan hệ giữa hai bên. Nhưng trong thực tế, mối quan hệ này lại phát triển rất chậm
chạp và chưa toàn diện. Thực tế đó cho thấy lợi ích mà các bên tham gia vào một
mối quan hệ quốc tế nào đó mới là nhân tố quyết định sự phát triển của nó.
Về ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp một sự hiểu biết có tính hệ thống và toàn diện
về mối quan hệ này, giúp cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam thêm
căn cứ khoa học để xây dựng chính sách tham gia vào quan hệ ASEAN - EU và đề
ra các biện pháp thích hợp nhằm khai thác tối đa những lợi ích và tiềm năng phát
triển của mối quan hệ đó phục vụ cho công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước.
Các kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng như một tài liệu tham
khảo đáng tin cậy cho việc nghiên cứu và giảng dạy về EU, về quan hệ EU ASEAN/ASEAN - EU ở các cơ sở nghiên cứu và đào tạo cao học tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài.
Chương này nhìn lại tình hình nghiên cứu về đề tài, từ đó làm rõ những kết
quả khoa học mà luận án sẽ kế thừa và những vấn đề cần sửa chữa, bổ sung.
Chương 2: Thực tế phát triển của quan hệ EU – ASEAN giai đoạn 1994 - 2001.

6



Nội dung khái quát lịch sử phát triển quan hệ EEC/EU – ASEAN trước 1994,
phân tích các nhân tố khách quan, chủ quan tác động và thực tế phát triển của nó từ
1994 - 2001.
Chương 3: Những tiến triển mới trong quan hệ EU - ASEAN giai đoạn
2001 - 2015.
Nội dung phân tích những nhân tố mới tác động, cũng như những tiến triển
của quan hệ EU - ASEAN từ 2001 đến 2015.
Chương 4: Nhận xét về quan hệ EU – ASEAN giai đoạn 1994 - 2015.
Nội dung phân tích những thành tựu, hạn chế và những đặc điểm của quan hệ EU
- ASEAN; Tác động của nó đối với EU, ASEAN và với quan hệ EU - Việt Nam.

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Nhóm công trình viết về quá trình và các giai đoạn phát triển của
quan hệ EU - ASEAN
Có khá nhiều công trình viết về chủ đề này. Trong chừng mực chúng tôi có thể
tiếp cận được, có thể kể ra một số công trình chính sau:
Về các giai đoạn phát triển của quan hệ EU – ASEAN: Có 3 công trình tiêu biểu:
Bài viết “Quan hệ EU - ASEAN/ASEAN - EU” (EU-ASEAN/ASEAN-EU:
Relations) [149] của Paul Joseph Lim (2013). Lim chia sự phát triển quan hệ EU ASEAN thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ 1977 cho tới cuối những năm 1990, các
quan hệ chủ yếu là thương mại và kinh tế. Tới cuối những năm 1990, EU và
ASEAN nhận thấy các hiệp định hiện có không đủ đáp ứng cho việc tăng cường
mối quan hệ, cần thiết phải nâng cấp, tạo ra một cơ sở tốt hơn cho đối thoại chính trị

và mở rộng hợp tác sang nhiều lĩnh vực hơn; Giai đoạn 2: Những năm 90. Theo
Lim, đây là thập kỷ bất đồng giữa EU và ASEAN. Sau Chiến tranh Lạnh, EU dồn
sự tập trung vào các vấn đề về quyền con người và dân chủ. Chúng được đề cập
ngay trong AEMM đầu tiên vào năm 1991 và từ đó đã ảnh hưởng tới việc sửa đổi
Hiệp định Hợp tác EU - ASEAN vào năm 1992 vì sự phản đối của Bồ Đào Nha đối
với vấn đề Đông Timor. Cả thập kỷ này chỉ có hai điểm sáng: Hợp tác về vấn đề
Campuchia đạt kết quả tốt và ý tưởng về thành lập Nhóm Các Nhân Vật Xuất Sắc
(EPG) để phát triển một cách tiếp cận toàn diện đối với các quan hệ chính trị, an
ninh, kinh tế và văn hóa EU – ASEAN được đưa ra tại AEMM 11 tháng 9/1994;
Giai đoạn 3 bắt đầu từ những năm 2000, là thời kỳ “tốt hơn về phương diện chính
trị”, biểu hiện bằng: Sự kiện Đại sứ Đức trình thư Ủy nhiệm lên Tổng Thư ký
ASEAN, trong đó tuyên bố hai bên không có kình địch và chia sẻ bộ gien chung
(2010); Ra Thông cáo Báo chí chung “ASEAN - EU: Mối quan hệ gia đình”
(1/3/2011); Thông qua Tuyên bố Nuremberg về “Quan hệ đối tác tăng cường EU –
ASEAN” (15/3/2007), và Kế hoạch hành động để thực hiện Tuyên bố Nuremberg.

8


Quan hệ kinh tế cũng phát triển với việc ký PCA giữa EU với một loạt nước
ASEAN. Hội đàm về quốc phòng giữa EU và ASEAN cũng đã được khởi động.
Cách phân chia các giai đoạn phát triển trong quan hệ EU - ASEAN của Lim
chưa thuyết phục. Trong thực tế, những bước tiến của quan hệ này đều chịu ảnh
hưởng của các chiến lược châu Á 1994 và 2001 của EU. Những điều chỉnh chính
sách của EU trong quan hệ với ASEAN thực chất là nhằm giúp EU thực hiện thành
công các mục tiêu trong các Chiến lược châu Á của họ ở Đông Nam Á.
Cũng phân chia sự phát triển quan hệ EU - ASEAN thành 3 giai đoạn, nhưng
Báo cáo hoàn thiện EU – GRASP [114] cho rằng giai đoạn 1 (1967 – 1980), mang
tính chất phi chính thức, được cấu trúc lỏng lẻo xung quanh ASEAN; Giai đoạn 2
(1980 - 1994) được dẫn dắt chủ yếu bởi yếu tố địa chính trị với việc gia tăng nhanh

chóng viện trợ cho Đông Nam Á. Các sự kiện đầu những năm 1990 một lần nữa
thay đổi quan hệ giữa EU và Đông Nam Á, từ đó xuất hiện Chiến lược châu Á mới
vào năm 1994 và thiết lập ASEM; Giai đoạn 3 được xác định từ 1994 tới nay.
Theo GRASP, vào năm 1994, hợp tác đã được làm sâu sắc hơn tiếp sau hội
nghị AEMM lần thứ 11 ở Karlsruhe, Germany. Giai đoạn này diễn ra một loạt sự
kiện quan trọng như ký Nghị định thư về việc tham gia của Lào Campuchia vào
Hiệp định Hợp tác EEC - ASEAN 1980 (năm 2000). Năm 2003, ra Tuyên bố chung
ASEAN - EU về Hợp tác chống khủng bố; Năm 2007 nổi bật với sự kiện ký Tuyên
bố Nuremberg và Chương trình hành động để tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn các
lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa xã hội, các vấn đề phát triển, cũng
như vấn đề biến đổi khí hậu/môi trường. Đàm phán FTA EU - ASEAN được khởi
động cùng năm, tiếp theo là Hội nghị cấp cao EU - ASEAN tại Singapore, tháng 11
đã tái khẳng định nhiều cam kết về tăng cường hợp tác.
Cách phân chia các giai đoạn như trên của GRASP rất khó được chia sẻ.
Không thể lấy mốc 1967 để mở đầu cho giai đoạn 1 trong quan hệ EU - ASEAN bởi
vì năm 1967 ASEAN mới thành lập, đến tận 1972 mới diễn ra các cuộc tiếp xúc đầu
tiên giữa hai bên. Cách phân chia này của GRASP đã bỏ qua sự kiện quan trọng
nhất trong quan hệ EU - ASEAN đó là thiết lập quan hệ đối thoại EC – ASEAN vào
năm 1977.

9


Mốc 1980 - 1994 có thể chấp nhận được vì 1980 là năm đánh dấu việc ký
Hiệp định hợp tác EEC - ASEAN tạo nền tảng pháp lý và thể chế hợp tác cho quan
hệ EU - ASEAN. Năm 1994 mở đầu cho giai đoạn phát triển mới trong quan hệ
giữa hai chủ thể khu vực này. Tuy nhiên, nếu coi giai đoạn thứ ba bắt đầu từ 1994
cho tới hiện nay thì lại không đủ thuyết phục. Bởi vì với Tuyên bố Nuremberg, quan
hệ EU - ASEAN đã được tăng cường mạnh, các hoạt động hợp tác được triển khai
một cách hệ thống và toàn diện hơn thông qua các Kế hoạch hành động 2007 - 2012

và 2013 - 2017.
Các giai đoạn phát triển trong quan hệ EU - ASEAN cũng được Yeo Lay
Hwee đề cập tới trong bài viết “How should ASEAN engage the EU? Reflections on
ASEAN’s external relations” (ASEAN cần can dự với EU như thế nào? Những suy
nghĩ về quan hệ đối ngoại của ASEAN) [130]. Hwee cũng chia quá trình phát triển
quan hệ EU - ASEAN thành 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 (1978 - 1989) với tiêu điểm là
hợp tác kinh tế và phát triển. Trong hợp tác chính trị, những năm 1980 tập trung vào
vấn đề Campuchia và Afghanistan. Đánh giá về giai đoạn này, tác giả cho rằng:
“Các quan hệ giữa EU và ASEAN là thấp nhưng hữu hảo” và trong nhiều lĩnh vực
vẫn được nhận thức là một quan hệ đối tác “Cho và Nhận”, “không bình đẳng”; Giai
đoạn 2 không được nói rõ thời điểm bắt đầu và kết thúc, nhưng qua các nội dung có
thể thấy nó bắt đầu từ 1990 và kéo dài tới hết năm 2000. Ở giai đoạn này, tính chất
của mối quan hệ giữa hai khu vực khá căng thẳng do EU đưa vấn đề nhân quyền
vào trung tâm đối thoại và hợp tác EU – ASEAN, dẫn tới sự thụt lùi khỏi các nước
Đông Nam Á; Giai đoạn 3 cũng không được chỉ ra một cách rõ ràng. Tác giả viết:
“Sự kiện 11/9, sự trỗi dậy kịch tính của Trung Quốc” và “sự phát hiện lại” ASEAN
sau khủng hoảng tài chính châu Á đã dẫn EU tới một sự tiếp cận thực dụng và khác
biệt đối với ASEAN và các nước thành viên của nó như được đề ra trong thông cáo
của Ủy ban “Một quan hệ đối tác mới với Đông Nam Á”. Như vậy có thể hiểu giai
đoạn 3 bắt đầu vào năm 2001 và kéo dài tới nay.
Cách phân chia các giai đoạn phát triển trong quan hệ EU - ASEAN của Hwee
gần giống với cách phân chia của Lim, nghĩa là không dựa trên các sự kiện có tính
dấu mốc trong sự phát triển của quan hệ EU – ASEAN, mà căn cứ vào đặc điểm
phát triển của mối quan hệ này trong mỗi thập kỷ.
10


Về tổng thể quan hệ EU - ASEAN, có trang thông tin điện tử của ASEAN
“Overview ASEAN - EU Dialogue Relations” (Nhìn lại quan hệ đối thoại ASEAN)
[66], trong đó, tác giả không phân chia sự phát triển quan hệ EU - ASEAN/ASEAN

- EU thành các giai đoạn cụ thể mà trình bày theo trình tự thời gian và đề cập tới
các hoạt động hợp tác chính trong mỗi lĩnh vực.
Sự phát triển quan hệ EU - ASEAN được phân tích sâu hơn trong các công
trình nghiên cứu của khá nhiều học giả. Đáng chú ý có “ASEAN–EU Relations:
From Regional Integration Assistance to Security Significance?” (Quan hệ ASEANEU: Từ viện trợ hội nhập khu vực tới an ninh?) [60] của Anja Jetschke và Clara
Portela. Bài viết nhận định: “Các nhà hoạch định chính sách của EU ít chú ý đến
khu vực ASEAN mặc dù đã bước vào một loạt hiệp định với ASEAN cũng như với
các nước thành viên… Mặc dù đã đạt được một số kết quả hợp tác quan trọng, EU
vẫn đóng vai trò nhỏ trong khu vực. Để tham gia vào sự năng động kinh tế của
Đông Nam Á, EU phải làm rõ tầm quan trọng của nó đối với khu vực, vượt ra
ngoài khuôn khổ các vấn đề thương mại”. Hai tác giả đã chỉ ra các cơ hội cho sự
phát triển quan hệ EU - ASEAN trong những năm sắp tới. Theo đó, mối quan hệ
này đang đứng trước 2 cơ hội để phát triển: i) Hiến chương ASEAN 2007 đã làm
cho thể chế của ASEAN phù hợp hơn với EU. ii) Sự cởi mở về chính trị của
Myanmar tạo cho EU cơ hội khuyến khích các sáng kiến khu vực sâu rộng hơn để
thúc đẩy quan hệ EU - ASEAN.
Tuy nhiên, vai trò của EU như một nhân tố về an ninh ở Đông Nam Á vẫn ở
ngoài lề, thể hiện qua việc ASEAN phản đối nỗ lực của EU tham gia EAS. Liệu
EU có thể tham gia vào EAS trong tương lai hay không phụ thuộc vào các chủ thể
khu vực đánh giá như thế nào về những đóng góp của EU vào các vấn đề an ninh
lớn. Do vậy, nếu EU muốn tham gia vào sự năng động kinh tế ở Đông Nam Á, nó
sẽ phải tăng cường sự hiện diện chính trị trong khu vực. Đã đến lúc EU cần nhân
đôi các cố gắng của mình. Một quan hệ EU - ASEAN được làm sống động có thể
tăng sức mạnh cho ASEAN, sẽ cho phép các tiếp cận mới đối với giải pháp xung
đột, đặc biệt là ở biển Đông và có lợi cho những lợi ích kinh tế và chính trị của EU.
Sự phát triển của quan hệ EU - ASEAN còn được thảo luận trong bài viết gần
đây của Yeo Lay Hwee. “ASEAN’s Cooperation with the European Union – ASEM
11



and Beyond” (Hợp tác của ASEAN với Liên minh châu Âu: ASEM và xa hơn)
[131]. Trong đó, tác giả đã khái quát lại quá trình phát triển của quan hệ ASEAN –
EU từ 1972 tới 2017. Đánh giá chung về mối quan hệ này, Hwee cho rằng “Liên
minh châu Âu là một trong những đối tác đối thoại lâu đời nhất của ASEAN. Trong
khi các quan hệ kinh tế giữa hai khối tiến bộ một cách vững chắc, quan hệ chính trị
và ngoại giao được mở rộng, hợp tác của ASEAN với EU còn chưa đạt tới tiềm
năng đầy đủ của nó… hợp tác ASEAN - EU không phải luôn trôi chảy. Nó có
những thời điểm cay đắng, nhưng nhìn về phía trước, thì đã đến lúc hai bên cân
nhắc xem hai tổ chức khu vực này đưa quan hệ đối tác với mục tiêu chiến lược như
thế nào” [131]. Những cơ hội và thách thức mà EU và ASEAN phải đối diện khi
thực hiện những mục tiêu được đề ra trong Thông cáo chung “EU - ASEAN: Một
quan hệ đối tác với mục tiêu chiến lược” cũng được đề cập đến kèm theo một số
khuyến nghị. Điểm đáng chú ý trong bài viết của Hwee là tác giả không đề cập gì
tới hợp tác ASEAN - EU trong ASEM, ngoài sự đánh giá về vai trò của mối quan
hệ này trong quá trình thành lập ASEM. Theo tác giả, “… ASEM sẽ không khởi
động nhanh như vậy, nếu không có nền tảng của các mối quan hệ lâu dài giữa
ASEAN và EU” [131].
Hỗ trợ hội nhập khu vực của EU cho ASEAN cũng là chủ đề được đề cập tới.
Cụ thể, “từ năm 2003, EU đã sử dụng viện trợ đối với hội nhập khu vực của
ASEAN như một phương cách để chứng tỏ hiện diện về kinh tế và chính trị ở đây”.
Sau khi điểm lại các chương trình, các dự án hỗ trợ hội nhập khu vực của EU cho
ASEAN, Anja Jetschke và Clara Portela đã chỉ ra những thách thức mà chính sách
hỗ trợ hội nhập khu vực ASEAN của EU đang phải đối diện, Đó là: i) Viện trợ hội
nhập khu vực đang làm mất đi lợi ích đặc biệt đối với các quan hệ EU - ASEAN vì
sự viện trợ đó không còn đến từ riêng EU mà còn đến từ Australia, ADB, Mỹ và tất
cả cả những nước, vốn giống như EU, đang muốn truyền bá khái niệm riêng của họ
về hội nhập khu vực. Gia tăng sự cạnh tranh trong viện trợ đang hạn chế khả
năng của các chương trình của EU để ra chứng tỏ về sự hợp tác của EU với
ASEAN. ii) Mục tiêu của hội nhập khu vực bị hoài nghi bởi những phát triển mới
mà EU không thể kiểm soát. iii) Việc EU tham gia vào các FTAs và các hiệp định

đối tác và hợp tác (PCAs) có thể làm xói mòn tầm nhìn của EU về thúc đẩy hội
12


nhập đa phương trong khu vực. Từ việc phân tích trên, các tác giả khuyến nghị:
“EU không nên đóng vai trò ở Đông Nam Á chỉ mỗi trong khuôn khổ kinh tế… EU
cần tiếp tục hỗ trợ nhập khu vực và khuyến khích lập trường chung giữa các nhà
nước thành viên ASEAN. Nó cũng cần làm rõ cách tiếp cận song phương của EU có
thể được kết hợp như thế nào với mục tiêu dài hạn về ủng hộ chủ nghĩa đa phương
trong khu vực”.
Cùng thảo luận về các vấn đề trong quan hệ EU - ASEAN còn có nhiều bài
nghiên cứu khác, như “The European Union and ASEAN: Two to Tango?” (Liên
minh châu Âu và ASEAN: Hai khu vực khiêu vũ điệu Tăng gô?” [90] của David
Camroux; “Cooperation between ASEAN and EU” (Hợp tác ASEAN và EU), hay
cuốn “EU - ASEAN: Natural Partners” (EU - ASEAN: Những đối tác Tự nhiên)
[94] của Phái đoàn EU ở Jakarta. Cuốn sách đề cập tới rất nhiều vấn đề: Từ điểm lại
các sự kiện quan trọng nhất trong quan hệ EU - ASEAN tới các hiệp định kinh tế
giữa EU và các nước thành viên ASEAN. Điểm nhấn là những tư liệu, phân tích
của các tác giả về các chương trình, dự án hỗ trợ hội nhập khu vực mà EU dành
cho ASEAN từ 2003 tới nay. Đây là nguồn tư liệu gốc rất quý giúp cho việc
nghiên cứu về quan hệ EU - ASEAN, nói chung, hỗ trợ hội nhập khu vực ASEAN
của EU, nói riêng.
Một công trình đáng chú ý khác cùng chủ đề là “Evaluation of EC cooperation with ASEAN” (Đánh giá về hợp tác của EU với ASEAN) [106] của nhóm
các chuyên gia hàng đầu về quan hệ EU - ASEAN ở châu Âu. Báo cáo gồm rất
nhiều nội dung, nhưng liên quan trực tiếp tới đề tài luận án là ở Phụ lục 3 với tiêu đề
“Chương trình nghị sự về hợp tác của ASEAN và những đóng góp cụ thể của EC”.
Phụ lục đã điểm lại những phát triển của ASEAN trong tất cả các lĩnh vực từ hội
nhập khu vực, tới chính trị, an ninh và văn hóa xã hội, kể từ sau Chiến tranh Lạnh. Ở
mỗi lĩnh vực, các tác giả đều đề cập tới các hoạt động hợp tác của EU với ASEAN.
Nội dung thứ hai của Phụ lục 3 đề cập tới bối cảnh hợp tác với châu Á của EC,

phân tích các sáng kiến hợp tác với châu Á do EC đề xuất thông qua Thông cáo
năm 2001 “Châu Âu và châu Á: Một khuôn khổ chiến lược vì Quan hệ đối tác tăng
cường”; chương trình Tài liệu chiến lược và Chương trình chỉ dẫn cho các Chương
trình đa quốc gia ở châu Á hay còn gọi là “Tài liệu chiến lược khu vực” ( RSP) 2005
13


- 2006; và văn kiện Lập chương trình khu vực cho văn kiện chiến lược châu Á 2007
- 2013. Sau khi phân tích nội dung, cách tiếp cận và các ưu tiên hợp tác, các tác giả
đã tóm tắt sự ra đời và các hoạt động trong tiến trình ASEM.
Nội dung thứ ba của Phụ lục 3 đề cập tới các chương trình hỗ trợ hội nhập khu
vực của ASEAN. “Từ năm 2003, khi ASEAN đề xuất xây dựng AC, EC bắt đầu tập
trung ngân sách hợp tác để giúp ASEAN đạt được mục tiêu táo bạo trên, đặc biệt là
hội nhập khu vực, nhất là kinh tế khu vực”. Hỗ trợ hội nhập khu vực của ASEAN
được đưa vào tất cả các văn kiện hợp tác giữa EU và ASEAN từ 2007 đến nay như
Kế hoạch hành động để thực hiện Tuyên bố Nuremberg (2007 - 2012), trong
Chiến lược của EC “Một quan hệ đối tác mới với Đông Nam Á”. Từ việc phân
tích nội dung cụ thể của các văn kiện trên, các tác giả đã làm rõ cách tiếp cận hỗ
trợ hội nhập khu vực của EU, từ nguyên tắc chỉ đạo việc lập các dự án, đến các
lĩnh vực ưu tiên…
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về quan hệ kinh tế EU - ASEAN
Chủ đề này thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài, nổi bật
có “The European Union and Asean: Trade and Investment Issues” (Liên minh
châu Âu và ASEAN: Các vấn đề Thương mại và Đầu tư) [153] của nhóm tác giả
Roger Strange, Jim Slater và Corradi Molteni, xuất bản năm 2000. Đây là một công
trình nghiên cứu công phu, đề cập tới rất nhiều khía cạnh xung quanh chủ đề hợp
tác thương mại và đầu tư EU – ASEAN trong bối cảnh trước, trong và sau khủng
hoảng kinh tế châu Á. Cuốn sách cung cấp một bức tranh vừa tổng thể vừa chi tiết
khi nghiên cứu 3 trường hợp là Thái Lan, Malaysia và Việt Nam, đồng thời đưa ra
các dự báo bằng cách so sánh chiến dịch mở rộng ra các quốc gia từng theo con

đường kinh tế tập trung của cả ASEAN lẫn EU.
Về quan hệ thương mại giữa hai khu vực thời điểm trước năm 1990, Robert C.
Hine [88] bằng nhiều số liệu hợp tác buôn bán hai chiều, đã nhận định, mặc dù EU
đã có một mối quan hệ lâu dài trong lịch sử với hầu hết các nước ASEAN, những
kết nối về mặt thể chế giữa hai nhóm khu vực rất yếu ớt. Hiệp định 1980 mặc dù có
mục tiêu mang tới một diễn đàn đối thoại về chính trị và kinh tế, nhưng hầu như
không đạt được tiến bộ đáng kể nào cho đến tận đầu những năm 1990, nguyên nhân

14


là do EU bận rộn với các công việc đối nội, cũng như còn phải quan tâm tới các đối
tác thương mại khác, và ASEAN thì còn chưa đạt được hội nhập kinh tế.
Jim Slater đóng góp một bài viết rất giá trị về đầu tư trực tiếp từ ASEAN sang
EU giai đoạn 1985 - 1997 dựa trên số liệu thống kê từ 5 quốc gia ASEAN
(Indonesia, Philipines, Thái Lan, Malaysia, Singapore). Các vấn đề từ chính sách
của chính phủ, đến số liệu từ các doanh nghiệp đều được phân tích tỉ mỉ. Tác giả
cho rằng ASEAN đầu tư rất không đáng kể sang châu Âu, trái ngược hẳn với các
quốc gia châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Ngay cả Singapore,
quốc gia ASEAN đầu tư lớn nhất sang châu Âu, bao gồm cả những đầu tư dịch vụ
phi tài chính then chốt như giao thông và bưu chính viễn thông, cũng chỉ chiếm một
tỷ lệ rất nhỏ.
Cũng thảo luận về chủ đề trên có “The Evolution of EU - ASEAN
Relations: Legal Framework and Policy Change” (Sự tiến triển của quan hệ
EU - ASEAN: Khung pháp lý và thay đổi chính sách” [82] của Chien Huei Wu
với 2 nội dung chính: Những tiến triển trong chính sách thương mại và đầu tư
của EU đối với ASEAN và những phát triển trong quan hệ EU - ASEAN từ
năm 1994 tới năm 2013.
Ở nội dung thứ nhất, tác giả phân tích các hiệp định hợp tác kinh tế mà EC/EU
đã ký với ASEAN, hoặc với các nước thành viên của nó (PCA và FTA từ 1980 tới

nay). Về Hiệp định Hợp tác EEC – ASEAN 1980, Wu cho rằng “Hiệp định 1980
cho thấy mối quan tâm của các bên trong việc làm sâu sắc hợp tác kinh tế và thương
mại, nhưng vẫn là một tuyên bố về nguyên tắc và tuyên ngôn về thiện chí mà không
có các biện pháp cụ thể và cam kết đặc biệt. Ngoài cam kết dành cho nhau MFN,
Hiệp định hợp tác 1980 bao trùm lên 3 chủ đề chính: Thương mại, kinh tế và hợp
tác phát triển, đồng thời cung cấp những thể chế đầu tiên.”
Về Hiệp định hợp tác giữa EU và các nước thành viên ASEAN. Các hiệp định
này đã được ký với Việt nam, Lào, Campuchia trước khi 3 nước trên được tham gia
vào Hiệp định 1980. Theo tác giả, “so với Hiệp định 1980, các hiệp định ký với
các nước này có phạm vi rộng hơn và những cam kết hội nhập sâu hơn, phù hợp
với mô hình hợp tác thế hệ 3 của EU. Hợp tác thương mại, đầu tư và phát triển
tiếp tục là xương sống trong các hiệp định hợp tác với ba nước đó, nhưng có một
15


điểm mới cơ bản: Hợp tác môi trường, kiểm soát ma túy và thiết kế về thể chế
được phát triển hơn.”
Về Hiệp định khung về quan hệ đối tác và hợp tác (PCA). Từ sự phân tích các
điều khoản của PCA mà EU đã ký với Việt nam, Phillipiness và Indonesia, tác giả
nhận xét rằng “PAC không chỉ là về kinh tế mà còn là công cụ để EU theo đuổi các
mục tiêu đối ngoại rộng lớn hơn trên trường quốc tế”.
Chien cũng đã phân tích chính sách thương mại và đối ngoại của EU thông
qua Châu Âu Toàn cầu và Chiến lược Châu Âu 2020. Mục tiêu của Châu Âu Toàn
cầu là nâng cao năng lực cạnh tranh của EU trên thị trường thế giới. Để đạt mục tiêu
đó, EU chủ trương khởi động lại quá trình đàm phán FTA, nhưng đưa ra 2 nguyên
tắc chung, đó là: Tiềm năng thị trường và mức độ bảo hộ. Theo đó, ASEAN, Hàn
Quốc và Mercosus được xác định là như là những ưu tiên, còn Ấn độ, Nga, Các
nước vùng Vịnh có thể được cân nhắc [104].
Trong Chiến lược Châu Âu 2020, EU xác định tăng trưởng thông minh, bền
vững và bao trùm, trong đó, tăng cường khả năng cạnh tranh của EU vẫn là mục

tiêu chính. Trên cơ sở đó, EU đã thay đổi chính sách với ASEAN. Thứ nhất, EU coi
ASEAN như một khu vực và đã khởi động đàm phán FTA với ASEAN từ năm
2007. Tuy nhiên, cách tiếp cận khu vực với khu vực đã gặp phải một số cản trở, nên
đàm phán tạm dừng vào năm 2009; Thứ hai, EU quay sang đàm phán FTA song
phương với các nước thành viên ASEAN trên cơ sở từng trường hợp.
Đánh giá về sự thay đổi trên, tác giả cho rằng “từ những phát triển trên có thể
thấy chính sách thương mại đối ngoại của EU đã vận động từ chủ nghĩa đa phương
sang chủ nghĩa liên khu vực và cuối cùng là song phương”.
Về chính sách chung của EU đối với châu Á, tác giả đã lần lượt phân tích các
chiến lược châu Á mới của EU trong các năm 1994, 2001. “So với Thông cáo năm
1994, Ủy ban đã vận động vượt ra ngoài sự hiện diện về chính trị, kinh tế và nhấn
mạnh EU đã gia tăng được vị thế toàn cầu của một EU mở rộng, thay vì nhấn mạnh
sự gia tăng phát triển kinh tế với châu Á”.
Về chính sách của EU đối vớí ASEAN, trên cơ sở phân tích Thông cáo “Một
quan hệ đối tác mới với Đông Nam Á”, tác giả cho rằng “trong khi chi tiết hóa lợi
ích của EU đối với việc tăng cường quan hệ với ASEAN, Ủy ban đã nhấn mạnh
16


thực tế là các đối tác và các đối thủ cạnh tranh của EU đang thiết lập các quan hệ
đối tác và đồng minh với ASEAN có thể thách thức các lợi ích kinh tế của nó ở khu
vực. Do đó Ủy ban đề xuất các chiến lược cả tấn công và phòng thủ trong quan hệ
thương mại với ASEAN bằng việc cải thiện vị trí của EU trong thị trường ASEAN
và bảo vệ các lợi ích hiện có”.
Đánh giá về vị trí của ASEAN trong chính sách thương mại toàn cầu của EU,
Chien khẳng định: “Đông Nam Á đã đi vào tiêu điểm trong chính sách thương mại
của EU từ những năm 1990 và dần dần trở nên quan trọng. Ban đầu mục tiêu của
EU là đảm bảo sự hiện diện về kinh tế và gia tăng vai trò lãnh đạo của nó trong nền
kinh tế thế giới. Tiêu điểm về ASEAN cũng là một nhân tố lớn được vạch ra trong
Châu Âu toàn cầu. Những lợi ích kinh tế gia tăng kết hợp với các mục tiêu về chính

trị và an ninh đối với khu vực đã dọn đường cho các PCA và đàm phán FTA. Khi
quan sát những thay đổi trong chính sách thương mại của EU đối với ASEAN,
người ta có thể nhận thấy sự mở rộng các vấn đề thương mại, nhưng sự tương xứng
trong việc làm sâu sắc một vấn đề đơn lẻ thì không có”.
Ở nội dung thứ hai, tác giả không dựng lại quá trình phát triển quan hệ EU –
ASEAN, mà đề cập nhiều tới các vấn đề cản trở sự phát triển của mối này, đặc biệt
là xung đột trong nhận thức về nhân quyền giữa EU và ASEAN, vấn đề Myanmar.
“Sự tham gia ASEAN của Myanmar đã tiếp tục là phép thử đối với quyết tâm của
EU gắn các giá trị yêu thích của nó và năng lực gây ảnh hưởng tới hành vi của các
nhà lãnh đạo Myanmar. Điểm tế nhị ở đây là EU càng khẳng định tầm quan trọng
của nhân quyền bao nhiêu, sự trừng phạt áp đặt lên Myanmar càng khắc nghiệt, thì
năng lực của nó chuyển hóa (quân sự) càng yếu bấy nhiêu. Như vậy, EU đã tự làm
khó mình bởi sự bảo vệ hòa bình, tự do ngôn luận, luật pháp và bình đẳng”.
Ngoài hai nội dung chính trên, tác giả còn đề cập tới những nỗ lực của EU
nhằm cân bằng ảnh hưởng với Mỹ và Trung Quốc ở Đông Nam Á và đưa ra một vài
gợi ý về chính sách của EU đối với Đông Nam Á trong thời gian tới.
Về chủ đề quan hệ thương mại còn có “EU – ASEAN trade facing free trade
negotiations” (thương mại EU - ASEAN đối diện với đàm phán thương mại tự do)
[139] của Lena Lindberg và Claes G. Alvstam Handelshögskolan. Theo tác giả, có
một sự bất cân xứng trong các quan hệ thương mại EU - ASEAN, và mối quan hệ
17


này chỉ đóng vai trò ngoài lề trong thương mại đối ngoại của EU, và các nước
ASEAN phụ thuộc vào EU mạnh hơn. Thứ hai, sự phụ thuộc lẫn nhau, được đo
trong phần của thương mại đối ngoại có đi có lại về hàng hóa trong mối quan hệ với
tổng giá trị thương mại, đã giảm xuống trong những năm gần đây. Sự suy giảm là
do mỗi bên dành ưu tiên cho nội bộ khu vực hơn là cho liên khu vực. EU đã mở
rộng từ 9 đến 27 thành viên trong thời gian từ 1977 - 2007, đồng thời buôn bán nội
khối đã tăng từ 51% lên 66% trong cùng thời kỳ. Trường hợp ASEAN, phần của

buôn bán nội khối đã tăng từ 17% lên 26% trong 30 năm.
Về truyền thống, quan hệ kinh tế đối ngoại của ASEAN bị thống trị bởi 3 đối
tác: Mỹ, Nhật và Tây Âu. Nhưng giờ đây sự phụ thuộc của ASEAN đã dịch chuyển
sang Đại Trung Hoa, bao gồm Hoa lục, Hồng Kông và Đài Loan. Trong bối cảnh
đó, “Một FTA giữa EU và ASEAN có thể là một cố gắng làm suy giảm sự phụ
thuộc ấy, hay ít nhất là ổn định mức độ như hiện nay”.
FTA EU – ASEAN là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều học giả và nó
đã ít nhiều được đề cập tới trong các bài viết chung về quan hệ EU - ASEAN.
Chẳng hạn trong bài viết của Lim đã phân tích ở trên, tác giả cho rằng FTA EU ASEAN thất bại vì Myanmar bị loại bỏ, các nước LDC bị gạt sang một bên, Luật
ngân hàng của Singapore, thiếu năng lực đàm phán của ASEAN, bộ mày đàm phán
chung và, thiếu ý chí chính trị” [149]. Một vài học giả khác như Anja Jetschke,
Clara Portela cũng chia sẻ quan điểm trên.
Tuy nhiên, công trình nghiên cứu công phu nhất về FTA EU - ASEAN mà
chúng tôi tìm thấy là “Abstract: EU- ASEAN Free Trade Agreement: Negociations”
(Tóm tắt: Hiệp định mậu dịch tự do EU- ASEAN: Các cuộc đàm phán) của Michela
Astuto. Astuto cho rằng “chiến lược của EU là tìm các đối tác sẵn sàng tham gia
vào các FTA vốn sẽ không chỉ giảm các hàng rào thuế quan truyền thống mà sẽ bao
trùm lên thương mại trong dịch vụ, các hàng rào phi thuế quan, mua sắm công, bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ. Ủy ban châu Âu muốn đem lên bàn thương lượng cả các
vấn đề như sự hội tụ các định chế về quy tắc và các vấn đề phi thương mại”. Astuto
cũng tóm tắt quá trình đàm phán FTA giữa EU và ASEAN từ 2007 tới 2009 và phân
tích các nội dung đàm phán. Đánh giá về nguyên nhân thất bại của đàm phán, tác
18


×