Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Hoàng Lê nhất thống chí 16

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.32 KB, 8 trang )

Hoàng Lê nhất thống chí
Ngô gia văn phái
Hồi 16

Tế Linh đường, sứ Thanh bị lừa
Chết Yên Kinh, vua Lê nuốt hận

Lại nói, vua Quang Trung toan lập mưu đánh Trung Quốc, đêm ngày bàn bạc với các
tướng tá, họ đều nói:
- Nên kê sổ dân cho đúng để kén quân lính, đó là việc cần kíp ngày nay.
Vua Quang Trung lấy làm phải, bèn hạ lệnh cho các trấn phải đốc thúc các xã sửa lại sổ
đinh, phát "tín bài" (thẻ làm tin) để thống kê dân chúng vào sổ, rồi cử người coi sóc xét
hỏi. Tổng trưởng các huyện có nhiều người vì cố tình giấu giếm mà bị chém. Việc đi lại
trên đường, nhân dân đều lấy làm khổ. Viên phân tri ở các huyện nhóm họp số dân đã ghi
trong sổ lại, chiếu sổ cấp cho mỗi người một cái thẻ; giữa thẻ in bốn chữ triện "Thiên hạ
đại tín" (niềm tin lớn của thiên hạ), bốn mép chung quanh thì viết họ tên quê quán của
những người có thẻ và in dấu ngón tay trỏ bên trái để làm bằng cứ. Mọi người đều phải
đeo thẻ ấy, gặp khi xét hỏi thì đưa ra trình; đó gọi là "tín bài". Ai không có thẻ, tức là dân
lậu, sẽ bị bắt đem sung quân (bị đày đi các nơi biên giới xa xôi để làm lính thú) và bắt tội
các người tổng trưởng, xã trưởng của họ.
Sổ đinh thành rồi, vẫn theo lệ ba đinh bắt một người lính. Lại sai các viên phân quản đem
quân đến các xã vây bắt, tra xét. Vì thế, dân gian nhốn nháo, nhiều người lẩn trốn vào các
khe núi.
Có người ở làng Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, tên là Trần Phương Bính
(nhiều sách chép là Trần Danh Bính), nguyên là con viên tiến sĩ đời Lê xưa là Trần Danh
Tố, không chịu đeo thẻ. Trấn thủ Nguyễn Diệu khen và tha cho không bắt tội.
Bính là một người bản tính thông minh nhanh nhẹn, lại sẵn có khí tiết, thường làm thơ để
tỏ chí của mình, có hai câu rằng:
Tim gan chất chứa hờn trời đất,
Mặt mũi đành trơ với tháng ngày.
Về sau, các cống sĩ và các hào mục địa phương họp quân ở làng Nga Khê, huyện Thiên


Lộc, định đánh úp thành Nghệ An. Họ bèn suy tôn Bính làm quân sư. Bọn Bính kéo quân
đến xã Bình Lãng, ven núi Hồng Lĩnh để đánh nhau cùng quân Tây Sơn. Bị thua trận, Bính
liền trèo lên đỉnh núi cao nhất của núi Hồng Lĩnh, tự tay đề một bài thơ vào vách chùa ở đó
như sau:
Đền nước không còn chước,
Bên mình có mũi dao.
Ngoái cổ nhìn Hồng Lĩnh.
Chín mươi chín đỉnh cao.
Rồi Bính lấy dao đâm thọc vào bụng mà chết; quân dân nghe tin, ai cũng thương xót.
Lại nói, vua Quang Trung, sau khi quyết định việc đánh Trung Quốc, bèn sai bề tôi là
Chiêu viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh, dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng
Đông, Quảng Tây. Điều đó không phải là bản tâm của vua Quang Trung, chẳng qua chỉ
muốn thử xem ý nhà Thanh ra sao mà thôi. Nhưng vừa lúc ấy thì vua Quang Trung bị bệnh
rồi mất. Hôm đó nhằm ngày mùa thu, tháng tám năm Nhâm Tý (về tháng vua Quang Trung
mất, có một vài tài liệu chép là tháng 9. Nhưng theo sự chứng minh rất xác đáng của ông
Hoàng Xuân Hãn (La Sơn phu tử, tr. 158-160), dựa vào sách Đại Nam thực lục và tài liệu
của các giáo sĩ phương Tây đã chép lúc đương thời, thì vua Quang Trung đã mất vào ngày
29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792). Cũng theo ông Hoàng Xuân Hãn, thì việc Hoàng Lê nhất
thống chí chép mất vào tháng 8 như ở đây cũng không hẳn là sai; vì theo sách lịch Tây Sơn
đương thời, tháng 7 năm Nhâm tý là tháng thiếu, ngày 29 lại là ngày cuối tháng, mà vua
Quang Trung lại mất vào khoảng nửa đêm, như thế thì chép tháng 7 hay tháng 8 cũng chỉ
chênh nhau chừng nửa giờ mà thôi), sau khi lên ngôi hoàng đế được 5 năm. Trước đó, khi
sứ nhà Thanh sang phong, vua Thanh có ban cho vua Quang Trung chiếc áo màu, trong
thêu bảy chữ bằng kim tuyến: Xa tâm chiết trục đa điền thử (câu này nghĩa đen là: "Bụng
xe gãy trục, nhiều chuột đồng". Theo Hán văn, chữ xa với chữ tâm hợp lại thành chữ Huệ
tên vua Quang Trung. Chuột thuộc về tý. ý nói năm tý vua Quang Trung chết). Bấy giờ
không ai hiểu ra sao, thì ra đến lúc này mới nghiệm.
Sau khi vua Quang Trung mất, việc cầu hôn và việc đòi đất không thấu đến triều đình
Trung Quốc, nên vua Thanh cũng không biết (theo gia phả họ Vũ (Vũ Văn Dũng) thì tờ
biểu đã đệ lên vua Thanh, và đã được vua Thanh nhận lời gả công chúa cùng trả lại đất

Quảng Đông. Sau nghe tin vua Quang Trung chết nên việc đó mới đình chỉ).
Tháng ấy con trưởng vua Quang Trung là Quang Toản theo di mệnh của vua cha, lên nối
ngôi, đổi năm sau tức là năm Quí Sửu (1793) làm năm đầu niên hiệu Cảnh thịnh, và truy
tôn vua Quang Trung làm Thái tổ Vũ hoàng đế. Rồi đó, Quang Toản sai sứ thần sang
Trung Quốc báo tang, đem dâng các sản vật địa phương và hai thớt voi đực; lại sắp xếp lễ
cống hàng năm và làm tờ biểu xin phong vương, để hai sứ bộ cùng đi một lúc. Trong tờ
biểu có nói: "Vâng lời dặn lại của vua cha, sau khi chết, không đưa di hài về quê hương,
mà chôn cất ở làng Linh Đường (thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội)) phía ngoài kinh thành
để tỏ lòng mến nhớ cửa khuyết...".
Vua Thanh khen ngợi, tức thì sai sứ thần sang làm lễ tế. Quang Toản bèn làm ngôi mộ giả
ở làng Linh Đường để nhận lễ thăm viếng của nhà Thanh. Trong bài văn tế của nhà Thanh
có câu: "Chúc ngôi Nam cực, lòng trung đà tỏ trước sân triều; yên giấc Tây Hồ, trọn đời
vẫn không quên cửa khuết".
Vua Thanh lại ban cho thuỵ hiệu là "Trung thuần" và ban tặng một bài thơ, bảo khắc vào
đá, dựng bên trái mồ vua Quang Trung để làm nổi rõ sự vinh hiển.
Rồi đó, vua Thanh phong cho Quang Toản làm An Nam quốc vương.
Sau khi được phong, Quang Toản bãi lệnh đeo "tín bài", triệt hồi các đạo quân đi bắt dân
lậu, nghiêm cấm việc quấy nhiễu nhân dân, dùng cậu ruột là Bùi Đắc Tuyên làm chức thái
sư, coi tất cả mọi việc chính sự của triều đình.
Vì thấy Quang Toản còn nhỏ, Đắc Tuyên ra mặt chuyên quyền, tha hồ làm oai làm phúc,
các quan văn võ đều nem nép kiêng sợ, mầm mống tai hoạ bắt đầu từ đấy.
Lại nói, vua Lê từ mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) chạy sang đất Trung Hoa, trọ ở thành
Quế Lâm.
Mùa đông năm ấy, vua Thanh nghe lời bàn của bọn Khang An, Hoà Khôn, phong vương
cho Nguyễn Huệ, lại giáng chỉ đòi vua Lê vào Yên Kinh. Mùa xuân năm Canh Tuất
(1790), vua Lê bắt đầu lên đường, tháng năm mùa hè năm ấy thì đến Yên Kinh. Các quan
văn võ của nước ta trước sau sang đất Trung Quốc đều được lần lượt đi theo.
Vừa khi ấy, vua Thanh đi tuần du, gặp bọn Lê Quýnh ở tỉnh Sơn Đông, bèn sai người gọi
vào ra mắt và dụ rằng:
- Chủ các ngươi đã xin yên ổn ở lại Trung Quốc, lũ các ngươi giốc lòng cùng theo, thì nên

lập tức gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc để chờ mệnh lệnh.
Bọn Quýnh tâu rằng:
- Lũ tiểu thần từ xa xôi muôn dặm theo trốn sang đây, xin cho được dùng phong tục bản xứ
để ra mắt quốc vương, rồi sau sẽ xin vâng chỉ.
Vua Thanh khen ngượi hồi lâu, rồi bảo họ đi thong thả lên Yên Kinh.
Lúc bấy giờ, vua Lê cùng thái hậu và con đầu của vua trọ ở cửa Tây Định trong thành Yên
Kinh, cạnh nhà Quốc tử giám, trước cửa có biển đề: "Tây An Nam doanh" (Dinh An Nam
phía tây). Còn các bề tôi thì ở trong cửa Đông Trực, cạnh nhà Dương phố, ngoài cửa có
biển đề: "Đông An Nam doanh" (Dinh An Nam phía đông). Tất cả bọn đều được nhà
Thanh chiểu theo số người mà cấp phát cho lương ăn, và cho phép tự do qua lại.
Một hôm, nghe tin vua Thanh sắp ra Nhiệt Hà tránh nắng, mờ sáng ngày mai thì lên đường.
Nhân dịp đó vua Lê liền cùng các bề tôi thảo ra tờ biểu xin quân cứu viện, rồi nhờ vào viên
đô thống đội Cờ viền vàng tên là Kim Giản, để xin yết kiến vua Thanh.
Đến khi xe vua Thanh đi qua, vua Lê cùng các bề tôi đều quỳ xuống yết kiến ở mép đường
bên trái. Xe vua Thanh dừng lại một chút, có viên thông ngôn báo rằng: "Hoàng đế có chỉ
khen thưởng". Rồi viên đó giục họ lạy tạ và trở về doanh. Lát sau, đã thấy Kim Giản vâng
chỉ vua Thanh phong cho vua Lê chức tá lãnh, đời đời nối chức và được lĩnh áo mũ tam
phẩm.
Vua Lê bất đắc dĩ phải nhận vậy. Cách mấy hôm sau, lại thấy có viên quan ở nội phủ vâng
chỉ vua Thanh đòi vua Lê vào sân điện, ban cho bốn trăm lạng bạc và sai người sắp sẵn cho
các thứ đồ vật. Còn những bề tôi đi theo, đều được cấp mỗi người năm trăm đồng tiền. Các
lễ mừng, lễ điếu ở trong nước, đều chiểu theo như thể lệ đã định cho những người thuộc
tám hiệu cờ.
Năm ấy, vua Lê thấy người Thanh không thể tin cậy được, bèn cùng bọn Phạm Như Tùng,
Hoàng ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Văn Trưởng, Lê Quí
Thích và Nguyễn Đình Cẩm, người làng Hương Ngạnh, huyện Từ Liêm, Lê Tùng người
làng Tây Đàm, Lê Thức người làng Đáp Cầu, huyện Hoằng Hoá cùng nhau uống máu ăn
thề, rồi cùng thảo tờ biểu, xin quân cứu viện. Lại bàn nếu xin quân không được, thì sẽ xin
đất cũ là hai châu Tuyên Quang, Hưng Hoá để thờ tổ tiên, hoặc lẻn vào Gia Định để mưu
đồ việc khôi phục, nhỡ có gặp sự bất trắc thì sống chết cũng liều.

Thảo xong tờ biểu, bọn họ đến báo trước cho Kim Giản biết, Kim Giản không tiếp. Vua tôi
nhà Lê cùng nhau rập đầu xuống đất mà kêu thật to. Kim Giản bất đắc dĩ phải mời vào nhà,
pha trà thết đãi, rồi bảo:
- Vương hãy cứ về quán trọ mà chờ, sẽ bàn bạc sau.
Được hơn một tháng, thấy có viên quan nhà Thanh tên là Khoa Lan tới báo với vua Lê
rằng: "Đã có chỉ truyền tạm cho vương vùng đất Khâm Châu (thuộc Quảng Đông). Chờ
đến năm sau vào dịp mùa xuân hoa nở sẽ trở về nước cũng không muộn gì".
Vua tôi nhà Lê đều không tin.
Tháng ba, mùa xuân năm Tân hợi (1791). Hoà Khôn lập mưu chia đám vua tôi nhà Lê ra
mỗi người một nơi để họ khỏi kêu ca, bèn sai Khoa Lan cưỡi ngựa tới nói dối rằng:
- Đã có chỉ truyền cho vương về ở đất Tuyên Quang, vậy các bề tôi cần phải chỉnh đốn mũ
áo để cho vương vào triều tạ ơn.
Các bề tôi nhà Lê ở doanh Đông đều tin là thật, bèn theo đến ấn phòng. Khôn sai người lấy
khoá sắt khoá luôn lại, rồi dùng xe trâu đưa họ đi ra ngoài ba trăm dặm, an trí Hoàng ích
Hiểu ở Y Lê, Lê Hân ở Phụng Thiên, Như Tùng ở Hắc Long Giang, Quốc Đống ở Cát
Lâm, Viết Triệu ở Trương Gia Khẩu thuộc Nhiệt Hà, chỉ để một mình Trần Thiện ở lại hầu
hạ quốc vương.
Vua Lê nghe tin ấy, lo giận bồn chồn, đến sáng sớm cưỡi ngựa vào nhà Kim Giản, định
kêu cho các bề tôi. Vừa lúc ấy, Kim Giản đã vào chầu vua Thanh ở vườn Viên Minh. Vua
Lê lập tức ruổi ngựa đi thẳng tới cửa vườn, nhưng đến nơi thì bị lính canh cửa ngăn lại.
Người dắt ngựa của vua Lê là Nguyễn Văn Quyên, quê ở Bố Vệ, phục xuống đất kêu ầm
lên. Bọn người Thanh sợ tiếng kêu gào vang đến chỗ vua Thanh, bèn giật lấy con ngựa của
vua Lê, rồi vực luôn cả nhà vua lên xe bắt đến toà Thận Hình giữ lại.
Văn Quyên bèn cất tiếng mắng to:
- Bọn chó Ngô vô lễ, dám làm nhục vua ta!
Sau đó, Văn Quyên lập tức lấy gạch ở sân ném bừa vào bọn chúng. Đám quân lính giữ
vườn nổi giận, xúm lại đánh Văn Quyên gần chết, đoạn cũng bắt đến giam ở toà Thận
Hình đúng một tháng mới tha cho về. Văn Quyên nhân thế bị bệnh mà chết.
Lúc bấy giờ, Nguyễn Huy Túc đang lánh ở vùng núi Tản Viên (tức núi Ba Vì ở Sơn Tây
(Hà Nội)), nghe thấy việc ấy, cho Văn Quyên là có nghĩa, bèn làm bài "Tán" như sau:

"Trung thay mã đồng! Giỏi thay mã đồng! (người hầu ngựa)
Mến chúa lòng trung nghĩa, theo đuổi việc binh nhung.
Tấc dạ như voi, khỉ (Đường Huyền-tông thường tập cho voi quỳ lạy, lúc An Lộc Sơn cướp
ngôi, cũng bắt voi quỳ nhưng voi không nghe. Đường Chiêu Tông có con khỉ biết quỳ lạy;
lúc Chu Toàn Trung cướp ngôi, cũng bắt khỉ lạy, khỉ không chịu); một đức như kiến, ong.
Mạnh mẽ như loài gấu; thẳng thắn như chim hồng
Cắt đâm chẳng lánh, hổ doạ cũng xông.
Ngựa trời vung cẳng; hùm sói tranh phong.
Phì nguyền da ngựa (theo ý câu nói của Mã Viện nhà Hán: "Làm trai nên lấy da ngựa bọc
thây". Chỉ việc hăng hái hy sinh nơi chiến trận); để tiếng vô cùng.
Kìa ai đó?
Xiêm bào ngoài mặt; sâu mọt trong lòng.
Ruồi xanh xu nịnh, hươu ngựa gian hùng (thơ "Thương dăng" Kinh Thi ví bọn tiểu nhân
như đàn ruồi xanh. Triệu Cao, gian thần nhà Tần, chỉ con hươu mà nói với vua là con
ngựa).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×