Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Sinh viên với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong xây dựng hệ thống cán bộ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.28 KB, 16 trang )

BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRỊNH BẢO KHƯƠNG

SINH VIÊN VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC
TRONG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TIỂU LUẬN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRỊNH BẢO KHƯƠNG

SINH VIÊN VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC
TRONG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TIỂU LUẬN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Chuyên ngành:
Quản lý xây dựng, MSSV 18530200552
Kỹ thuật Xây dựng, MSSV 15520800184

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tác giả bài tiểu luận có lời cam đoan về công trình nghiên cứu nhỏ này của mình, cụ thể:
Tôi tên là
Sinh ngày

: Trịnh Bảo Khương
: 06/08/1998 – Tại An Giang

Quê quán
: An Giang
Hiện đang học tập tại: Trường đại học Kiến trúc TPHCM
Là sinh viên khóa 2015 và 2018 của Trường Đại học Kiến trúc TPHCM
Cam đoan đề tài: “Sinh viên với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong xây
dựng hệ thống cán bộ ở Việt Nam hiện nay”.
Người hướng dẫn khoa học: Ths. Nguyễn Thị Duyên.
Bài tiểu luận được thực hiện tại Trường Đại học Kiến trúc TPHCM.
Bài tiểu luận chưa từng được tác giả trình nộp để lấy điểm tại một môn học bất kỳ.
Bài tiểu luận là công trình nghiên cứu nhỏ của riêng tôi, kết quả nghiên cứu là trung thực,
trong đó không có các nội dung đã được công bố trước đây hoặc các nội dung do người khác
thực hiện ngoại trừ những trích dẫn được dẫn nguồn đầy đủ trong bài tiểu luận.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của tôi.
Ngoài ra, để hoàn thiện bài tiểu luận, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu
của nhiều cá nhân. Tôi xin đặc biệt cảm ơn cô Nguyễn Thị Duyên giảng viên Trường Đại
học Kiến trúc TPHCM đã giảng dạy, cung cấp cho tôi những kiến thức chuyên sâu về lý luận
chính trị cũng như cung cấp cho tôi những kiến thức bổ ích về lịch sử Việt Nam hiện đại.

TPHCM, ngày 30 tháng 3 năm 2019
Trịnh Bảo Khương

I.


GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
T r a n g 3 | 16


Với đường lối đổi mới đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta
đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
nhà nước. Bằng những cải cách mạnh mẽ về kinh tế, chúng ta đã vượt qua khủng hoảng, ổn
định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, đưa đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, hội
nhập vào sự phát triển của khu vực và thế giới.
Cùng với công cuộc cải cách kinh tế, công cuộc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị cũng từng bước được triển khai. Hệ thống pháp luật ngày càng
phát triển và từng bước được hoàn chỉnh để điều chỉnh ngày một có hiệu quả các quan hệ
kinh tế – xã hội. Bộ máy nhà nước dần dần được chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
trong điều hành và quản lý xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, trong quá trình phát triển, nền hành chính nhà
nước cũng đã bộc lộ nhiều khuyết tật, bất cập trước những yêu cầu mới của sự phát triển
kinh tế – xã hội, công tác quản lý hành chính nhà nước của các cấp chính quyền trong cả
nước còn bị buông lỏng ở nhiều khâu, hiệu quả, hiệu lực quản lý của chính quyền chưa cao,
tập trung chủ yếu ở cấp chính quyền cơ sở, trong đó chính quyền xã, phường là cấp có nhiều
khó khăn phức tạp khi thực hiện các nhiệm vụ được giao. Đứng trước tình hình đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương cải cách nền hành chính nhà nước và coi đó là trọng
tâm của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Một trong những nội dung quan trọng của công cuộc cải cách hành chính là xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức hành chính vừa có phẩm chất đạo đức tốt, vừa có năng lực, trình độ
chuyên môn cao, có kĩ năng quản lý, vận hành bộ máy hành chính để thực hiện có hiệu quả
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đội ngũ cán bộ, công chức có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định chất lượng, hiệu
quả hoạt động của chính quyền các cấp nói chung và chính quyền cấp cơ sở nói riêng. Hiệu
lực quản lý nhà nước được thực hiện bởi số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, công

chức, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn “Cán bộ nào thì phong trào ấy “. Do vậy, nhận
biết được thực trạng của đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường là yếu tố cơ bản có tính
quyết định góp phần đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức nhằm đạt được hiệu quả cao trong công tác quản lý nhà nước ở chính
quyền cấp xã, phường nói chung.
Trên cơ sở những nhận định trên, em lựa chọn đề tài: “Sinh viên với công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức trong xây dựng hệ thống cán bộ ở Việt Nam hiện nay.”

T r a n g 4 | 16


II.

KHÁI NIỆM VÀ ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM HIỆN NAY VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG
CHỨC
1. Khái niệm hệ thống chính trị Việt Nam

Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực hiện bằng một
hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội hợp
pháp khác được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, thực hiện
và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
a) Tính nhất nguyên chính trị
Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền. Hệ thống

chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam.
Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập,
vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp,
đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị – xã hội).
b) Tính thống nhất
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng
khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất. Sự
thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương thức hoạt động trong
hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát hiện sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng
sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:
– Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội
Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
– Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
T r a n g 5 | 16


– Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các
bộ phận hợp thành.
c) Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
– Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị Việt Nam. Đặc điểm này
khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà
còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước),
các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị – xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội
(như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận
của xã hội, gắn bó với xã hộ. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội.

– Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:
– Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm
quyền.
– Nhà nước là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
– Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính
các tầng lớp nhân dân.
– Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
d) Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị
– Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho
nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ
chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân. Do vậy, hệ thống chính trị nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc
sâu sắc.
– Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và bắt
đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân tộc đoàn
kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn
tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng của hệ thống chính
trị là yếu tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.

T r a n g 6 | 16


– Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng
tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp
công nhân, cũng đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và
giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.

3. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong
giai đoạn hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4–2006) đã xác định mục tiêu,
quan điểm, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
a) Mục tiêu và quan điểm
– Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ
xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
– Quan điểm xây dựng hệ thống chính trị gồm:
Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị
thể hiện trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự
đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Trong những năm đầu, Đảng tập trung trước
hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế –
xã hội, tạo điều kiện để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân
dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị. Quá trình phát triển của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định sự kết hợp nhuần nhuyễn
và bước đi đúng đắn đó. Đến Đại hội X, Đảng đã xác định đổi mới toàn diện, bao gồm đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị theo những nguyên tắc xác định.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
Đó là quá trình làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu quả hơn, phù
hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay là
để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công
T r a n g 7 | 16


nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc

tế…
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi,
hình thức và cách làm phù hợp.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với
nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã hội phát
triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
b) Chủ trương, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị
Một là, xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
– Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định rõ bản chất của Đảng:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống
chính trị, Cương lĩnh năm 1991 xác định rõ: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là
một bộ phân của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Điều đó là cơ sở của sự gắn bó
giữa xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
trong hệ thống chính trị.
– Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị” đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và
tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và tổ
chức chính trị – xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật,
kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
– Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với
đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi trong
Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là

cá nhân người đứng đầu.
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
T r a n g 8 | 16


– Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và
thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm riêng của
xã hội tư bản chủ nghĩa mà là sản phẩm trí tuệ của xã hội loài người của nền văn minh nhân
loại.
– Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo năm đặc điểm sau
đây:
+ Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân.
+ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm
cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ
cương, kỷ luật.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo,
có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức
thành viên của Mặt trận.
– Để xây dựng Nhà nước pháp quyền cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ
thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra,
giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công
quyền.
Ba là, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội trong hệ
thống chính trị.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội có vai trò quan trọng
trong việc tập hợp, vận động đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phòng…
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội thực
hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.

T r a n g 9 | 16


Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn…
duy trì dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị – xã hội và các tầng lớp nhân
dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị; thực hiện “dân biết, dân
làm, dân kiểm tra” và dân thụ hưởng những thành quả của sự nghiệp đổi mới.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội,
khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, phô trương, hình thức để nâng cao chất
lượng hoạt động, làm tốt công tác dân vận theo phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân,
học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
III.

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC VIỆT
NAM HIỆN NAY

1. Thành tựu
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày
18/03/2002 về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn”; cùng với sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong những năm qua, đội
ngũ cán bộ công chức đã có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng, việc bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm cán bộ đã được thực hiện đúng tiêu chuẩn, quy định, bước đầu bố trí các
chức danh công chức phù hợp với trình độ chuyên môn được đào tạo; việc quản lý, sử dụng

công chức đã dần đi vào nề nếp, hầu hết số công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm, điều
động, luân chuyển đều có trách nhiệm với công việc và vị trí công tác được giao, từng bước
thực hiện tốt chế độ tiền lương, quy định đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ công
chức, vì vậy đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức.
Đặc biệt là từ khi có Luật Cán bộ công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2010; Nghị
định số 114/2003/NĐ-CP; Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV; Nghị định số 112/2012/NĐ-CP
thì đội ngũ cán bộ công chức không ngừng được kiện toàn, củng cố, phần lớn được rèn
luyện, thử thách trong quá trình công tác, được quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh
thần trách nhiệm, góp phần giúp hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và Ủy ban nhân
dân cấp xã nói riêng có chuyển biến và hiệu quả hơn.
Đến nay cơ bản đội ngũ cán bộ công chức có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị và
năng lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao các mặt công tác, khơi
dậy được nguồn lực của nhân dân, nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ ở cơ sở, đời
sống nhân dân được nâng lên đáng kể, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội,
xây dựng Đảng, chính quyền, đảm bảo an ninh, chính trị, quốc phòng ở các địa phương và
trên địa bàn cấp xã.
2. Hạn chế

T r a n g 10 | 16


Tuy nhiên, nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa,
vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế. Tỷ
lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra. Thiếu những
cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực.
Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ,
trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn,
sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường

quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương
mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân
chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý
doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Ðảng, lợi dụng sơ hở trong cơ
chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước,
gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình trạng chạy
chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen
thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội,. trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy
lùi.
Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung còn hình
thức. Ðánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả,
sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy
hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn
dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với
quy hoạch và theo chức danh. Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số
chức danh không là người địa phương, trong đó có bí thư cấp ủy các cấp còn bất cập, chưa
đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình
trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không
đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở
một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công
chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra
sai phạm, tiêu cực. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế,
chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu.
Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; chính
sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để
cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.

T r a n g 11 | 16


Phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình, còn tập trung nhiều ở cấp trên. Một số
chủ trương thí điểm chỉ đạo chưa quyết liệt, tổ chức thực hiện thiếu nhất quán, đồng bộ và
chưa kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm. Việc kiểm tra, giám sát thiếu chủ động, chưa
thường xuyên, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu quả để phòng ngừa,
ngăn chặn sai phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình,
tổ chức bộ máy thiếu ổn định. Ðầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa
tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối,
chức năng, nhiệm vụ chưa thật sự hợp lý; phẩm chất, năng lực và uy tín của không ít cán bộ
làm công tác tổ chức, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu.
Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then
chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không
nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ
yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn
của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Ðảng và Nhà nước.
IV. TẦM QUAN TRỌNG, MỐI QUAN HỆ VÀ VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN VỚI
CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1. Tầm quan trọng, mối quan hệ của sinh viên với công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức
Sinh viên là lực lượng xã hội hùng hậu, họ là tiền thân của lực lượng lao động có chất
lượng trong tương lai. Một phần trong số họ sẽ trở thành những cán bộ, công chức nhà nước,
thậm chí sẽ là lực lượng lãnh đạo nòng cốt. Đất nước có trở nên giàu đẹp, văn minh hay
không chính là nhờ phần lớn sự đóng góp của lực lượng này – lực lượng có sức khỏe, có trí
tuệ, có nhiệt huyết. Trong giai đoạn cách mạng mới, với bối cảnh thế giới biến động phức
tạp, trước những thách thức to lớn của xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, chính trị, sự phát triển
của kinh tế tri thức, Đảng ta khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, là
nguồn nhân lực quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.

Chính vì vậy mà ta khẳng định Sinh viên chính là nòng cốt tương lai của hệ thống bộ máy
chính trị nước nhà.
Văn hóa chính trị của sinh viên Việt Nam hiện nay bao gồm những hiểu biết của sinh
viên về đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, về thế giới quan khoa học theo
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về chính sách pháp luật của Nhà nước;
truyền thống văn hóa chính trị quý báu của dân tộc Việt Nam và những tri thức khoa học
chính trị tiên tiến trên thế giới. Từ đó hình thành thế giới quan, lập trường tư tưởng, niềm
tin, tình cảm và thái độ của sinh viên đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, tính tự giác và tích
T r a n g 12 | 16


cực tham gia các hoạt động chính trị của đất nước phục vụ lợi ích của sinh viên và toàn xã
hội.
Giáo dục văn hóa chính trị cho sinh viên là giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội; giáo dục vai trò và sứ mệnh lịch sử của sinh viên Việt Nam trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ tổ quốc, cụ thể là góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Với đặc điểm riêng của mình, văn hóa chính trị của sinh viên nước ta hiện nay được xem
xét trên 3 khía cạnh:
Về tri thức chính trị: Sinh viên được trang bị một cách có hệ thống tri thức lý luận chính
trị khi ngồi trên ghế giảng đường. Trong tất cả các trường cao đẳng, đại học ở Việt Nam,
sinh viên đều phải học các môn lý luận chính trị trong 2 năm học đầu tiên, bao gồm 3 học
phần: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với xuất phát điểm học lực khá cao, sinh viên có khả năng nắm bắt được những nội dung
cơ bản về nền tảng tư tưởng chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam. Từ đó họ trở thành
những người được trang bị phông kiến thức nền khá bài bản.
Ngoài ra, sinh viên được học tập ở môi trường đại học – môi trường có trình độ khoa
học, văn hóa cao; các trường đại học thường tập trung ở trung tâm các thành phố, vì vậy sinh
viên có điều kiện tiếp cận với các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nên họ có tri

thức chính trị xã hội cao hơn so với các thanh niên cùng lứa khác.
Về niềm tin chính trị: Với việc được trang bị những kiến thức khá bài bản về tri thức
chính trị, cùng với việc được sinh sống trong một môi trường học tập tích cực, sinh viên có
cơ sở để xây dựng niềm tin chính trị. Cùng với những chính sách đãi ngộ của Đảng và
Nhà nước đối với sinh viên, những hoạt động của các đoàn thể, hội sinh viên… sẽ dễ
dàng hình thành niềm tin và lý tưởng chính trị cho sinh viên.
Bản thân sinh viên là những người khá độc lập về tư duy, họ có tri thức và bản lĩnh để
phân biệt đúng, sai, đồng thời họ là những người trẻ, năng động, hoạt bát, cho nên khi sinh
viên đã có được niềm tin chính trị, thì họ sẽ trở thành lực lượng nòng cốt trong các hoạt
động phong trào.
Về hành vi chính trị: Sinh viên rất hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước,
các phong trào đoàn thể khi họ cảm thấy tin tưởng, những phong trào này có thể diễn ra trên
nhiều lĩnh vực của đời sống: văn hóa, giáo dục, kinh tế, chính trị…

T r a n g 13 | 16


Những lá phiếu bầu ra những người trẻ đại diện cho mình trong các tổ chức chính trị – xã
hội (Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội sinh viên), các tổ chức chính trị (Hội
đồng nhân dân xã, phường,...) của sinh viên thực sự rất quý báu, nó thể hiện niềm tin chính
trị của họ.
Sinh viên là những công dân trẻ đầy năng lực và nhiệt huyết, học tập ở các trung tâm của
các tỉnh và các thành phố lớn, họ có điều kiện tham gia các phong trào do đoàn thể và chính
quyền phát động. Đồng thời họ là những công dân có trí tuệ, có trách nhiệm trong những
cuộc bầu cử định kỳ bầu đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Gần đây, phản ứng của sinh viên Việt Nam đối với sự kiện Trung Quốc gây hấn với Việt
Nam ở Biển Đông, xét về một góc độ nào đó, cũng cho thấy tinh thần chính trị của sinh viên
Việt Nam: yêu nước, dám nói, dám hành động khi Tổ quốc cần.
Tóm lại, sinh viên là những người trẻ đầy nhiệt tình yêu nước và có năng lực hành vi
mạnh mẽ.

Tuy nhiên, văn hóa chính trị của sinh viên hiện nay cũng vẫn còn tồn tại một số bất cập.
Đó là: Sinh viên chưa tích cực tìm hiểu, học tập, nâng cao nhận thức chính trị, một bộ phận
sinh viên thiếu niềm tin vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, hành động chính trị của
sinh viên còn thụ động, thiếu tính sáng tạo…
Nguyên nhân chính là do công tác giáo dục văn hóa chính trị còn hạn chế về nội dung,
chương trình, giáo trình, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục. Nội dung chương
trình chưa chú ý việc ứng dụng thực tiễn; chưa cập kịp thời những thành tựu mới nhất của
khoa học hiện đại. Hình thức, phương tiện giáo dục văn hóa chính trị còn đơn điệu, nghèo
nàn, trình độ hạn chế; phương pháp chưa được đổi mới… Do đó, ít gây được hứng thú cho
sinh viên. Vì thế đã có không ít những sinh viên học đối phó, tham gia các hoạt động, phong
trào một cách miễn cưỡng… và hệ quả tất yếu là giáo dục văn hóa chính trị không đem lại
kết quả như mong đợi.
Như vậy, muốn sinh viên đạt được trình độ văn hóa chính trị cao, đòi hỏi Đảng ta phải
làm tốt công tác giáo dục văn hóa chính trị. Giáo dục văn hóa chính trị giúp sinh viên rèn
luyện năng lực tư duy, là cơ sở lý luận soi đường chỉ lối cho mỗi cá nhân vận dụng vào hành
động thực tiễn của mình, bởi bản chất của giáo dục văn hóa chính trị không phải là hệ thống
lý luận có tính áp đặt, khô cứng, bắt buộc sinh viên phải tuân theo một cách thụ động, mà đó
là những nguyên lý vừa mang hàm lượng khoa học cao, vừa có tính nhân văn sâu sắc.
2. Phát triển Đảng trong sinh viên

T r a n g 14 | 16


Phát triển Đảng viên là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên trong công tác xây dựng
Đảng, nhằm tăng thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển của Đảng. Kết nạp
nhiều sinh viên vào Ðảng góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên. Đây là nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có tri thức chính trị, phục vụ tích cực nhiệm vụ, yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để đạt kết quả cao như vậy, Đảng ủy các trường phải không ngừng tập trung bám sát,
đôn đốc, chỉ đạo cấp ủy của 2 chi bộ liên quan đến sinh viên và các cấp bộ Đoàn– Hội các

trường trong công tác phát triển đảng. Đảng ủy trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ
TP.HCM phải đầu tư cải tiến các phương pháp, thủ tục, quy trình biên soạn và ban hành các
biểu mẫu liên quan đến công tác phát triển đảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công
tác phát triển đảng trong sinh viên. Đồng thời, đảng ủy các trường đề ra mục tiêu làm sao
công tác phát triển đảng trong sinh viên phát triển mạnh cả về số lượng, vừa bảo đảm chất
lượng để mỗi sinh viên khi trở thành đảng viên phải thấm nhuần lý tưởng cách mạng, phải
luôn nỗ lực trau dồi đạo đức, có năng lực học tập tốt, có mối quan hệ mật thiết và là tấm
gương tiêu biểu trong phong trào sinh viên ở các trường.
Với mục tiêu phát triển sinh viên theo hướng toàn diện, các trường phải luôn quan tâm
xây dựng hoạt động đoàn ở trường thật vững mạnh, Hội sinh viên phát triển gắn với công tác
sinh viên trong các trường. Chính thế “kiềng 3 chân” này giúp cho công tác Đảng trong các
trường, công tác đảng trong sinh viên phải luôn gặp thuận lợi. Nhờ sự quan tâm của cấp ủy
đảng mà công tác đoàn ở trường phải tạo điều kiện tốt nhất để sinh viên tham gia phong trào
và có điều kiện rèn luyện học tập tốt. Ngoài việc quan tâm đến lực lượng đoàn viên ưu tú,
đoàn còn quan tâm đến lực lượng cảm tình đảng từ trường phổ thông và tạo điều kiện tốt
nhất cho đoàn viên rèn luyện phấn đấu trở thành đoàn viên ưu tú.
Trong công tác phát triển đảng, Đảng ủy các trường còn quan tâm đến việc xác định thời
điểm và công tác tổ chức lễ kết nạp đảng viên cho có ý nghĩa nhất. Bên cạnh đó, trong bất kỳ
lễ kết nạp đảng nào dù được tổ chức ngay tại trường hay tại các mặt trận chiến dịch tình
nguyện hè xa xôi, Đảng ủy các trường đều trân trọng mời cha mẹ hoặc đại diện gia đình sinh
viên được kết nạp đảng đến tham dự. Niềm vinh dự lớn lao khi được kết nạp đảng không chỉ
riêng của sinh viên mà đồng thời còn là niềm hãnh diện, tự hào của cả gia đình.
Bài học rút ra từ thành công trong công tác phát triển đảng đó chính là đặt người thanh
niên, sinh viên là vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực.
Đồng thời, bảo đảm việc đào tạo người thanh niên trong thời đại mới, phát huy toàn diện sức
mạnh là người có ích cho xã hội, sống có lý tưởng, góp phần chung tay xây dựng và phát
triển đất nước.
3. Vai trò, nhiệm vụ của sinh viên
T r a n g 15 | 16



Như phải nói ở trên, sinh viên chính là nòng cốt chủ chốt tương lai của hệ thống cán bộ,
công chức. Chính vì vậy mà sinh viên cần phải rèn luyện được mọi mặt từ phẩm chất, tư
cách cho đến trình độ năng lực chuyên môn thật tốt, sao cho phù hợp với những yêu cầu của
một cán bộ, công chức nhà nước. Như Bác Hồ phải nói: Có tài mà không có đức là người vô
dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc rèn luyện bản thân, với tư cách là một sinh viên, đang
học tập và rèn luyện trong giảng đường đại học, em thấy mình cần phải tích cực hơn nữa
trong việc học tập, nghiên cứu, không những vậy còn phải chú ý đến tác phong, cẩn trọng
trong lời nói, suy nghĩ, phải rèn luyện phẩm chất đạo đức thật tốt, thật xứng đáng với những
kỳ vọng của gia đình, các trường, xã hội kỳ vọng về một thế hệ trẻ hôm nay.
Mỗi bạn sinh viên trẻ đều mang trong mình những ước mơ, hoài bão riêng cho tương lai
của mình sau này. Dù sau này sẽ là một người bình thường hay là một cán bộ, công chức
trong hệ thống chính trị nước nhà thì đều phải có trách nhiệm xây dựng đất nước như nhau,
mỗi người bằng điểm mạnh vốn có của mình ở nhiều khía cạnh mà chung tay góp sức làm
nên một đất nước giàu mạnh, văn minh, tốt đẹp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Châu Đình Linh (2015), Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học.
Đỗ Thu Trang (2017), Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công.
Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam (2018), Giáo Trình Đường Lối Cách Mạng Của Đảng
Cộng Sản Việt Nam.
Minh Hiệp (2012), Phát triển Đảng trong sinh viên, Báo điện tử Đại học HUTECH.
Nguyễn Thùy Linh (2018), Vai trò của Đảng viên là sinh viên trong nghiên cứu khoa học,
Báo điện tử Đại học Vinh.

T r a n g 16 | 16




×