Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kế thừa, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.45 MB, 105 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
__
***
___
NGUYỀN THANH HUYÊN
Tư TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾ THỪA, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂI
HOÁ DÂN TỘC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ Đốl VỚI VIỆC XÂY DựNG
NỀN VĂN HOÁ MỚI ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC s ĩ CAO HỌC TRIẾT HỌC
Chuyên ngành
M ã sô
: Triết học
: 60.22.80
Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Văn Duyên
1 HOC Q U O C HÁ NO
TP )N'; T-r 1 ;:,M |'M' • ' f N
\/
HÀ NỘI - 2006
LỜI CAM ĐOAN
£7ir
ìi
xin
earn
(Tỡau
đà
lị

(Stiff
trình nạỉtiêti eú'u của viĨMiạ. tồi I)
ixí giúp. (Tõ eủa ^DiiOihị <lỳăn nữuụẲMi. (Júc sỗ liêu tr(ìnif /ttậti e/m t


x u ấ t x ứ vfi ràng
Tác giả luận vãn
Nguyễn Thanh Huyên
MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1. Sự kê thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần thiết và những nguyên tắc kê thừa,
phát huy bản sắc văn hoá dàn tộc trong sự nghiệp cách mạng
1.1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải kế thừa, phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc
1.1.2 Một số nguyên tắc kế thừa, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2 Một số nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về kế thừa và phát huy
truyền văn hoá dân tộc
1.2.1 Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước Việt Nam
1.2.2 Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy truyền thống nhân văn Việt Nam
Chương 2. Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về kê thừa, phát huy bản
sắc văn hoá Việt Nam trong xây dựng nền văn hoá mới ở nước ta
hiện nay
2.1 Đảng Cộng Sản Việt Nam kế thừa, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới
2.1.1 Những kết quả và thành tựu của Đảng cộng sản Việt Nam trong
việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
2.1.2 Những hạn chế và nguyên nhàn của Đảng cộng sản Việt Nam
trong việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
2.2 Những giải pháp nhằm kê thừa và phát huy giá trị truyền thống vãn
hoá dân tộc để xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam hiện nay
2.2.1 Tinh hình mới và yêu cầu đặt ra đối với việc kế thừa và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc

2.2.2 Giải pháp về nhận thức lý luận
2.2.3 Giải pháp về hoạt động thực tiễn
Kết luận
Tài liệu tham khảo
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỂ TÀI.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và nhân dân ta một di sản tư tướng
vô cùng to lớn và sâu sắc. Tư tưởng của Người đã trở thành nền tảng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Việc nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ quan trọng, lâu dài của nhiều thế hệ và càng cần
được đẩy mạnh hơn nữa trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có một nội dung mà chúng ta cần đạc biệt quan tám
đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Vậy
tại sao, chúng ta phải quan tâm đến vấn đề này?
Xàm lược là bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Các thế lực đế quốc luôn thực
hiện việc xâm lược các nước không chỉ bằng quán sự, bàng kinh tế, mà đặc biệt
trong thời đại ngày nay, việc xâm lăng bằng văn hóa đang trở thành vấn đề nóng
bỏng trên thế giới. Các nước lớn lợi dụng sức mạnh về kinh tế, về thông tin. họ
đang tìm cách làm mất bản sắc văn hóa của các dân tộc, đưa văn hóa của họ vào
các dân tộc kém phát triển. Từ mất bản sắc văn hóa sẽ dẫn đến mất độc lập tự do.
Hiện nay xu hướng hội nhập quốc tê là xu hướng không thể đảo ngược. Một
quốc gia sẽ không thể phát triển được, nếu như không hội nhập quốc tế. Song khi
hội nhập quốc tế cũng đứng trước một nguy cơ sẽ đánh mất bản sắc văn hóa dân
tộc, nếu quốc gia đó không có một chiến lược đứng đắn trong bảo tồn phát huy
những giá trị của bản sắc văn hóa dán tộc.
Vì vậy, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được nhiều quốc
gia trên thế giới quan tâm.
Vấn đề đặt ra là trong quá trình hội nhập quốc tế: làm thế nào vừa tiếp thu
được những giá trị văn hóa tiên tiến trên thế giới, vừa tiếp nhận được những thành
tựu khoa học hiện đại, lại vừa giữ gìn và phát huy được bản sắc vãn hóa dân tộc.

nâng nó lên một tầm cao mới. Trong thời đại ngày nay, vấn đề này đang được đặt
ra trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa, nền văn hoá mới mà chúng ta đans
xây dựng hiện nay là nền văn hoá tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với các đặc trưng
dân tộc, hiện đại, nhân văn. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đát nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, việc xây dựng nền văn hoá mới của xã hội là mội
1
trong những nhiệm vụ quan trọng. Điều đó, đòi hỏi phải nhận thức đúng đăn vấn đê
kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tạo tiền đề cho việc
xây dựng giá trị văn hoá mới cho phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội. Vì vậy,
việc nghiên cứu vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống văn hoá dân
tộc có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công việc xây dựng nền văn hoá mới
của đất nước. Khi đề cập đến việc xây dựng nền văn hoá vô sản, Lênin đã từng chi
"Không phải là nghĩ ra một thứ văn hoá vô sản mới là phát triển
những kiểu mẫu ưu tú, những kết quả tốt nhất của nền vãn hoá hiện
tồn, xét theo quan điểm thế giới quan của chủ nghĩa Mác và những
điều kiện của đời sống và của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trong
thời đại chuyên chính vô sản". [49, 548].
Kế thừa và phát triển là quy luật vận động chung của mọi sự vật hiện tượng
trên thế giới trong đó có văn hóa. Không thể có sự phát triển từ cái hư vô, mà phải
trên cơ sở kế thừa những di sản của quá khứ, từ đó nâng nó lẻn một tầm cao mới. đó
mới là sự phát triển đúng đắn hợp quy luật. Do vậy, chúng ta cần chống lại những tư
tưởng muốn xóa bỏ tất cả những giá trị văn hóa của quá khứ, tiếp thu vãn hóa
phương Tây một cách không chọn lọc. Điều đó sẽ làm chúng ta mất đi bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam.
Ngược lại cũng cần phải khắc phục những tư tưởng bảo thủ, muốn bảo tổn.
giữ lại toàn bộ những cái gì của quá khứ, khước từ không tiếp nhận tất cả những gì
là thành tựu của văn minh nhân loại. Điều đó sẽ cản trở sự hội nhập quốc tê của Việt
Nam và cũng hạn chế sự phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình
hội nhập . Vãn hóa Việt Nam truyền thống được sản sinh trong quá trình dựng nước
và giữ nước của dân tộc Việt Nam, gắn với một nền sản xuất nhỏ lao động thú còng,

với một lối sống khép kín. Do vậy, hiện nay vãn hóa truyền thống Việt Nam có
những điều phù hợp và không phù hợp. Điều không phù hợp cần được loại bỏ. Đổne
thời chúng ta phải biết tiếp thu những cái tinh hoa của vãn hóa các dân tộc khác.
Muốn kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc một cách đúng đắn đòi hỏi
chúng ta phải nghiên cứu một cách nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực
này. Vì vậy, tôi chọn đề tài luận vãn: " Tư tưởng Hồ Chí Minh về kế thừa, phát huy
2
bản sắc văn hoá dân tộc và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nền văn hoá mới ở
Việt Nam hiện nay"
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ứ u ĐỂ TÀI.
Vấn đề tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh đã có nhiều công trình nghiên cứu,
như: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đườtig cách mạng Việt Nam của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chủ biên (XB lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và con người do GS Đặng Xuân Kỳ chủ
biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005). Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với
việc giáo dục đội ngũ cán bộ, Đảng viên hiện nay của Hoàng Trang và Phạm Ngọc
Anh chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004); Cơ sở khoa học nền tang vàn
hoá của tư tưởng Hồ Chí Minh của Thành Duy (Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
1998); Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh của Đỗ Huy (Nxb Chính trị quốc gia. Hà
Nội, 1997); Hồ Chí Minh - Danh nliâìì văn hoá thế qiới của Đào Phan (Nxb Văn
hoá thông tin 2000); Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam
của Bùi Đình Phong chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996); Hổ Chí Minh -
nhà văn hoá kiệt xuất của Song Thành (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999)
Ngoài ra, còn nhiều bài viết công bố trên báo và tạp chí như: tạp chí Tnết
học, Cộng sản, Nghiên cứu lý luận, Tư tưởng văn hoá. Vãn hoá nghệ thuật, Dán tộc
học của nhiều tác giả như Trần Văn Giàu, Phạm Vãn Đổng,Trịnh Gia Ban. Hổ
Văn Chiểu Các công trình nghiên cứu trên đã để cập dưới các góc độ khác nhau về
tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh. Tuy nhiên nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kế
thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề phức tạp, khó khăn, cần tiếp tục
được nghiên cứu. Mặt khác, dưới góc độ triết học, chưa có tác giả nào bàn sáu vé

vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì
vậy, tôi mạnh dạn đi sâu khai thác vấn đề này trong luận văn.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM v ụ CỦA LUẬN VĂN.
3.1. Mục đích:
Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần thiết những nguyén tắc và nội
dung kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, từ thực trạng vận dụng kế thừa và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở nước ta những năm qua, luận văn đưa ra những
giải pháp thiết thực để góp phần xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam tiên tiến, đậm
3
đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
3.2. Nhiệm vụ luận vãn.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ
sau:
- Phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần thiết, những nguyên tắc
cơ bản, những nội dung kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
- Làm rõ thực trạng kế thừa, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của Việt
Nam trong những năm qua. Những ưu, khuyết điểm và những nguyên nhân của thực
trạng kế thừa
- Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kế thừa và phát
huy bản sắc văn hoá Việt Nam trong việc xây dựng nền văn hoá mới ở Việt Nam
hiện nay. '
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN c ứ u .
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu về sự kế thừa và phát huy bản sắc vãn hoá
dân tộc trong tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh, thông qua những tác phẩm cúa
Người và những tác giả khác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dãn tộc và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng nền văn hoá Việt nam hiện nay” là một đề tài có

tính lý luận sâu sắc, cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và khoa
học. Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một sô nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh vể kế thừa phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và ý nghĩa của
nó đối với việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt
Nam hiện nay.
5. C ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u .
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý, quan điểm cơ bản của chủ
nghiã Mác - Lênin.
- Luận vãn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: kết hợp lịch sứ
với logic, phân tích với tổng hợp, so sánh với hệ thống.
4
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN.
- Về lý luận: Làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về kế thừa và phát huy bản
sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và sự tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại. Từ đó luận văn cũng làm rõ ý nghĩa của tư tưởng này
trong xây dựng, phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Thực tiễn: Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những người
nghiên cứu, giảng dạy các lĩnh vực có liên quan, là tài liệu nghiên cứú cho
các cán bộ, các cơ quan quản lý văn hoá hiện nay ở nước ta.
7. KẾT CẤU LUẬN VÃN.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành hai chương, bốn tiết.
5
CHƯƠNG 1
Sự KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC
VÃN HÓA DÂN TỘC TRONG Tư TƯỞNG H ổ CHÍ MINH
1.1. T ư TƯỞNG HỚ CHÍ MINH VỂ s ự CẨN THIẾT VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC
KÊ THỪA, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG s ự NGHIỆP

CÁCH MẠNG.
1.1.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải kê thừa,phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc.
Để nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần
thiết phải kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta cần làm rõ những
khái niệm có liên quan.
Trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong giáo
trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh có viết
như sau:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của
sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điéu
kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí
tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người”[40,19].
Tiếp theo, chúng tôi sẽ đề cập tới khái niệm văn hóa. Quan niệm về văn hóa
đã hình thành từ rất sớm ở các nước Đông Á. Văn hóa được hiểu như một hình thức
điều hành xã hội bằng “văn trị” để giáo hóa con người, đối lập với những biện pháp
tàn bạo. Theo tiếng Latinh, từ văn hoá là Cultura có nghĩa là vun xới, trổng trọt,
luyện tập. Trong cuốn văn hóa nguyên thủy, xuất bản năm 1871, EB Taylor nẻu
quan niệm “ Văn hóa là một tổng thể phức tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng nghệ
6
thuật phong tục và cả năng lực thói quen mà con người đạt đuợc trong xã hội”
[113,65].
c. Mác và Ảngghen cho rằng, văn hóa là sản phẩm của lịch sử, của điều kiện
tự nhiên, điều kiện xã hội. về văn hóa, các ông khẳng định: “Căn cứ vào mức độ tự
nhiên được con người biến thành bản chất người, tức là mức độ tự nhiên được con
người khai thác, cải tạo thì có thể xét được trình độ văn hóa chung của con người"

[56,587],
Chủ tịch Hồ Chí Minh là học trò xuất sắc của C.Mác, Ph.Ảngghen và Lênin,
có quan niệm về văn hóa rất rộng, gắn liền hoạt động sống của cá nhân và cộng
đồng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính truyền thống và hiện đại, kế thừa và đổi mới,
dân tộc và nhân loại: Theo Người
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người sản
sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn" [64,431],
Điểm thống nhất giữa quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng của
các nhà sáng lập ra học thuyết mác xít ở chỗ, các ông đều xem lao động sáng tạo là
cội nguồn của văn hóa.
Ngày nay, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa, các nhà nghiên cứu khác nhau
thường hiểu văn hóa theo nội dung khác nhau tuỳ thuộc vào góc độ tiếp cận. Tại Hội
nghị quốc tế ở Mêhico 1982 do UNESCO tổ chức, người ta đã đưa ra 200 định nghĩa
về văn hóa, cuối cùng đã đi đến thống nhất định nghĩa:
"Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một
xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật
và văn chương, những lối sống cơ bản của con người, những hệ thống
giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Vãn hoá đem lại cho con nguời
khả năng suy xét về bản thân, chính văn hóa làm cho chúng ta trở
7
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý, có tình, có óc phê phán
và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đoán
được những giá trị và thực thi những sự lựa chọn. Chính nhờ văn hóa

mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một
phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản
thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên
những công trình vượt trội của bản thân mình" [86,43 - 44],
Qua rất nhiều quan niệm khác nhau, có thể rút ra một số điểm chủ yếu thuộc
nội hàm của khái niệm văn hóa.
Văn hoá là sự phát triển "Những lực lượng bản chất" của con người. Do đó,
nó mang tính nhân văn sâu sắc.
Văn hoá là sự sáng tạo "theo quy luật của cái đẹp" với những hệ thống giá trị
định hướng cho sự phát triển của con người và xã hội.
Văn hoá là trí tuệ, tri thức và là những thành tựu đạt được (về vật chất, tinh
thần) trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Hai đặc trưng cơ bản nhất của văn hóa là sáng tạo và nhân văn. Trong tất cả
các lĩnh vực hoạt động xã hội, hai đặc trưng đó được thể hiện thành chuẩn mực, giá
trị hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Những gì ngược lại với các nội dung (đặc
trưng) cơ bản trên đều có thể coi là không văn hóa, thiếu văn hóa.
Có thể nói, văn hóa đồng nghĩa với cuộc sổng và đồng nghĩa với phát triển.
Con người ra đời từ văn hóa, trưởng thành từ văn hóa, nắm chắc tương lai bằng văn
hóa. Và như vậy, "nói tới văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những
năng lực, bản chất của con người, nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội.
cơ sở của mọi hoạt động văn hóa là khát vọng vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Có thể coi đó là ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hoá nhân loại" [74, 8],
Cũng như mọi sinh thể khác trong vũ trụ, con người là một bộ phận của tự
nhiên, chịu sự quy định chặt chẽ của tự nhiên. Nhưng khác với các sinh vật khác,
con người còn có một "khoảng trời riêng", một thiên nhiên thứ hai, thiên nhiên do
con người sáng tạo ra bằng lao động và tri thức của mình. Thiên nhiên đó chính là
văn hóa. Nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hóa là cái
nôi thứ hai, ở đó toàn bộ đời sống tinh thần của con người được hình thành, được
nuôi dưỡng và phát triển. Con người không thể tồn tại nếu tách rời tự nhiên, cũng
8

như vậy, con người không thể trở thành con người nếu tách rời môi trường văn hóa.
Trong lịch sử thế giới, không có dân tộc nào sống và phát triển, mà chỉ nhập vãn
hóa từ nước khác. Cũng như một cái cây sống và lớn lên từ gốc rễ, nhờ gốc rễ, một
dân tộc cũng ra đời và trưởng thành từ cội nguồn của mình, tức là từ mảnh đất địa
lý, lịch sử, lòng yêu nước, yêu tự do, từ sức sống nội sinh, từ lao động và sức sản
sinh của mình, từ lối sống, phong tục, tập quán của mình. Tính chất dân tộc là điều
kiện tồn vong của mọi nền văn hóa. Dân tộc ta đã từng trải qua những thời kỳ bị
nước ngoài thống trị với mưu toan đồng hoá, nhưng tinh thần, cốt cách của dân tộc
vẫn được giữ vững. Đó là nhờ tính chất dân tộc của văn hóa, nhờ máu thịt dân tộc
của văn hóa, nhờ sự bền vững vô song của các truyền thống dân tộc.
Như vậy, bản sắc văn hóa chính là tính đặc thù dân tộc của nền văn hóa.
Bản sắc dân tộc được thể hiện, lưu giữ trong văn hóa, định hướng cho sự phát triển
của nền văn hóa dân tộc.
Bản sắc dân tộc của văn hóa là gì? Đó là những yếu tố độc đáo, yếu tô đặc
sắc của một nền văn hóa biểu hiện "đặc tính dân tộc", "cốt cách dân tộc". Chúng
tạo nên sức mạnh cố kết, duy trì và phát triển đời sống một cộng đồng với tư cách
là dân tộc, là bộ "gien bảo tồn dân tộc".
Để trả lời bản sắc văn hoá dân tộc là gì? Trước hết chúng ta cần làm rõ bản
sắc dân tộc.
“ Bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh
huớng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sáng tạo văn hoá của một
dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho
dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất
quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển” [6,125].
Từ bản sắc dân tộc được thể hiện trong văn hoá, chúng ta có thể nêu định
nghĩa “ Bản sắc văn hoá dân tộc là tổng hoà các khuynh hướng cơ bản trong sáng
tạo văn hoá của một dân tộc vốn được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên
với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng, trong quá
trình vận động không ngừng của dân tộc đó” [114,25 ]
Nói tới bản sắc văn hoá dân tộc trước tiên chúng ta nói đến truyền thống

dân tộc, vì “ Truyền thống là một bộ phận của văn hoá. Truyền thống của một dân
tộc nói lên bản sắc văn hoá của dân tộc ấy” [ 44,70].
9
Theo tinh thần đó, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam như quan niệm của
Hội nghị lần 5 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã nêu lên:
"Bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước". Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân
- gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa
tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong
ứng xử, tính giản dị trong lối sống [22,56].
Bản sắc đó đã chi phối toàn bộ đời sống của dân tộc Việt Nam, trải qua mấy
nghìn năm lịch sử, nó được biểu hiện rõ rệt nhất trước những thách thức của lịch sử
đối với vận mệnh dân tộc. Bản sắc văn hóa Việt Nam đã tạo nên sự tồn tại của dân
tộc Việt Nam và giúp cho cộng đồng dân tộc tránh được âm mưu đồng hoá của
mọi kẻ thù xâm lược trong lịch sử. Hệ giá trị tinh thần cốt lõi này (bản sắc văn hóa
dân tộc) chính là "bộ lọc" và hệ quy chiếu để ông cha chúng ta lựa chọn, tiếp thu
những giá trị mới qua nhiều cuộc giao lưu, tiếp xúc văn hóa với các nước trong khu
vực và thế giới qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử. Điều kỳ lạ là trải qua tất cả
các cuộc giao lưu, giao tiếp ấy dù bị áp đặt hay tự nguyện, văn hóa Việt Nam
không những vẫn giữ được bản sắc của mình mà còn trở nên phong phú thêm nhờ
biết thu nhận nhiều yếu tô' mới từ bên ngoài, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước qua các giai đoạn lịch sử, đồng thời cũng phù hợp với giá trị cội nguồn của
văn hóa dân tộc.
Cũng như các lĩnh vực của tự nhiên và xã hội, văn hoá luôn vận động phát
triển và biến đổi không ngừng. Sự phát triển từ thấp đến cao, việc sử dụng các giá
trị văn hoá quá khứ, tiếp nhận các giá trị văn hoá ngoại sinh làm biến đổi nền văn
hoá dân tộc là hiện tượng xảy ra thường xuyên trong lịch sử văn hoá. cắt nghĩa
một cách khoa học các hiện tượng đó chính là chỉ ra quy luật phát triển của vãn

hoá. Có hai quy luật cơ bản tác động đến sự phát triển của văn hoá nhân loại là:
quy luật kế thừa và quy luật giao lưu.
Nhìn chung, xã hội loài người và văn hoá của nó sẽ là sự phát triển đi lên.
Sự phát triển của văn hoá sẽ không thực hiện được nếu không có sự kế thừa. Sự
phồn vinh của một quốc gia, một thời đại lịch sử bao giờ cũng dựa trên nền tảng
10
vững chắc của những giá trị văn hoá mà cộng đồng nhân loại, cộng đồng dân tộc
đã đạt được trước đó. Vì vậy, việc phát huy những di sản văn hoá truyền thống và
sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới là vấn đề đặt ra với mọi quốc gia, mọi dân
tộc ở mọi thời kỳ lịch sử.
Kế thừa văn hoá là một biểu hiện cụ thể của quá trình phủ định biện chứng
diễn ra trên lĩnh vực văn hoá. Thuật ngữ "succession" (kế thừa) được dùng để diễn
đạt quá trình biến đổi, phát triển của các sự vật, hiện tượng văn hoá, các nền văn
hoá diễn ra theo trục thời gian. Quá trình ấy trải qua nhiều giai đoạn, giai đoạn sau
liên tiếp phủ định biện chứng giai đoạn trước để làm nên sự biến đổi, phát triển của
các hiện tượng văn hoá, các nền văn hoá. Kế thừa là quy luật của sự phát triển và
tiến bộ văn hoá.
Kế thừa văn hoá là một quy luật cơ bản của sự phát triển văn hoá. Nó biểu
hiện mối liên hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa giai đoạn trước và giai đoạn sau của
quá trình phát triển văn hoá trong mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc cũng như toàn
nhân loại.
Là một quy luật khách quan, trong lịch sử phát triển bình thường của các
nền văn hoá, kế thừa văn hoá luôn luôn được thực hiện một cách tự phát hoặc tự
giác. Nhờ vậy, dù trong thời kỳ trình độ tư duy của loài người còn thấp, chưa nhận
thức được quy luật, song trong đời sống vẫn diễn ra tiến bộ văn hoá một cách tự
phát. Việc nhận thức được quy luật khiến cho con người thực hiện việc kế thừa vãn
hoá một cách tự giác và tránh được những sai lầm do ấu trĩ, thiếu hiểu biết gây
nên.
Bản chất của kế thừa vãn hoá là sự phủ định biện chứng nền văn hoá cũ để
tạo ra nền văn hoá mới cao hơn. Kế thừa thực hiện sự lọc bỏ, chuyển hoá cái cũ

tích cực thành nhân tố của cái mới; nghĩa là phủ định các yếu tố tiêu cực, lạc hậu.
phát huy yếu tô' tích cực, cải biến chúng cho phù hợp với những yêu cầu của hiện
tại, phù hợp với văn hoá dân tộc và thời đại.
Khái quát tiến trình lịch sử nhân loại. c. Mác và Ph. Ảngghen đã chỉ ra
rằng: các thế thệ sau phải đứng trên vai thế hệ trước mà sáng tạo ra lịch sử. Lịch sử
chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của lịch sử những thế hệ riêng rẽ, trong đó mỗi thê hệ
đều khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả các
thế hệ trước để lại. Do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp thu phương thức hoạt động
11
được truyền lại những trong hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi và mặt khác lại biến
đổi những hoàn cảnh cũ bằng hoạt động hoàn toàn đổi thay.
Như vậy, kế thừa văn hoá gắn với sự biến đổi về chất, là mắt khâu cơ bản
của quá trình phát triển. Trong văn hoá, nó khẳng định giữa các giai đoạn phát
triển của một nền văn hoá luôn có mối liên hệ với nhau, giai đoạn sau không lặp
lại hoàn toàn như giai đoạn trước, song cũng không cắt đứt một cách siêu hình với
giai đoạn trước; sự phủ định biện chứng giữa các giai đoạn sẽ diễn ra quá trình giải
thể cấu trúc cũ, tái lập cấu trúc mới và những yếu tố còn có ý nghĩa tích cực sẽ
được giữ lại, cải biến, tham gia vào cấu trúc mới. Nói cách khác, di sản văn hoá
luôn tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển văn hoá với tư cách là những
yếu tố trong chỉnh thể văn hoá mới. Vì vậy, cần phải phát huy những giá trị văn
hoá truyền thống của dân tộc.
Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm
[75, 742 - 743]. Phát huy bản sắc là làm cho bản sắc văn hóa được lan tỏa trong
nhân dân và tiếp tục được bổ sung phát triển bởi chính thực tiễn cuộc sống của
nhân dân. Không phải đến hôm nay, mà từ thời cha ông chúng ta những người
sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo văn hoá, cũng thường tích luỹ bảo tồn và phát triển
văn hoá dàn tộc. Bởi không bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc thì cũng không
giành được độc lập, tự do, không củng cố được nền độc lập giành được bằng xương
máu.
Ý thức một cách sâu sắc về truyền thống văn hoá dân tộc, Hồ Chí Minh đã

nâng truyền thống của cha ông lên một tầm cao hơn. Người đã kết hợp một cách
sáng tạo truyền thống của dân tộc với tinh hoa của nhân loại để xây dựng cho dân
tộc mình những đuờng lối sáng suốt tạo thành sức mạnh mới trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc và xây dựng Tổ quốc. Vì thế đã hình thành ở Hồ Chí Minh những
quan điểm về sự cần thiết phải kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong
sự nghiệp cách mạng.
Thứ nhất: Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là yêu cầu khách
quan của sự nghiệp cách mạng, của quá trình đấu tranh cách mạng và quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc không chỉ dùng sức mạnh quân sự
để xâm lược các dân tộc, họ còn dùng văn hóa để nô dịch các dân tộc lạc hậu,
nhằm làm cho các dân tộc đó cam chịu kiếp người nô lệ.
12
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam được che đậy dưới danh nghĩa đưa văn
minh cho dân tộc Việt Nam, họ truyền bá chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Rằng
những người da trắng là những người văn minh, những dân tộc thượng đẳng, còn
những người da màu là dân tộc hạ đẳng. Do vậy, người da trắng cai trị người da
mầu là đương nhiên. Thực dân Pháp còn dùng rượu cồn, thuốc phiện để đầu độc
dân tộc Việt Nam, hòng lôi kéo thanh niên Việt Nam vào con đường ăn chơi
hưởng lạc, truyền bá văn hóa Pháp, nhằm làm mất bản sắc văn hóa Việt Nam. Khi
nói về chính sách thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã chỉ rõ:
"Xứ Đông Dương bị chủ nghĩa tư bản Pháp bóc lột, để làm giàu cho
một số cá mập. Người ta đưa người Đông Dương vào chờ chết trong
cuộc chém giết của bọn tư bản để bảo vệ những cái gì mà chính họ
không hề biết. Người ta đầu độc họ bằng rượu cồn và thuốc phiện.
Người ta kìm họ trong ngu dốt cứ 10 trường học thì có 1.000 đại lý
thuốc phiện chính thức. Người ta bịa đặt ra những vụ âm mưu để cho
họ nếm những ân huệ của nền văn minh tư sản ở trên máy chém,
trong nhà tù hay đầy đọa biệt xứ” [65,34].
Do vậy, theo Nguyễn Ái Quốc muốn đấu tranh giải phóng dân tộc phải thức

tỉnh tinh thần yêu nước, phát huy tinh thần yêu nước, phát huy tinh thần đoàn kết,
ý thức tự cường dân tộc của dân tộc Việt Nam - vốn là những truyền thống văn
hóa quý báu của dân tộc Việt Nam, đã bị chủ nghĩa thực dân dùng cồn, thuốc
phiện, dùng biện pháp chia rẽ các dân tộc làm mai một đi truyền thống văn hóa
của dân tộc. Vì thế Hổ Chí Minh đã khẳng định:
“Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam sử
ta dạy cho ta những truyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con
Rồng cháu Tiên, có người giỏi đánh Bấc dẹp Nam. Sử ta dạy cho bài
học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta
độc lập tự do. Trái lại lúc nào ta không đoàn kết thì bị nước ngoài
xâm lược” [64, 216 - 217],
Cần phải vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân để cho nhân dân hiểu được
bản chất bóc lột, sự tàn bạo dã man của chúng. Nguyễn Ái Quốc đã từng nói: “Dù
13
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột” [62,266],
Muốn giải phóng đuợc các dân tộc khỏi chủ nghĩa thực dân, khỏi tình trạng
bị nô dịch phải đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Người khẳng định, giờ
đây học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin là chân
chính nhất, nó đặt ra vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc
đã kêu gọi sự đoàn kết thống nhất phong trào đấu tranh giữa công nhân ở các nước
chính quốc với phong trào đấu tranh của nhân dân ở các nước thuộc địa. Người nêu
mối quan hệ giữa cách mạng ở chính quốc và cách mạng thuộc địa như đôi cánh
của con chim, về chủ nghĩa đế quốc như con đỉa hai vòi, một vòi hút máu ở chính
quốc, một vòi hút máu ở thuộc địa. Sự gắn kết giữa cách mạng ở các nước chính
quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một sự tất yếu
“Công cuộc giải phóng các nước và các dân tộc là một bộ phận khăng khít. Do đó
mà trước hết nảy ra khả năng sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ
giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản ở các nước đế quốc để thắng kẻ thù
chung”. [68,567],

Tinh thần tự cường dân tộc ở Việt Nam cũng đã được Nguyễn Ái Quốc
khơi dậy. Một mặt người kêu gọi tình đoàn kết giữa các dân tộc, giữa giai cấp công
nhân thế giới, mặt khác người lại kêu gọi tinh thần “tự lực cánh sinh dựa vào sức
mình là chính”. Người chỉ ra “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập” [67, 522].
Thứ hai\ Kế thừa phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là yêu cầu khách quan
của sự phát triển bền vững.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, sự phát triển của lịch sử nhân loại là sự
tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa xã hội ra đời từ chủ nghĩa bản nó
không vất bỏ tất cả những di sản của quá khứ mà chỉ loại bỏ tất cả những gì không
phù hợp những cái gì mang tính chất tư bản chủ nghĩa, còn những gì là phù hợp
chúng ta phải tiếp thu. Ví dụ như những thành tựu khoa học công nghệ những
phương pháp quản lý hiện đại. Trong tác phẩm “Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên”
V.I. Lênin đã chỉ ra: “Nếu không hiểu rõ rằng chỉ có sự hiểu biết chính xác về văn
hóa được sáng tạo ra trong toàn bộ quá trình phát triển của loài người và việc cải
tạo nền vãn hóa đó mới có thể xây dựng được nền văn hóa vô sản ” [49,361],
14
Lênin còn nói rằng:“Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu
trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo
ra” [76,362]. Văn hóa của nhân loại cũng như một dòng chảy truyền từ đời này
sang đời khác, không ngừng được bổ sung, phát triển qua thực tiễn lao động sản
xuất và cuộc chiến đấu chống thiên tai địch họa của nhân dân.
Do vậy việc kế thừa văn hóa truyền thống của dân tộc là lẽ tự nhiên trong
quá trình xây dựng nền vãn hóa mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chủ tịch Hổ
Chí Minh đã nhiều lần nói với các nghệ sĩ: "Nghệ thuật của ông cha chúng ta hay
lắm, tốt lắm! Cố mà giữ gìn; làm công tác văn nghệ mà không tìm hiểu sâu vốn
của dân tộc thì không làm được đâu". [77,68]
Có kế thừa những giá trị của văn hóa truyền thống chúng ta mới có thể phát
triển bền vững văn hóa xã hội chủ nghĩa, mới có thể phát huy nó trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sẽ không có một nên vãn

hóa xã hội chủ nghĩa đúng đắn nếu không biết kế thừa văn hóa truyền thống. Chỉ
trên cơ sở đi sâu nghiên cứu nắm vững bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, biết tiếp
thu một cách chọn lọc văn hóa tiên tiến trên thế giới, các nhà văn, các nhạc sĩ, các
nghệ sĩ mới có những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Chỉ có kế thừa được
những giá trị văn hóa truyền thống chúng ta mới phát huy được văn hóa dân tộc
Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta mới khẳng định được bản
lĩnh của dân tộc Việt Nam, chúng ta mới chính là chúng ta, không phải là cái bóng
của người khác. Chỉ có kế thừa được những giá trị bản sắc văn hóa truyền thông,
phát huy nó lên trong điều kiện hiện nay thì mới tạo điều kiện cho chúng ta đứng
vững và phát triển trong thế giới đầy biến động hôm nay. Nếu không đứng vững
trên truyền thống dân tộc chúng ta sẽ tự đánh mất chính bản thân mình.
Thứ ba: Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là điều kiện để xây
dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa thành công.
Văn hóa là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh
điều kiện sống, điều kiện tự nhiên, điều kiện sống của mỗi dân tộc trong mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định. Văn hóa do kinh tế quy định, song văn hóa có tác động trớ
lại sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, khi nhấn mạnh tác động của văn hóa đối
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Muôn
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”, “Vãn
15
hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài mà ở trong
kinh tế và chính trị”. [ 67, 368 - 369]. Do vậy, “để phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về
hình thức” [70, 60].
Đất nước ta còn nghèo, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, do vậy
chúng ta phải biết phát huy những truyền thống quý báu trong văn hóa dân tộc
Việt Nam, biến nó thành sức mạnh vật chất để vượt qua những khó khăn hạn chê
đó. Vì vậy, để kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thì chúng ta phải nhận
thức được những nguyên tắc kế thừa và phát huy trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Một số nguyên tắc kế thừa, phát huy bản sác văn hóa dân tộc trong

tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính chất dân tộc của nền văn hoá mới thực chất
là vấn đề kế thừa truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, kết hợp chặt chẽ với việc
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Nghiên cứu tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, chúng ta có thể hiểu tính chất dân
tộc, hay đặc tính, cốt cách dân tộc của văn hoá Việt Nam, như Người đã nói, là tính
chất riêng, là cái tinh tuý bên trong, tạo nên những nét khác biệt của văn hoá Việt
Nam so với các nền văn hoá khác; đó cũng là những nét khác biệt của dân tộc Việt
Nam so với các dân tộc khác. Nó được thể hiện trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn,
tính cách, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, trong các loại hình văn học nghệ
thuật, trong toàn bộ đòi sống tinh thần của dân tộc; và tập trung nhất là trong những
truyền thống tốt đẹp của văn hoá Việt Nam, tạo nên những giá trị tinh thần bền
vững, có sức sống vượt qua mọi thử thách của thời gian. Những giá trị ấy có khi bộc
lộ công khai, có khi tiềm ẩn trong chiều sâu của đời sống con người và xã hội. Điều
này đã được Hồ Chí Minh nêu rõ khi phản ánh về truyền thống yêu nước, một
truyền thống nổi bật nhất của văn hoá Việt Nam: "tinh thần yêu nước cũng như các
thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy.
Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm" [67,172], Chính vì vậy,
dù đất nước ta trong quá khứ đã từng bị nước ngoài đô hộ hàng trăm năm, thậm chí
cả nghìn năm, nhưng nền văn hoá Việt Nam vẫn không bị đồng hoá, ngược lại, nó
vẫn tồn tại và phát triển, để trở nên ngày càng phong phú, tạo nên sức sống bất diệt
của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới có tính chất dân
16
tộc khoa học đại chúng, Hồ Chí Minh đã thành công. Những thành tựu vãn hoá đó
là do Hồ Chí Minh đã thực hiện một sô nguyên tắc sau trong việc kế thừa và phát
huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Nguyên tắc thứ nhất: Kế thừa có chọn lọc những giá trị văn hoá dân tộc.
Xây dựng nền văn hoá có tính chất dân tộc trước hết phải biết trân trọng, giữ
gìn, kế thừa và phát triển những truyền thống tốt đẹp, những giá trị tinh thần bền
vững của vãn hoá dân tộc, bao gồm vãn hoá của các tộc người trong một quốc gia đa

dân tộc thống nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dận các văn nghệ sĩ: "Nghệ thuật
của ông cha ta hay lắm, tốt lắm! Cố mà giữ gìn" ; "Làm công tác văn nghệ mà
không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc thì không làm được đâu" [77,68]. Ngày 7-10-
1965, khi nói chuyện với Irêne Phabe, một nhà nghiên cứu văn học của Đức đã dịch
Truyện Kiều của Nguyễn Du sang tiếng Đức, Hồ Chí Minh nêu rõ quan điểm của
mình: "những người cộng sản chúng ta rất quý cổ điển: có nhiều dòng suối tiến bộ
chảy từ ngọn nguồn cổ điển đó. Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, càng phải
coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông" [77, 421],
Đây chính là quan điểm của Lênin khi phê phán phái "văn hoá vô sản" thời
kỳ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, muốn phủ định sạch trơn tất cả những gì thuộc
về văn hoá quá khứ. Khuynh hướng sai lầm ấy hoàn toàn trái ngược với quy luật
phát triển của văn hoá, của xã hội loài người. Khi đã giành được chính quyền, giai
cấp vô sản không thể xây dựng được nền văn hoá mới nếu không xuất phát từ những
gì mà văn hoá quá khứ để lại, cũng như không thể có chủ nghĩa Mác, nếu nó không
bắt nguồn từ triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa
xã hội không tưởng Pháp.
Hồ Chí Minh còn gọi những truyền thống tốt đẹp của cha ông là những "vốn
củ quỷ báu của dân tộc". Người nhấn mạnh đến những gì là tốt đẹp, là quý báu
trong truyền thống, trong vốn cũ để phân biệt với những gì lạc hậu, lỗi thời mà vốn
cũ còn để lại. Chúng ta phải biết trân trọng, giữ gìn, kế thừa và phát huy những cái
gì tốt đẹp, quý báu, đồng thời phải biết loại bỏ những cái lạc hậu, lỗi thời của vốn
cũ, của truyền thống cũ. Người đã chỉ ra cho những người làm công tác văn hoá ràng
việc giữ gìn, kế thừa vốn cũ không phải là "phục cổ một cách máy móc" mà "cái gì
tốt thì ta nên khôi phục và phát triển, còn cái xấu thì ta phải bỏ đi" cái gì không xấu
nhưng phiền phức thì ta phải sửa đổi lại cho hợpiỷ [67, Q4] Dây chính là quan điếm
O A I H O C Q u o r . C.IA HA m A i
^ OAI HOC Q UỐC GIA HA NỘI
IPUNG TẨM THÔNG TIN ĨHII \/!f rj
17
phủ định biện chứng đã được vận dụng trong việc xây đựng nền văn hoá mới. Điều

này Ảngghen cũng đã đặt ra từ lâu: Phải loại bỏ những truyền thống xấu của quá
khứ vẫn đè nặng lên những người đang sống.
Như vậy là trong việc xây dựng nền văn hoá mới, có tính chất dân tộc phải
tránh khuynh hướng sai lầm: một là, phủ định sạch trơn tất cả những gì mà văn hoá
quá khứ của dân tộc đã để lại, kể cả những truyền thống tốt đẹp, những vốn cũ quý
giá, những giá trị bền vững của văn hoá dân tộc ; hai là, kế thừa tất cả những gì đã
có của văn hoá quá khứ, kể cả những cái đã lạc hậu, lỗi thời. Khuynh hướng trên sẽ
dẫn tới chỗ xoá bỏ tính chất dân tộc của văn hoá, còn khuynh hướng dưới lại làm
hỏng tính chất dân tộc của nền văn hoá mới mà chúng ta cần xây dựng.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần phân tích rất kỹ các truyền thống văn hoá tốt đẹp
của dân tộc. Đó là truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc trong một quốc gia đa dân
tộc. Đó là sự hoà hợp giữa các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam. Đó là tinh thần yêu
nước thương nòi, là ý chí quật cường bất khuất, là khí phách anh hùng, sẵn sàng hy
sinh quên mình vì nước; đó là tinh thần cộng đồng, tinh thần nhân nghĩa, tinh thần
lao động cần cù, dũng cảm; đó là tinh thần cần kiệm trong sinh hoạt, giản dị trong
lối sống, tế nhị trong cư xử, trọng tình nghĩa từ trong gia đình đến ngoài xã hội
Những truyền thống văn hoá tốt đẹp ấy đã được hình thành và phát triển trong lịch
sử lâu dài của cả cộng đồng dân tộc, đã được kết tinh, trở thành những giá trị bền
vững thống nhất mà đa dạng không phải chỉ có ý nghĩa đối với các thời kỳ lịch sử đã
qua, mà còn có ý nghĩa to lớn trong giai đoạn cách mạng hiện nay cũng như mãi mãi
về sau này. Dù đất nước ta có phát triển đến đâu chăng nữa thì truyền thống văn hoá
tốt đẹp của dân tộc vẫn phải được trân trọng, giữ gìn, bởi lẽ một dân tộc để mất
truyền thống, mất bản sắc cũng có nghĩa là để mất chính mình, mất tất cả.
Nhưng kế thừa không có nghĩa là giữ nguyên như cũ, mà phải phát triển
những truyền thống văn hoá tốt đẹp vốn có của dân tộc cho phù hợp với những điều
kiện lịch sử cụ thể mới của đất nước và những biến đổi mới của thời đại nhằm giải
quyết những nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới hiện nay. Kế thừa mà không
biết phát triển thì những truyền thống dân tộc dù có tốt đẹp đến mấy cũng không
còn sức sống, và như vậy, sự kế thừa ấy cũng đồng nghĩa với việc làm mất hết ý
nghĩa của những cái gì đang được kế thừa.

18
Trong văn hoá, có cả hai mặt: phát triển những truyền thống tốt đẹp và loại
bỏ những truyền thống lạc hậu, khắc phục những cái lỗi thòi của quá khứ đều rất
khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, đó là những vấn đề thuộc về nhận thức tư tưởng, tập quán
và kiến thức của con người, những vấn đề đã đi sâu vào thói quen, tâm lý, lối sống
không phải chỉ của một sô' người, mà là của cả cộng đồng xã hội rộng lớn. Vì vậy,
thường xuyên đẩy mạnh cả hai mặt đó là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn
hoá mới.
Trân trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, đề cao tính chất
dân tộc của văn hoá không có nghĩa là làm cho văn hoá thu mình trong chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi, thiển cận, "đóng cửa" cự tuyệt tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại,
kỳ thị văn hoá của các dân tộc khác. Trong tư tuởng văn hoá Hồ Chí Minh, chúng ta
thấy có sự thống nhất biện chứng giữa tính dân tộc và tính nhân loại, cũng như sự
thống nhất biện chứng giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản - nét
đặc trưng nổi bật trong tư tưởng chính trị của Người.
Nguyên tắc thứ hai, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống là gắn liền với phát triển nâng nó
lên một trình độ và chất lượng mới, nhằm đáp ứng trình độ văn hoá ngày càng tăng
của nhân dân. Nói đến bản sắc văn hoá dân tộc là nói đến nét đậm đà, sâu sắc nhất,
và mang tính phát triển. Bản sắc văn hoá dân tộc nếu không được bổ sung, phát
triển, thì dù có hàm chứa những giá trị cao đẹp đến mấy cũng không thể trở thành
sức mạnh lâu bển của dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc không chỉ là giá trị quá khứ
vĩnh hằng, mà còn là thực tại và hướng về tương lai. Vì thế, kế thừa văn hóa truyền
thống dân tộc không phải là tự hạn chế mình trong vốn cũ, thoả mãn với bài học cũ,
hoặc cứ rủ nhau đi nguợc về cội nguồn, tìm về quá khứ. Vì thế vãn hoá dân tộc cần
phải tiếp thu, học tập tinh hoa của văn hoá nhân loại. Chính những giá trị tiến bộ của
văn hoá nhân loại sẽ làm phong phú thêm, bồi đắp thêm cho văn hoá dân tộc. Hồ
Chí Minh hiểu sâu sắc cái giá trị đáng trân trọng của bản sắc vãn hoá mỗi dân tộc.
Người cho rằng, văn hoá dù là sản phẩm sáng tạo riêng của mỗi dân tộc cũng đều
nhằm đạt tới chân, thiện, mỹ. Và chân, thiện, mỹ là một điều kiện quan trọng bậc

nhất để các nền văn hoá, có thể giao lưu, hội nhập, tiếp thu lẫn nhau. Sự giao lưu văn
hoá theo quan niệm cách mạng và khoa học của Hồ Chí Minh là nhằm cho các dân
tộc xích lại gần nhau, cùng phấn đấu mưu cầu hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ
19
xã hội cho tất cả các dân tộc tuyệt nhiên không có thôn tính hay đồng hoá lẫn nhau,
càng không thể là sự "ủng hộ" của "nền văn minh cao hơn" bằng bạo lực - máu lửa
đối với nền văn minh của các dân tộc yếu hơn. Hồ Chí Minh từng tâm sự với bạn bè
thế giói: "Có điều các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng chúng tôi cần phải dứt bỏ văn hoá
nào đó, dù là văn hoá Pháp đi nữa" [34, 516-517]. Một phóng viên trên tờ báo Mỹ
"Diễn đàn" đã khẳng định: "Cụ Hồ không phải là một người dân tộc hẹp hòi mà Cụ
là một người yêu mến văn hoá Pháp trong khi chống thực dân Pháp, một người biết
coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước của Cụ
[34, 331].
Nền văn hoá Việt Nam được hình thành và phát triển trong lịch sử lâu dài của
dân tộc không phải là kết quả vận động chỉ riêng những yếu tô' nội sinh. Văn hóa
Việt Nam đã tiếp thu văn hóa Trung Hoa, Ân Độ và nhiều nền văn hóa khác để làm
phong phú cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Nho giáo, Phật giáo vào Việt Nam đã
hội nhập vào văn hóa Việt Nam, đóng góp vào văn hóa Việt Nam từ phong tục tập
quán tới những quan niệm đạo đức. Kế thừa truyền thống của ông cha ta, Hồ Chí
Minh cho rằng: Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy đê tạo ra
một nền văn hoá Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa và vãn
hoá nay, trau dồi cho văn hoá thật có tinh thần thuần tuý Việt Nam để hợp với tinh
thần dân chủ.
Như vậy, việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, của cả cổ kim Đông Tây là
một vấn đề lớn trong tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh. Nhưng đây không phải là sự
tiếp thu xô bổ mọi thứ của thiên hạ, mà là chọn lọc những cái hay, cái tốt, cái đẹp để
làm giàu thêm cho văn hoá dân tộc. Đây thực sự là sự thâu hoá những tinh hoa vãn
hoá nhân loại, làm cho những tinh hoa ấy trở thành những cái hay, cái tốt, cái đẹp
mang "tinh thần thuần tuý Việt Nam". Đây thực sự là "Việt Nam hoá" những cái từ
ngoài đến, biến chúng thành những cái bên trong, tự nhiên như những yếu tố nội

sinh của văn hoá Việt Nam.
Như Hồ Chí Minh quan niệm, trong nền văn hoá Việt Nam có "sự chung đúc
lại" những tinh hoa văn hoấ Đông phương và Tây phương. Điều đó cũng có nghĩa là
nền văn hoá Việt Nam do dân tộc Việt Nam tạo dựng không phải chỉ từ những yếu
tố nội sinh, mà còn kết hợp với sự chiếm lĩnh, thâu hoá những giá trị của nhiều nền
văn hoá khác. Đứng vững trên cái nền dân tộc để chiếm lĩnh, thâu hoá những giá trị
20
văn hoá bên ngoài, bản lĩnh đó của dân tộc Việt Nam đã được thể hiện trong suốt
chiều dài lịch sử mấy nghìn năm. Bản lĩnh đó càng được phát huy mạnh mẽ hơn
trong việc xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, trong
thời kỳ đất nước ta mở rộng giao lưu quốc tế, hội nhập khu vực và thế giới.
Là người mở đường cho việc xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam, là nhà văn
hoá kiệt xuất của nhân loại, Hồ Chí Minh là hiện thân tiêu biểu nhất của sự kế thừa
truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, kết hợp với việc tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại, kết hợp tính dân tộc với tính nhân loại trong văn hoá. Chính vì vậy, người
không ở tầm cao, xa cách mọi người, mà trái lại rất gần gũi với mọi người Việt
Nam; Người không xa cách thế giới mà lại gần gũi với tất cả bạn bè gần xa trên thế
giới. Người đã đưa dân tộc đến với nhân loại và thời đại - điều chưa từng có trong
lịch sử Việt Nam.
Đứng vững trên cái nền văn hoá dân tộc, Hồ Chí Minh đã thâu hoá những
tinh hoa của văn hoá phương Đông và phương Tây, rút ra những cái hay, cái hợp
lý, cái tích cực của nhiều học thuyết, từ Nho - Phật - Lão đến Giêsu, Tôn Trung
Sơn, Gandi V V và đặc biệt là việc tiếp thu chủ nghĩa Mác -Lênin để đưa tư tưởng
Việt Nam lên ngang tầm thời đại. Hồ Chí Minh luôn tự coi mình là một học trò
nhỏ của Khổng Tử, Giê su, Các Mác, Tôn Dật Tiên. Người viết:
" Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo
đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao
cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó
thích hợp với điều kiện của nước ta. Tôi cố gắng làm người học trò

nhỏ của các vị ấy". [111,152].
Phải có tư duy văn hoá rộng mở, phải có tư tưởng văn hoá ở tầm nhân loại
và lịch sử toàn thế giới, mới có thể nêu ra được những nhận định hết sức quan
trọng và độc đáo như thế. Điều đó chỉ có thể thấy ở nhà văn hoá kiệt xuất Hồ Chí
Minh.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn hoá Trung Quốc, Pháp,
Anh, Mỹ, Liên Xô, An Độ và của các dân tộc khác. Trong khi chống thực dân
Pháp, Người vẫn để cao vẫn hoá Pháp. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Người phân biệt nhân dân Mỹ với bọn đế quốc xâm lược Mỹ , cũng như
21
phân biệt truyền thống văn hoá - cách mạng Mỹ với nền văn hoá của chủ nghĩa tư
bản hiện đại Mỹ làm tha hoá con người và nô dịch các dân tộc khác. Việc trích dẫn
một số điểm trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyên của Pháp năm 1791 để mở đầu cho bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1945 là một dẫn chứng nổi bật
về vấn đề này.
Một điều kiện cần thiết phải có để có thể tiếp thu được tinh hoa văn hoá
nhân loại là những người làm văn hoá, văn nghệ phải có kiến thức, phải chịu khó
học hỏi, nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Hồ Chí Minh nói: "phải mở rộng
kiến thức của mình về văn hoá thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hoá Xôviết.
Phải nghiên cứu toàn diện văn hoá của các dân tộc khác, chỉ trong trường hợp đó
mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hoá của chính mình"[60,5].
Việc tiếp thu văn hoá nhân loại như vậy phải thông qua những đại biểu có
trình độ, đủ để phân biệt được những gì là tinh hoa với những gì không phải tinh
hoa, những gì có thể và cần tiếp thu hoặc ngược lại. Sự thiếu hiểu biết đối với các
nền văn hoá khác, quan điểm mơ hồ trong vấn đề tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại có thể dẫn đến hai khuynh hướng hoặc "sùng ngoại", hoặc "bài ngoại". Cả hai
khuynh hướng này trước kia đều đã có ở nước ta, đến nay vẫn không phải không
có. Do bảo thủ nên mọi cái của nước ngoài đều e ngại, đều cho là của chủ nghĩa tư
bản, nên không cần nghiên cứu, không thể tiếp nhận. Ngược lại, do "sùng ngoại"

nên đã đồng nhất hiện đại hoá với "phương Tây hoá", mọi cái mới của nước ngoài
đều coi là "tiên tiến, hiện đại ", đều có thể "ăn sống nuốt tươi", không phân biệt
hay dở, tốt xấu, tiến bộ hay chỉ làm tha hoá con người. Điều này có thể thấy khá rõ
trong lĩnh vực văn hoá văn nghệ, trong lối sống, và trong các lĩnh vực khác nữa.
Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta:
"Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc trong khi học tập kinh
nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ
nghĩa giáo điều. Nhưng quá nhấn mạnh đến đặc điểm dân tộc để phủ
nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các
nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại"
[68,499]
22

×