Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận Cao học môn Chính sách công Vấn đề hoạch định chính sách công ở nước ta hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.33 KB, 22 trang )

1
MỞ ĐẨU
Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được các Nhà
nước sử dụng để quản lý và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Ở mỗi giai đoạn phát triển, mỗi nhiệm vụ, lĩnh vực khác nhau,
yêu cầu Nhà nước phải có những chính sách cụ thể. Ở Việt Nam, chính sách
công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện
chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước; là sự cụ thể hóa đường lối, chiến lược
và các định hướng chính sách của Đảng; được thể chế hóa thành các văn bản
quy phạm pháp luật nhằm tạo ra các căn cứ pháp lý cho việc thi hành, song nó
bao gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc, mà có tính
định hướng, kích thích phát triển.
Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định
chính sách, tiếp theo là thực thi chính sách và sau một khoảng thời gian thực
hiện cần tiến hành đánh giá chính sách để điều chỉnh, bổ sung chính sách cho
phù hợp. Hoạch định chính sách được coi như là bước khởi đầu trong chu
trình chính sách, đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách
đúng đắn, khoa học sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách
đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, hoạch định sai cho
ra đời chính sách không phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi sẽ mang lại
hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những tổn hại này không
chỉ tạm thời, cục bộ, mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan tới nhiều lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau.
Nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về hoạch định chính sách công và
thực trạng hoạch định chính sách ở nước ta, em lựa chọn đề tài: “Vấn đề
hoạch định chính sách công ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp”
làm tiểu luận kết thúc môn học Hoạch định và thực thi chính sách Chương
trình Cao học chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.


2


B. NỘI DUNG
1. Một số vấn đề chung về hoạch định chính sách công
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm chính sách công
Theo các học giả phương tây thì chính sách công là một tập hợp các
quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà
chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được
các mục tiêu đó (theo William Jenkin) hay chính sách công là cái mà Chính
phủ lựa chọn làm hay không làm"(theo Thomas R. Dye, 1984).
PGS.TS. Lê Chi Mai cho rằng chính sách công có những đặc trưng cơ
bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công
không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động,
hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết
những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định;
chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau.
Mặc dù đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về chính sách công
nhưng có thể hiểu: Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các
quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang
đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định. Với quan niệm
đó, chính sách công có vai trò to lớn trong hoạt động quản lý xã hội của nhà
nước. Trong nền hành chính nhà nước, chính sách công là bộ phận nền tảng
trọng yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành
khác như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.
1.1.2. Khái niệm hoạch định chính sách
Hoạch định chính sách, có thể được hiểu là hành động làm ra (ra quyết
định) chính sách; nhưng thường được hiểu là một quá trình bao gồm nhiều
hoạt động, nhiều giai đoạn. Quá trình hoạch định chính sách (policy-making
process) có thể được chia thành nhiều bước khác nhau; cách tiếp cận khác



3
nhau tùy thuộc vào mô hình lý thuyết được áp dụng. Đối với cách tiếp cận các
giai đoạn của quy trình hoạch định chính sách, thì trước khi chính sách được
thông qua, cần lập chương trình và hình thành (hoặc xây dựng) chính sách.
1.1.3. Khái niệm hoạch định chính sách công
Hoạch định chính sách công được hiểu là việc xây dựng một chính sách
mới theo yêu cầu quản lý. Chính sách công được hoạch định mới phải bao gồm
mục tiêu và biện pháp mới, trong đó quyết định nhất là mục tiêu mới được chủ
thể xác định cần phải theo đuổi. Như vậy việc bổ sung mục tiêu và điều chỉnh
chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tế theo thời gian không được coi là
hoạch định chính sách mới. Nó chỉ được coi là điều chỉnh chính sách.
Như vậy, có thể hiểu hoạch định chính sách công là toàn bộ quá trình
nghiên cứu, xây dựng và ban hành đầy đủ một chính sách công. Sau khi ban
hành, chính sách công sẽ có hiệu lực thực thi đối với mọi tổ chức, cá nhân
trong xã hội. Giá trị của chính sách công được thể hiện ở thể thức, nội dung
và thẩm quyền ban hành của cơ quan nhà nước.
1.2. Các căn cứ hoạch định chính sách công
1.2.1. Định hướng chính trị của đảng cầm quyền
Đường lối phát triển xã hội của đảng cầm quyền là căn cứ để nhà nước
đề ra các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong dài hạn và ngắn
hạn. Mục tiêu định hướng cho các thời kỳ là những giá trị về lượng và chất
của đời sống theo nhu cầu xã hội. Để đạt được những mục tiêu đề ra, nhà
nước phải sử dụng các công cụ vĩ mô để quản lý, điều hành các đối tượng vận
động theo định hướng. Trong hàng loạt công cụ quản lý thường dùng thì
chính sách công tỏ ra là công cụ đắc lực nhất của các nhà nước, vì thế mục
tiêu chính sách cũng là mục tiêu quản lý nhà nước trong từng thời kỳ.
Như vậy, có nghĩa là mục tiêu chính sách phải xuất phát từ đường lối
phát triển của chế độ xã hội do đảng cầm quyền khởi xướng. Đường lối phát
triển của một chế độ xã hội do đảng cầm quyền lựa chọn là ổn định, lâu dài.



4
Tính ổn định của đường lối sẽ tạo ra sự thống nhất trong quá trình vận hành
xã hội theo quy luật, hạn chế hoặc loại bỏ được những biến cố phát sinh trái
quy luật làm tổn hại đến đời sống nhân dân, giúp cho xã hội có những bước đi
vững chắc trên con đường phát triển. Cùng với sự vận động phát triển của các
yếu tố kinh tế - xã hội, nhận thức của các tầng lớp nhân dân trong xã hội cũng
không ngừng được nâng cao, vì thế mà mục tiêu và biện pháp quản lý phát
triển do chủ thể đề xướng ngày càng đầy đủ, hoàn thiện. Tính toàn diện, hợp
quy luật từ ý thức giai cấp đến hành vi ứng xử của chủ thể đối với diễn biến
trong thực tế hiện tại và tương lai chính là quan điểm phát triển của chủ thể.
Quan điểm phát triển có thể thay đổi giữa các thời kỳ tuỳ theo nhận thức của
người lãnh đạo, trong khi đường lối phát triển thì ổn định, ít thay đổi. Cho
nên, việc hoạch định chính sách phát triển của nhà nước trong từng thời kỳ
ngoài việc căn cứ vào đường lối chính trị còn phải dựa vào quan điểm phát
triển của đảng cầm quyền trong thời kỳ đó.
1.2.2. Năng lực thực tế của chủ thể tham gia thực hiện chính sách công
Tính khả thi của chính sách công tùy thuộc rất lớn vào ý thức chấp
hành nghiêm túc hay không của các chủ thể tham gia thực hiện chính sách,
thậm chí đây còn là yếu tố ảnh hưởng quyết định đến tính khả thi của một
chính sách. Chủ thể tham gia thực hiện chính sách công bao gồm các tổ chức
trong hệ thống chính trị, tổ chức kinh tế, xã hội và các tầng lớp nhân dân có
cùng nguyện vọng phát triển vì mục tiêu chung, trong đó bao gồm cả người
thụ hưởng lợi ích từ thực hiện chính sách.
Kết quả thực hiện chính sách công của các chủ thể chịu ảnh hưởng từ
nhiều yếu tố, trong đó yếu tố trực tiếp, quan trọng nhất là trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của từng nhóm chủ thể. Nếu chủ thể tham gia thực hiện chính sách
công có trình độ dân trí cao, họ sẽ nhận thức một cách đầy đủ mục tiêu chính
sách để chủ động, tự giác thực hiện. Ngoài ra, họ không những có năng lực vận
dụng linh hoạt các biện pháp định hướng của chính sách, mà còn sáng tạo, tìm



5
kiếm các biện pháp hiệu quả hơn. Vì vậy, khi hoạch định chính sách công, nhà
lãnh đạo nhất thiết phải căn cứ vào trình độ, nhận thức của các chủ thể tham gia
thực hiện để xác định mục tiêu và biện pháp chính sách cho thích hợp. Để giảm
bớt tính phức tạp của chính sách công với các chủ thể tham gia thực hiện, trước
hết phải xác định rõ ràng, cụ thể mục tiêu và biện pháp chính sách để người
dân không thể hiểu sai về bản chất các yếu tố cấu thành chính sách.
1.2.3. Tình trạng pháp luật trong xã hội
Chính sách và pháp luật đều là những công cụ quan trọng để nhà nước
quản lý xã hội. Trong hệ thống công cụ quản lý vĩ mô thì chính sách và pháp
luật có mối quan hệ khá đặc biệt, chúng vừa làm cơ sở cho nhau, vừa thúc đẩy
nhau phát triển. Chính sách là công cụ định hướng của các nhà nước nhằm
dẫn dắt các chủ thể trong xã hội hành động hướng đến những mục tiêu chính
trị. Pháp luật là công cụ điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể để bắt buộc
họ phải chấp hành những quy tắc khi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội
phù hợp theo định hướng chính trị.
Tình trạng pháp luật của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạch định và thực thi chính sách công. Tình trạng này được hiểu là thực
trạng về số lượng, chất lượng của hệ thống pháp luật hiện có so với yêu cầu
phát triển xã hội và ý thức tuân thủ pháp luật của tổ chức, công dân. Nếu tình
hình pháp luật, pháp chế của xã hội là tốt thì mục tiêu của chính sách công có
thể nhận được sự ủng hộ cao của các chủ thể do có sự ổn định về nếp sống và
làm việc của mỗi người trong xã hội, phù hợp với định hướng chính trị. Để
hiện thực hóa mục tiêu chính sách công, nhà nước chỉ cần xây dựng những
biện pháp mềm dẻo nhưng vẫn có tính khả thi cao. Như vậy, các nhà nước cần
dựa vào tình trạng pháp luật trong một thời kỳ nhất định để hoạch định chính
sách công, nhất là lựa chọn biện pháp chính sách cho thích hợp, hiệu quả.
1.2.4. Môi trường tồn tại của chính sách công

Sau khi hoạch định, chính sách công sẽ được tổ chức thực thi. Kết quả
đem lại của mỗi chính sách bị chi phối khá lớn bởi môi trường mà nó tồn tại.


6
Ở mỗi quốc gia, các chính sách công phải tồn tại với môi trường phong phú,
đa dạng gồm các yếu tố: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tự nhiên, quốc
tế… Các yếu tố này lại biến động không đều nhau trong từng thời kỳ phát
triển, chúng đan xen vào nhau tác động phức tạp đến sự tồn tại của chính
sách. Trong môi trường xã hội lành mạnh có trình độ dân trí cao, đời sống dân
cư tốt, tập quán sinh sống văn minh, truyền thống dân tộc thống nhất, có nền
dân chủ phát triển thì các chính sách sẽ đi vào đời sống được thuận lợi và
nhanh chóng phát huy tác dụng. Tuy vậy, nếu xã hội đó lại đặt vào một môi
trường quốc tế không thuận lợi như chiến tranh hay xã hội bất ổn thì chính
sách lại phải mang tính khu vực và quốc tế mới có thể tồn tại trong đời sống
xã hội. Vì thế các nhà hoạch định chính sách công phải căn cứ vào môi trường
tồn tại trong thực tế và tương lai để xây dựng những chính sách phù hợp trong
từng giai đoạn phát triển.
1.3. Các bước hoạch định chính sách công
1.3.1. Phân tích bối cảnh hoạch định chính sách công
Bối cảnh hoạch định chính sách công bao gồm các yếu tố bên trong hệ
thống nhà nước và bên ngoài xã hội ảnh hưởng đến nhu cầu, nguyện vọng về
phát triển bền vững kinh tế - xã hội của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp
dân cư. Thực trạng vận động của các yếu tố đó ngoài việc gây ảnh hưởng
thuận lợi hay khó khăn cho quá trình hoạch định chính sách công, còn làm
xuất hiện những thời cơ và thách thức đối với quá trình này. Những yếu tố
này liên tục vận động theo nhiều phương, chiều khác nhau, thậm chí còn
chuyển hóa cho nhau một cách phức tạp. Muốn xác định đúng mức độ tác
động lẫn nhau giữa các yếu tố môi trường đến mục tiêu phát triển, chủ thể
quản lý phải thường xuyên phân tích bối cảnh kinh tế, xã hội. Kết quả việc

làm này cho thấy được nguồn gốc phát sinh những vấn đề cần được giải quyết
bằng chính sách; mức độ quan trọng của vấn đề; những yếu tố liên quan đến
giải quyết vấn đề... Từ đó các chủ thể xây dựng thành kịch bản giải quyết vấn
đề làm cơ sở cho hoạch định chính sách công. Tính chất vấn đề của chính


7
sách công thường được xem xét dưới các góc độ chính như: tính bức xúc của
vấn đề chính sách công đối với đời sống xã hội; tính phức tạp của vấn đề
chính sách công; tính quan trọng của vấn đề chính sách công...
1.3.2. Hình thành ý tưởng về chính sách công
Ý tưởng chính sách như là một sáng kiến về định hướng giải quyết vấn
đề chính sách công trên thực tế. Sau khi phân tích môi trường chính sách,
ngoài việc tìm thấy vấn đề chính sách, các chủ thể còn xác định được thái độ
chính trị của nhà nước đối với vấn đề chính sách công. Nếu thật sự vấn đề cần
phải giải quyết bằng chính sách thì ý tưởng chính sách sẽ được tiếp diễn. Tuy
nhiên, sự tiếp diễn ý tưởng chính sách còn phải cân nhắc xem khả năng giải
quyết vấn đề đến đâu. Khả năng này bao gồm cả nhà nước và xã hội trong
việc huy động nguồn lực thực có và tiềm tàng. Không những thế, ý tưởng
chính sách cũng phải đặt lên “bàn cân” về tính hiệu quả. Bởi nếu giải quyết
vấn đề bằng mọi giá cũng chưa phải là một ý tưởng chính sách công tốt.
1.3.3. Dự thảo các phương án giải quyết vấn đề chính sách công
Dự thảo các phương án giải quyết vấn đề chính sách công nhằm cho ra
đời những kịch bản chính sách công để các cơ quan có thẩm quyền làm căn cứ
tiến hành hoạch định chính sách. Do hoạt động kinh tế - xã hội chịu tác động
của nhiều quy luật khách quan nên trong thực tế người ta có thể giải quyết các
vấn đề chính sách công bằng nhiều cách khác nhau. Ví dụ, muốn nâng cao thu
nhập bình quân đầu người để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người
dân, nhà nước có thể đưa ra biện pháp khuyến khích đầu tư để đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng có thể sử dụng các biện pháp hạn chế tốc

độ tăng dân số trong điều kiện hữu hạn về tăng trưởng kinh tế và cũng có thể sử
dụng đồng thời các biện pháp trên. Để chính thức lựa chọn cách thức tác động
nào trên đây, nhà nước phải ban hành một chính sách công.
Như vậy, việc dự thảo các kịch bản chính sách công là tất yếu khách
quan. Mỗi phương án đều thể hiện một cách ứng xử của nhà nước với các vấn


8
đề kinh tế - xã hội bao gồm mục tiêu cần đạt được là nâng cao đời sống người
dân và cách thức đạt mục tiêu là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay kiềm chế tốc
độ tăng dân số bằng cơ chế quản lý, bằng nguồn lực kinh tế, xã hội hay bằng
mệnh lệnh hành chính. Với ý nghĩa đó, khi dự thảo kịch bản chính sách công
cần đưa ra nhiều phương án khác nhau để cả chủ thể ban hành và chủ thể tham
gia thực thi chính sách công có điều kiện lựa chọn một phương án tốt nhất.
Cũng cần biết rằng, quy mô, trình độ của mục tiêu và biện pháp trong các kịch
bản chính sách công là không giống nhau, thậm chí còn trái ngược nhau. Biết
điều này để tạo nên sự độc lập giữa các nhà xây dựng kịch bản chính sách công
nhằm bảo đảm tính khách quan, khoa học của mỗi phương án.
1.3.4. Lựa chọn phương án tối ưu
Lựa chọn phương án chính sách là bước tiếp theo của dự thảo chính
sách nhằm xác định được kịch bản tối ưu trong số các kịch bản chính sách xây
dựng. Khi lựa chọn kịch bản chính sách công cần dựa vào các tiêu chuẩn của
một chính sách tốt để xem xét, đồng thời cũng kiểm tra, đánh giá các căn cứ
khoa học được dùng khi xây dựng phương án chính sách và nghiên cứu phân
tích các yếu tố ảnh hưởng đến mô hình chính sách nếu được triển khai thực
hiện. Việc xem xét trên đây có thể được thực hiện bằng cách cho điểm từng
nội dung rồi tổng hợp lại, hay cũng có thể sử dụng phương pháp so sánh,
phương pháp thay thế, phương pháp loại trừ... từ đó có được một quyết định
đúng đắn nhất. Để lựa chọn được phương án chính sách công tối ưu không
nên chỉ dừng lại ở cấp hoạch định, mà cần mở rộng đến các đối tượng thực thi

chính sách để vừa bảo đảm tính khách quan, vừa tạo nên sự đồng thuận giữa
chủ thể và khách thể trong quá trình lựa chọn.
1.3.5. Hoàn thiện phương án lựa chọn công
Phương án lựa chọn mới chỉ đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của
một chính sách, còn cần phải bổ sung, hoàn thiện về nội dung theo yêu cầu
của cả chủ thể và đối tượng chính sách. Phương án dự thảo chính sách công


9
mới chỉ là kết quả nghiên cứu đề xuất của một bộ phận các nhà hoạch định vì
thế nó vẫn thiếu tính thống nhất, toàn diện, sâu sắc cả về mục tiêu và biện
pháp. Trước khi lựa chọn, phương án chính sách công được chuyển đến cho
các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm và có thể đến với các đối tượng thực thi
để xin ý kiến tham gia, đóng góp. Những ý kiến đóng góp được ban dự thảo
cân nhắc sử dụng để bổ sung, hoàn thiện theo yêu cầu của chủ thể quản lý.
Trong thực tế, các phương án chính sách công thường được bổ sung, hoàn
thiện về biện pháp, nhất là biện pháp mang tính cơ chế.
1.3.6. Thẩm định phương án chính sách công
Sau khi được lựa chọn chính thức, phương án chính sách công mới chỉ
là một mô hình lý thuyết tối ưu, vì thế nó vẫn có khoảng cách với thực tế xã
hội. Để phương án chính sách lựa chọn thật sự gần gũi với đời sống, có được
tiếng nói của thực tế, nhà hoạch định cần thực hiện bước thẩm định phương
án chính sách lựa chọn. Đó là những hoạt động thử nghiệm các tính năng của
chính sách trong những điều kiện nhất định theo yêu cầu quản lý. Qua thẩm
định, một lần nữa cho phép khẳng định về kết quả lựa chọn phương án chính
sách công, đồng thời kết luận về tính khả thi của chính sách công.
Trong thực tế, phương án chính sách công được thẩm định bằng nhiều
cách, tùy theo quy mô, trình độ và tính chất của chính sách. Người ta có thể
thẩm định bằng cách phân tích các mẫu hình lựa chọn trên cơ sở nguyên lý
cho các phương án chính sách có phạm vi áp dụng hẹp, mục tiêu trực diện

như chính sách cho các đối tượng ưu đãi trong xã hội. Nhưng có những
phương án chính sách công phải thẩm định bằng thử nghiệm từng bước trong
thực tế, thậm chí phải tiến hành ở nhiều nơi có những điều kiện khác nhau
mới kiểm chứng được chính xác. Cách thẩm định này thường dùng với những
chính sách mới, quan trọng có ảnh hưởng quyết định đến định hướng phát
triển của nhà nước. Hoặc cũng có thể sử dụng kết hợp cả hai cách thẩm định
trên cho một phương án chính sách. Sau khi thẩm định, phương án chính sách


10
công có thể bị loại bỏ, hoặc dừng lại chưa được ban hành nếu không đáp ứng
yêu cầu của nhà nước về mục tiêu và biện pháp, nhưng nói chung các phương
án đểu phải tiếp tục điều chỉnh hoàn thiện trước khi đưa vào quyết nghị.
1.3.7. Quyết định chính sách công
Đây là bước có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời một chính sách công.
Có không ít chính sách công đã thực hiện đến bước thẩm định, thậm chí còn
thẩm định nhiều lần mà vẫn không được thông qua ở cấp có thẩm quyền. Lý
do cũng có thể do môi trường chính sách bên ngoài đã chuyển hóa theo quy
luật vận động, vấn đề chính sách không còn nhu cầu phải giải quyết. Hoặc
cũng có thể vì mục tiêu phát triển được thay đổi thang giá trị, thay đổi thứ tự
ưu tiên. Quyết nghị chính sách công được thực hiện bởi một cơ quan chính trị
trong hệ thống công quyền theo trình tự, thủ tục luật định.
2. Thực trạng hoạch định chính sách công ở nước ta hiện nay
2.1. Một số kết quả đạt được
Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các
bước như sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các
phương án chính sách, lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện
phương án lựa chọn, thẩm định phương án chính sách, quyết nghị ban hành
chính sách, công bố chính sách. Những năm qua, việc hoạch định chính sách
công ở nước ta đã cho ra đời nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi

đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước ta trong hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới.
Bên cạnh đó, hoạt động hoạch định chính sách công đã đạt được một số
kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng
yếu, cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội,
quân sự, ngoại giao…). Một số chính sách công quan trọng đã được luận
chứng khoa học hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ
đó, bước đầu đã tạo lập và hoàn thiện được một hệ thống chính sách công khá


11
phù hợp, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà
nước, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được ban hành đã đáp
ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của nền kinh
tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền
lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối
đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam
của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân,
chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp…
Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm chế
lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như
những phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế
toàn cầu và khu vực.
2.2. Một số bất cập và tồn tại, hạn chế
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, đời sống kinh tế - xã hội thay đổi ngày một nhanh chóng. Bên cạnh
đó, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa và những diễn biến phức tạp trên thế

giới đã tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống người dân. Xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội và trình độ dân trí
ngày càng cao đã đặt ra đòi hỏi ngày càng lớn đối với Nhà nước. Đồng thời,
các biến động lớn về môi trường, tài nguyên, dân số…đặt ra nhiều thách thức
đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng và ban hành các chính sách công để giải
quyết. Các chính sách được nhà nước ban hành trong thời gian qua đã tác
động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội, giải quyết nhiều vấn đề bức thiết,
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân... Tuy nhiên, quá trình
hoạch định và thực thi chính sách vẫn những điểm bất cập:


12
Một là, đời sống kinh tế - xã hội đang còn nhiều vấn đề bức thiết đặt ra
nhưng chưa có sự tác động bởi chính sách của Nhà nước, từ đó tạo ra các
khoảng trống trong hoạt động quản lý. Ví dụ, kết quả báo cáo sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp cùng ngành nghề ở khu vực nhà nước và khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài cho thấy, khu vực doanh nghiệp nhà nước có kết
quả kinh doanh tốt hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài báo cáo lỗ nhiều hơn là lãi và thực tế hiện nay mới
chỉ có một thông tư của Bộ Tài chính quy định về vấn đề chuyển giá.
Hai là, các văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên được thay đổi;
trong một số lĩnh vực có nhiều quy định thay đổi liên tục. Ví dụ, trong lĩnh
vực đầu tư xây dựng cơ bản, từ 2005 đến nay đã có 4 luật về đầu tư, 48 nghị
định của Chính phủ về đầu tư, 132 thông tư của các bộ, ngành và 362 quyết
định của Thủ tướng Chính phủ và bộ trưởng các bộ liên quan đến vấn đề này.
Vấn đề chính sách vận động không ngừng và thay đổi theo thời gian, môi
trường, vì thế các chính sách đưa ra cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp
với thực tế. Nhưng việc thay đổi liên tục các chính sách này có thể gây khó
khăn cho đối tượng thực thi và các đối tượng mà chính sách hướng tới. Trong
lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư, các văn bản pháp luật và chính

sách thay đổi liên tục sẽ tạo ra tâm lý lo ngại cho các doanh nghiệp, làm hạn
chế nguồn đầu tư vào Việt Nam.
Ba là, một số chính sách được ban hành nhưng vì những lý do khác
nhau đã không có hiệu lực trên thực tế. Ví dụ, quy định cấm hút thuốc lá ở nơi
công cộng. Những chính sách như vậy được ban hành đã phản ánh nỗ lực của
Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề gây bức xúc trong xã hội; tuy
nhiên, khi đưa ra những chính sách này, các nhà hoạch định chưa xem xét đến
khả năng thực hiện của chúng và cơ chế để đảm bảo các chế tài được thực
hiện một cách nghiêm túc. Vì vậy, mặc dù có mục tiêu rất tốt nhưng các
chính sách này không có khả năng để đảm bảo được thực hiện.


13
Bốn là, nhiều chính sách còn thiếu tính hợp lý. Một trong những yêu
cầu quan trọng của chính sách “tốt” là phải có tính hợp lý, nếu không thì dù
chính sách có được hoạch định theo đúng trình tự, thủ tục và mục tiêu, biện
pháp có tốt đến đâu cũng không được đảm bảo thực hiện khi tổ chức thực thi
trên thực tế. Chính sách được ban hành là để giải quyết các vấn đề phát sinh
trong đời sống cộng đồng, bảo đảm quyền lợi cho cộng đồng, nhưng nếu thiếu
tính thực tế sẽ không áp dụng được. Chính sách thiếu tính hợp lý vừa gây tốn
kém cho Nhà nước khi nghiên cứu, ban hành, vừa gây ra tâm lý bất ổn trong
nhân dân. Ví dụ, Nhà nước quy định cộng điểm thi tốt nghiệp trung học phổ
thông cho những người là con của người hoạt động cách mạng trước năm
1945 hay cộng điểm cho Bà mẹ Việt Nam anh hùng khi thi đại học… Những
quy định này ngay sau khi được ban hành đã bị dư luận xã hội phản ứng nên
buộc phải sửa đổi hoặc loại bỏ.
Bên cạnh đó, nhiều chính sách tuy được thực thi trên thực tế nhưng
kém hiệu quả. Ví dụ, trong giai đoạn 2 của chính sách xóa đói giảm nghèo,
Nhà nước đã chi ra một khoản kinh phí rất lớn, song chỉ có 6% số xã thoát
nghèo, nhiều xã tỉ lệ nghèo còn cao và có khả năng tái nghèo. Một số chính

sách được ban hành còn chưa bảo đảm sự công bằng, đặc biệt là ngân sách
phân bổ cho lĩnh vực y tế và an sinh xã hội. Tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho
các lĩnh vực này chủ yếu tập trung ở Trung ương và cấp tỉnh, trong khi người
nghèo tập trung ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thì lại chưa được
đầu tư thỏa đáng…
Cùng với những bất cập nêu trên, quá trình hoạch định chính sách công
ở nước ta cũng bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như sau:
Thứ nhất, các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các
cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính
sách thường là do các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan đặc biệt của Chính
phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện. Như vậy,


14
chính sách công được ban hành dựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế
và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham
gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp vào xây dựng các
phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính
sách là rất hạn chế. Rất ít chính công được ban hành xuất phát từ ý tưởng của
những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện
chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản làm cho một số chính sách tính khả thi thấp, hoặc khi
thực thi không đem hiệu quả như nhà quản lý mong muốn.
Thứ hai, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo
chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu là do các bộ, ngành, UBND
tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất
dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản
lý mà không tính tới tổng thể chung.
Thứ ba, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình
hình quản lý, các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính

sách trong lĩnh vực quản lý được giao và cũng chính là cơ quan dự thảo, do
đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện.
Hiện tượng việc của Bộ nào thì Bộ ấy lo vẫn còn là điều phổ biến. Do không
có sự phối hợp nên sự thống nhất trong từng vấn đề chính sách là không có,
do vậy rất dễ khi chính sách đó được thực thi thì sự chênh chính sách, chồng
chéo chính sách hoặc mâu thuẫn, trái ngược về chính sách là rất dễ xảy ra.
Thứ tư, quy trình hoạch định chính sách còn bị khép kín; việc lấy ý kiến
tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít,
nếu có thì hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính
chủ động. Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của
nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính
sách là vô hình chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng
hạn, trong hoạch định chính sách việc dự báo chính sách rất quan trọng.


15
Thứ năm, năng lực của đội ngũ tham gia hoạch định chính sách còn hạn
chế. Điều này dẫn đến tình trạng bỏ sót vấn đề chính sách hoặc nhìn nhận
cách giải quyết vấn đề chưa đúng. Do tầm nhìn hạn hẹp của đội ngũ hoạch
định chính sách nên khi chính sách đưa vào thực thi mới nảy sinh nhiều bất
cập hoặc tình trạng chưa thực thi đã vấp phải phản đối của dư luận và phải
sửa (ví dụ điều 60 của Luật Bảo hiểm xã hội).
Thứ sáu, công tác hoạch định chính sách công hiện nay chưa theo kịp
với tình hình hội nhập của đất nước. Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế, các chính sách công bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở
phạm vi nhất định trong lãnh thổ của một quốc gia mà còn bị chi phối bởi các
yếu tố mang tính toàn cầu.
Thứ bảy, việc đánh giá tác động của chính sách trước khi ban hành hiện
nay tại Việt Nam còn rất hạn chế. Việc phản biện chính sách trước khi ban
hành là việc làm rất quan trọng để có thể lường trước được những mặt tiêu

cực có thể do thực thi chính sách mang lại cho đối tượng chịu tác động trực
tiếp của chính sách đó. Hiện nay các nước trên thế giới hoạt động phản biện
chính sách là một khâu rất quan trọng nhưng tại Việt Nam thì hoạt động này
lại bị coi nhẹ.
2.3. Nguyên nhân của những bất cập và tồn tại, hạn chế
Một là, hạn chế trong tổ chức bộ máy hoạch định chính sách. Trình tự
ban hành chính sách được quy định cụ thể trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 2008, trong đó quy định các bước tiến hành, nhưng thực
tế cho thấy còn rất nhiều hạn chế trong quá trình phối hợp giữa các cơ quan
liên quan trong việc ban hành chính sách. Sự phối hợp giữa các bộ với địa
phương còn lỏng lẻo và không có một cơ chế rõ ràng trong quá trình hoạch
định dẫn đến thông tin được cung cấp không đầy đủ và thiếu chính xác. Bên
cạnh đó, quan hệ giữa cơ quan lập pháp và hành pháp trong quá trình thiết kế
chính sách còn rời rạc, chưa chặt chẽ. Ví dụ, có đến 95% sáng kiến pháp luật


16
là do Chính phủ đề xuất, song theo thể chế hiện hành, hoạt động giữa Chính
phủ và Quốc hội còn có sự tách rời, đôi khi là biệt lập với nhau.
Hai là, năng lực hoạch định chính sách của đội ngũ công chức còn yếu.
Đội ngũ hoạch định chính sách ở nước ta còn yếu và thiếu, chưa có đủ năng lực
thực tế. Rất nhiều chính sách ban hành chỉ giải quyết các triệu chứng của vấn
đề chứ chưa khắc phục được nguyên nhân, thậm chí còn làm vấn đề trở nên
trầm trọng hơn. Bên cạnh đó, nhiều chính sách không tính đến các tác động
ngược chiều. Ví dụ, bên cạnh những thành công và kết quả đáng kể thì chính
sách khai hoang, xây dựng kinh tế mới đã vô tình làm cho tình trạng tàn phá
rừng trở nên nghiêm trọng; hoặc chính sách cải cách giáo dục làm cho việc học
trở nên quá tải với học sinh và làm gia tăng tình trạng dạy thêm, học thêm…
Ba là, thiếu sự tham gia của người dân và các nhóm lợi ích trong quá
trình hình thành chính sách. Chính sách là công cụ quản lý của Nhà nước,

được ban hành để giải quyết các vấn đề phát sinh trong xã hội. Mỗi chính
sách khi ban hành sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các nhóm người khác nhau
theo hướng làm tăng chi phí (hoặc lợi ích) của mỗi nhóm. Vì vậy, mỗi nhóm
lợi ích, đặc biệt là các nhóm đặc thù đều mong muốn có sự tác động vào quá
trình hoạch định chính sách theo hướng có lợi cho tổ chức mình. Tuy nhiên,
quá trình hoạch định chính sách hiện nay còn thiếu sự tham gia của các nhóm
lợi ích, hoặc nếu có thì sự tham gia mang nặng tính hình thức dẫn đến chính
sách khi ban hành có mục tiêu không phù hợp và thiếu tính khả thi.
Bốn là, thiếu kênh thông tin đối thoại giữa Chính phủ với các tổ chức,
cá nhân. Quá trình hoạch định chính sách công hiện nay chưa tạo được kênh
thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân, đặc
biệt là những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. Trong khi đó, chính
sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nước, càng không phải là
ý chí áp đặt của cá nhân người có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực
khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng các


17
vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội và có các phương án giải quyết
phù hợp với thực tế. Quá trình đó đòi hỏi sự đóng góp tích cực từ phía người
dân, đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách.
3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạch định
chính sách công ở nước ta
Để khắc phục những hạn chế, bất cập, nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạch định chính sách công ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, cần quan tâm
một số vấn đề sau:
Một là, tiếp tục quan tâm xây dựng và hoàn thiện thể chế hoạch định
chính sách công.
Tại Đại hội XII, Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn
thiện các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc

nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới
cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Để khắc phục thực trạng đồng nhất quy trình hoạch định và xây dựng
chính sách công với quy trình làm luật; lồng ghép việc xây dựng chính sách
và xây dựng luật, ngày 22-6-2015, Quốc hội đã ban hành Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật chung cho các cơ quan nhà nước thay thế hai Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2004 và 2008. Luật năm 2015 đã
chú trọng hơn đến quy trình phân tích, hoạch định chính sách bằng việc bổ
sung những quy định cụ thể về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đề
xuất chính sách và đề cao sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
Điểm nhấn quan trọng là Luật mới dành Điều 35 để quy định về trách nhiệm,
nội dung đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp
lệnh. Vấn đề quan trọng hiện nay là triển khai các văn bản pháp luật nói trên
vào quá trình hoạch định và tổ chức thực thi chính sách công của chính phủ,
các bộ, ngành và địa phương, kịp thời loại bỏ những cách làm và những văn
bản không phù hợp, trái với quy định của luật.


18
Hai là, tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch
định chính sách.
Phải coi đây là một yêu cầu bắt buộc trong quá trình hoạch định chính
sách, tạo điều kiện để mọi người dân nắm được thông tin và đóng góp vào các
dự thảo chính sách liên quan trực tiếp đến mình, tránh để tình trạng “chính
sách trên trời được ban hành cho dân dưới đất” vì không đủ điều kiện để thực
hiện. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng
khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện
cơ chế thẩm định và phê duyệt chính sách, nhất là với những chính sách lớn,
quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội.
Ba là, tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ và các nhóm

lợi ích, đặc biệt là các doanh nghiệp.
Hiện nay, việc phối hợp giữa các tổ chức với cơ quan nhà nước còn khá
rời rạc. Thông thường, khi có dự thảo chính sách, các cơ quan nhà nước mới
gửi cho các bên có liên quan (trong đó có các tổ chức có lợi ích liên quan). Vì
thế, ý kiến của các nhóm lợi ích thường ở thế bị động. Do đó, cần tạo ra kênh
đối thoại, trao đổi thường xuyên giữa các nhóm lợi ích và Nhà nước để các ý
kiến, nguyện vọng của các nhóm lợi ích được truyền tải một cách nhanh nhất
đến các cơ quan có thẩm quyền. Tiếp tục tổ chức và thực hiện diễn đàn đối
thoại giữa doanh nghiệp với Thủ tướng để giám đốc các doanh nghiệp có thể
trao đổi trực tiếp với Thủ tướng về những vấn đề của doanh nghiệp. Thông
qua đối thoại, Chính phủ hiểu các doanh nghiệp muốn gì và các doanh nghiệp
biết Chính phủ định làm gì.
Bốn là, hình thành nhóm nghiên cứu và thiết kế chính sách.
Cần xem xét hình thành nhóm nghiên cứu riêng chịu trách nhiệm trực
tiếp trước Thủ tướng Chính phủ, được tuyển chọn từ các chuyên viên, công
chức trẻ, có trình độ từ các bộ, ngành để tham gia, lồng ghép ý tưởng. Nhóm
này có trách nhiệm xây dựng chính sách của Chính phủ, thường xuyên có


19
tương tác hai chiều với Thủ tướng Chính phủ và các bộ, cơ quan thực thi
chính sách. Ngày 28/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định
1120/QĐ-TTg thành lập Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng để tư vấn cho Thủ
tướng Chính phủ các vấn đề phát triển kinh tế gồm 15 thành viên là những
chuyên gia kinh tế hàng đầu trong và ngoài nước.
Năm là, thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan xây dựng chính sách.
Việc hoạch định các chính sách hiện nay còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ
giữa các bộ, thường chỉ là bản liệt kê các chính sách mà thiếu kế hoạch hành
động cụ thể. Mỗi bộ, ngành có nhiều kế hoạch nhưng lại không xác định được
lĩnh vực ưu tiên. Do đó, để xây dựng chính sách một cách toàn diện nhất, cần

xây dựng các quy định phối hợp và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ,
ngành. Đồng thời, xác định trách nhiệm giữa các cơ quan một cách cụ thể hơn.
Sáu là, thiết lập cơ chế cạnh tranh trong ý tưởng chính sách và các báo
cáo chính sách trên cơ sở phát huy vai trò của các trường đại học, các cơ
quan nghiên cứu độc lập và các tổ chức nghiên cứu chính sách của quốc gia.
Ở Việt Nam hiện nay còn thiếu vắng các tổ chức nghiên cứu và phản
biện chính sách độc lập mà hoạt động của các tổ chức này sẽ giúp cho Chính
phủ nhìn nhận chính sách từ nhiều góc độ, bảo đảm khách quan hơn. Vì vậy,
cần sớm tổ chức lại hệ thống các cơ quan nghiên cứu chính sách, tiếp tục đổi
mới và hoàn thiện thể chế để tạo môi trường cho sự phát triển các loại hình tổ
chức nghiên cứu chính sách, trong đó có các cơ quan nghiên cứu độc lập, các
tổ chức nghiên cứu chính sách hoạt động không dựa vào ngân sách nhà nước.
Các trường đại học, viện nghiên cứu cần được tổ chức lại theo hướng
loại bỏ những cấu trúc tương tự như các cơ quan hành chính, phụ thuộc vào
cơ chế xin cho, bao cấp. Việc đào tạo và nghiên cứu phải gắn với thực tiễn,
góp phần phát hiện, đề xuất những ý tưởng chính sách, đáp ứng những yêu
cầu của cuộc sống đặt ra. Ngoài ra, Nhà nước cần tạo điều kiện vật chất, môi
trường và không gian nghiên cứu học thuật tốt ở các trường đại học, viện


20
nghiên cứu về chính sách, góp phần sớm hình thành hệ thống lý luận nghiên
cứu chính sách cơ bản, đồng bộ ở Việt Nam. Khuyến khích các nghiên cứu
chính sách dựa trên bằng chứng nhằm nâng cao tính thuyết phục cho hoạch
định chính sách. Trên cơ sở tiếp cận đa ngành, liên ngành, cần khuyến khích
sự tham gia nghiên cứu phân tích chính sách từ các phân ngành của khoa học
xã hội như kinh tế học, tâm lý học, xã hội học để cung cấp những bằng chứng
số liệu định lượng về kinh tế, xã hội được phân tích một cách khoa học.



21
C. KẾT LUẬN
Hoạch định chính sách công có vai trò đặc biệt quan trọng trong chu
trình chính sách; là điểm khởi đầu trong tiến trình chính sách nhằm cho ra đời
một chính sách công có tác dụng tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội. Tuy
chính sách công tồn tại thường xuyên và có liên hệ mật thiết với đời sống xã
hội, nhưng nó không phải là sản phẩm xã hội giống như các sản phẩm vật
chất, dịch vụ tiêu dùng khác, mà là một trong những loại sản phẩm đặc biệt
của hoạt động quản lý nhà nước khi chủ thể xác lập một ý chí để ứng phó với
các biến cố nảy sịnh làm hạn chế mục tiêu phát triển. Như vậy, hoạch định
chính sách công được coi là quá trình tạo ra một sản phẩm quản lý của bộ
máy nhà nước; chính sách công có tính năng của một công cụ quản lý vĩ mô
giúp nhà nước vừa định hướng, vừa khuyến khích, vừa điều tiết các chủ thể
và quá trình vận động phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạch định chính sách công cũng được coi là quá trình xây dựng một
loại quyết định quản lý đặc biệt của nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu trước
mắt và lâu dài. Nếu quyết định chính sách công khoa học, hợp lý sẽ giúp cho
nhà nước và người dân có được nhiều thuận lợi trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. Còn nếu sai sẽ làm cho các chủ thể phông những mất phương
hướng trong quá trình hoạt động, mà còn gây những hậu quả xấu vì những tác
động trái quy luật do chính sách tạo ra.
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập quốc tế, mỗi chính sách khi ban
hành đều có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước và của người dân. Do đó, hoàn thiện quá trình hoạch định nhằm nâng cao
hiệu lực và hiệu quả của chính sách là một yêu cầu quan trọng đòi hỏi mỗi cấp,
mỗi ngành phải nỗ lực để tạo ra những chính sách tốt cho xã hội./.


22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
2. Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tập
bài giảng Chính sách công.
3. Viện Lãnh đạo học và chính sách công, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Tập bài giảng Khoa học lãnh đạo.
4. PGS. TS Ngô Ngọc Thắng, Nâng cao chất lượng hoạch định và
thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay - Vấn đề và giải pháp,
http://lyluanch
inhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/2443-nang-cao-chat-luong-hoach-dinh
-va-thuc-thi-chinh-sach-cong-o-viet-nam-hien-nay-van-de-va-giai-phap.html
5. ThS. Phùng Thị Phương Thảo, Hoạch định chính sách công ở Việt
Nam,

thực

trạng



giải

pháp,

/>chinh_sach_cong_o_Viet_Nam_thuc_trang_va_giai_phapall.html
6. Hoạch định chính sách công: Tồn tại và đề xuất biện pháp khắc
phục
/>



×