Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

CƠ sở lý LUẬN một số vấn đề CHUNG về HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP lý của LUẬT sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.07 KB, 41 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN MỘT SỐ
VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT
ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CỦA LUẬT SƯ


Khái niệm trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" có nguồn gốc từ tiếng Anh là
"legal aid" được sử dụng phổ biến trên thế giới từ giữa thế kỷ 20.
Theo đó "legal aid" được dịch ra tiếng Việt với nhiều tên gọi và
thuật ngữ khác nhau. Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả
Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì "legal aid" có nghĩa
là "trợ cấp pháp lý". Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất
bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì "legal
aid" trong cụm từ "legal aid schem" (kế hoạch bảo trợ tư pháp) có
nghĩa là "bảo trợ tư pháp". Trong một số tài liệu khác còn dịch là
"hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp". Từ điển
Anh - Việt, Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Khoa học xã hội và
nhân văn quốc gia (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999)
không đưa ra thuật ngữ chung bằng tiếng Việt về cụm từ "legal
aid" mà diễn giải nghĩa của thuật ngữ này bằng tiếng Việt là "lấy
tiền từ công quỹ để trả chi phí cho việc cố vấn hoặc làm đại diện
pháp lý".
Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" là một cụm từ ghép "trợ giúp" và
"pháp lý". Theo Từ điển tiếng Việt, thì "trợ giúp" được hiểu là
"giúp đỡ" [44, tr. 767], pháp lý tức là "nguyên lý về pháp luật"
[44, tr. 1045]. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, thì "trợ giúp" là


góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung,
giúp làm hộ mà không lấy tiền công, còn "pháp lý" là "nguyên lý


của pháp luật" [24, tr. 1431]. Theo Đại Từ điển tiếng Việt, thì "trợ
giúp" được hiểu là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì,
đem lại cho ai cái gì, lúc khó khăn, đang lúc cần đến", thuật ngữ
"pháp lý" được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách
khái quát pháp lý là lý luận; theo Từ điển Luật học, Nxb Từ điển
Bách khoa - Nxb Tư pháp, 2006, thì pháp lý là những khía cạnh,
phương diện khác nhau của đời sống pháp luật của một quốc gia,
"pháp lý" chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý
bắt buộc từ một sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý,
phạm trù, khái niệm lý luận về pháp luật [45, tr. 606]. Do vậy, dù
là "giúp đỡ", "bảo trợ" hay "hỗ trợ" cũng có thể được hiểu là "trợ
giúp". Ở đây trợ giúp được hiểu là sự giúp đỡ cho ai đó đang gặp
khó khăn, nhằm làm giảm bớt khó khăn về một vấn đề mà họ
đang cần và cái họ đang cần ở đây là pháp lý.
Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau có cùng nghĩa với
thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" nhưng thuật ngữ "trợ giúp pháp lý"
có nghĩa chung nhất, rõ nhất nêu bật được sự giúp đỡ, hỗ trợ đối
với những trường hợp có khó khăn về mặt pháp lý.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng


trong các tài liệu nghiên cứu từ năm 1995, bắt đầu từ Đề án
nghiên cứu về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam của Bộ Tư
pháp. Đến năm 1996, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng
trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Mô hình tổ chức và
hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều
kiện hiện nay" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp. Năm 1997, thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số
734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành
lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính

sách. Tiếp đó, các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện Quyết
định 734/TTg và một số văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực khác
cũng đề cập đến thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" như Pháp lệnh Luật
sư năm 2001, Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư ban hành kèm
theo Quyết định số 356b/2002/QĐ-BTP ngày 05/8/2002 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp… Ngoài ra, trong nhiều văn bản, chính sách
khác của Nhà nước đã nhắc đến thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý". Đặc
biệt, tại Điều 3, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua
ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 đã đưa
ra khái niệm về trợ giúp pháp lý như sau:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp
người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của


mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ
công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh
chấp và vi phạm pháp luật [35].
Đồng thời, qua tham khảo một số khái niệm về trợ giúp pháp
lý của một số nước trên thế giới, có thể thấy đa số các nhà quản lý
cũng như các nhà xây dựng pháp luật đều đưa ra khái niệm về trợ
giúp pháp lý trên cơ sở lý luận về dân chủ, nhân quyền và bảo
đảm quyền con người, họ cho rằng trợ giúp pháp lý chính là một
biện pháp bảo đảm tư pháp dành cho nhóm người yếu thế trong xã
hội không có điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp
luật. Tuy về ngữ nghĩa, nội dung và cách biểu đạt của mỗi quốc
gia khác nhau nhưng trên cơ bản khái niệm về trợ giúp pháp lý
đều hàm chứa tính chất chung của trợ giúp pháp lý là hoạt động

mang tính kinh tế, xã hội và nhân đạo.
Với những phân tích về nội hàm thuật ngữ "trợ giúp pháp lý"
nêu trên, trợ giúp pháp lý có một số thuộc tính như sau:
Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý đặc thù.
Trợ giúp pháp lý mang những đặc điểm chung của một loại hình
dịch vụ pháp lý (về chủ thể thực hiện, do những người có trình độ


am hiểu pháp luật thực hiện; về mục đích, đối tượng: đáp ứng nhu
cầu cần giúp đỡ về pháp luật của một bộ phận người dân; về nội
dung dịch vụ cung cấp: pháp luật; về quy trình thực hiện: trên cơ
sở các quy định của pháp luật). Tuy nhiên, trợ giúp pháp lý có tính
đặc thù, đó là: chủ thể thực hiện bao gồm Nhà nước và xã hội,
trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt tổ chức thực hiện; về mục
đích, đối tượng: giúp đỡ về pháp luật cho những người có hoàn
cảnh đặc biệt không đủ khả năng để sử dụng các dịch vụ pháp lý
thông thường như: người nghèo, người có công với cách mạng,
người khuyết tật, trẻ em, người già cô đơn không nơi nương
tựa…; về nội dung dịch vụ cung cấp: giúp đỡ về pháp luật thông
qua các hình thức như tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện
ngoài tố tụng, giúp đỡ thực hiện các công việc liên quan đến thủ
tục hành chính, giải quyết khiếu nại…; về quy trình thực hiện:
trên cơ sở các nguyên tắc và quy định của pháp luật, nhằm bảo
đảm chất lượng và mục đích của nó là giúp đỡ, hỗ trợ mà không
phải là cung cấp dịch vụ có tính chất ngang giá; miễn hoặc giảm
phí). Tính chất đặc thù của trợ giúp pháp lý thể hiện rõ nét nhất đó
là trợ giúp pháp lý không phải là dịch vụ pháp lý có tính chất
ngang giá, thỏa thuận giữa chủ thể cung cấp và đối tượng cung
cấp mà nó có mục đích giúp đỡ, hỗ trợ cho những người có hoàn
cảnh đặc biệt (không có khả năng tiếp cận với dịch vụ pháp lý có



thu phí) tiếp cận và sử dụng pháp luật để nâng cao nhận thức pháp
luật, tự bảo vệ hoặc được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhằm
bảo đảm công bằng trong tiếp cận pháp luật giữa nhóm người này
với những người khác có điều kiện kinh tế trong xã hội. Vì vậy, so
với dịch vụ pháp lý chung, trợ giúp pháp lý có đối tượng, phạm vi,
lĩnh vực pháp luật trợ giúp, tổ chức, người thực hiện hẹp hơn.
Ở Việt Nam, cách tiếp cận của Luật Trợ giúp pháp lý về khái
niệm trợ giúp pháp lý cũng phù hợp với tính chất của hoạt động
này trong lịch sử hình thành và phát triển trợ giúp pháp lý trên thế
giới. Đó là giúp đỡ cho những đối tượng yếu thế trong xã hội (chủ
yếu về kinh tế) tiếp cận với dịch vụ pháp lý để nâng cao nhận thức
pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Đồi thời, cũng thể
hiện rõ đặc thù của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Hoạt động trợ
giúp pháp lý mở rộng và vươn tới không chỉ người nghèo mà còn
đối với người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số
thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa,
người được trợ giúp pháp lý theo các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên. Những vụ việc về tố tụng (hình sự, dân sự, lao
động, đất đai…) liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp và thiết
thực của người nghèo và đối tượng chính sách nhưng họ không có
luật sư đại diện, bào chữa để bảo vệ hoặc trong những vụ việc do


cơ quan, cán bộ nhà nước giải quyết chưa thỏa đáng, có vi phạm
pháp luật làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của người
dân đã được trợ giúp pháp lý thông qua nhiều hình thức. Ngoài ra,
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam còn có điểm đặc thù khác là kiến nghị

thi hành pháp luật (gồm: kiến nghị giải quyết vụ việc trợ giúp
pháp lý, kiến nghị công vụ và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới văn bản pháp luật). Đối tượng thụ hưởng dịch vụ pháp
lý miễn phí không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào, kể cả lệ
phí giấy tờ khi yêu cầu trợ giúp và thuê luật sư. Các chi phí sẽ do
ngân sách Nhàn ước bảo đảm hoặc được huy động trong cộng
đồng, sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài và quốc tế thông qua
các Dự án hoặc Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam. Trợ giúp pháp lý
miễn phí đã trở thành nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý được
quy định trong Luật Trợ giúp pháp lý.
Trợ giúp pháp lý còn là một dịch vụ pháp lý chứa đựng tính
nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu hướng tới, đối tượng phục vụ là
những người có hoàn cảnh đặc biệt cần phải được Nhà nước và xã
hội quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ. Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt
những khó khăn của nhóm đối tượng yếu thế, góp phần tạo sự
công bằng trong xã hội.
Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: Trợ giúp


pháp lý được xác định là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt, thuộc chức năng xã hội của Nhà nước nhằm
góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận với pháp luật
và xóa nghèo về pháp luật. Thông qua đó, góp phần thiết lập sự ổn
định về chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan hệ xã hội
theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân và chế
độ. Trợ giúp pháp lý là một trong những phương thức có hiệu quả
để Nhà nước giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn,
giữ đoàn kết cộng đồng, bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội.
Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý rõ nét bởi chính phương
thức hoạt động và mục đích hướng tới của nó. Trợ giúp pháp lý là

sự giúp đỡ, hỗ trợ về các vấn đề có liên quan đến pháp luật như tư
vấn pháp luật, đại diện, bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho các đối tượng được Trợ giúp pháp lý theo quy định, góp
phần tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống tạo
cơ hội tiếp cận pháp luật thuận lợi cho các đối tượng này. Trợ giúp
pháp lý ở một số nước nhấn mạnh đến tính pháp lý như Hàn
Quốc: Trợ giúp pháp lý là việc một luật sư hoặc một cán bộ pháp
lý nhà nước cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật, đại diện hoặc các
dịch vụ trợ giúp khác có liên quan đến pháp luật. Ở Anh, xứ
Wales, Trợ giúp pháp lý được hiểu là giúp đỡ cho những người
không có khả năng thanh toán cho các chi trả cho việc tư vấn, hỗ


trợ và đại diện pháp lý; ở Đức, trợ giúp pháp lý là việc giúp đỡ
một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người không có khả
năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện hoặc
bào chữa trước Tòa án.
- Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hoạt động trợ giúp pháp
lý của luật sư
- Khái niệm luật sư
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng,
khi xã hội được phân chia thành giai cấp thì xuất hiện đấu tranh
giai cấp nhằm bảo vệ quyền cơ bản của con người. Cách đây hơn
nửa thế kỷ, khi viết bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nhà
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trong Tuyên ngôn độc
lập của Hợp chủng quốc Hoa kỳ (1776) và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp (1789) những giá
trị bền vững: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng,
tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền

mưu cầu hạnh phúc".
Xuất phát từ nguyên lý, ở đâu có sự buộc tội, hoặc sự khởi
kiện trước cơ quan tư pháp thì ở đó có sự gỡ tội, sự chống lại việc
khởi kiện; khi có bên bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo thì cũng


phải có bên bảo vệ cho người bị hại; khi có bên nguyên đơn khởi
kiện về vấn đề dân sự, hành chính thì bao giờ cũng có bên bị đơn
dân sự, hoặc những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ
án. Mặt khác, trong thực tế hoạt động tố tụng hình sự, bên buộc
tội (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và những người tiến
hành tố tụng) là chuyên gia buộc tội dày dạn kinh nghiệm thực
tiễn với khả năng hùng biện, am hiểu tường tận pháp luật, là
người đại diện cho quyền lực của nhà nước có đủ khả năng pháp
lý. Ngược lại, bị can, bị cáo, và những người tham gia tố tụng có
quyền lợi pháp lý khác luôn ở địa vị bất lợi, là người có trình độ
văn hóa thấp, vị trí xã hội thấp kém, không hiểu hoặc hiểu biết
pháp luật hạn chế, kinh nghiệm tham gia tố tụng chưa có, tâm
trạng bất ổn định, lo lắng, bị sức ép về mặt tâm lý, không quen nói
trước đám đông v.v... Chính vì thế, cần thiết phải có một tổ chức,
mà pháp luật quy định là tổ chức hành nghề Luật sư bảo vệ quyền
lợi của bị can, bị cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
đương sự là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi liên quan đến
vụ án. Bằng hoạt động của mình, tổ chức luật sư góp phần tích
cực bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân và các tổ chức; góp phần vào việc giải
quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật; góp phần thực
hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, thực hiện



dân chủ xã hội chủ nghĩa; giáo dục công dân tuân theo Hiến pháp,
pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa.
Hiện nay theo quy định của pháp luật thì luật sư là một chức
danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề
chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư
vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực hiện
các dịch vụ pháp lý khác. Tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 quy
định "Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo
quy định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu
của cá nhân, cơ quan, tổ chức" [34]. Tiêu chuẩn luật sư được quy
định tại Điều 10 Luật Luật sư như sau "Công dân Việt Nam trung
thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất
đạo đức tốt, có bằng cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề luật sư,
đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm
hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư" [34]. Ngoài ra,
người có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư
muốn hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật và gia
nhập một Đoàn luật sư. Nghề luật sư không giống như những
nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và
trình độ chuyên môn thì việc hành nghề luật sư còn phải tuân theo


quy chế đạo đức nghề nghiệp. Điều này tạo nên nét đặc thù riêng
của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng
hành nghề.
Vì vậy, xét về bản chất thì luật sư có những tính chất cơ bản
như sau:
Thứ nhất, tính chất trợ giúp: nói đến trợ giúp là nói đến sự

giúp đỡ, bênh vực không vụ lợi của luật sư cho những người ở
vào vị trí thấp kém. Những người được trợ giúp thường là người
bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật trong xã hội hay
những người nghèo, người già cô đơn, người chưa thành niên mà
không có sự đùm bọc của gia đình. Do đó, tính chất này thể hiện
hoạt động của nghề luật sư không chỉ là bổn phận mà còn là thước
đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
Thứ hai, tính chất hướng dẫn: Thông thường, luật sư thực
hiện việc hướng dẫn cho khách hàng hiểu đúng tinh thần và nội
dung của pháp luật, để từ đó họ biết cách tháo gỡ những vướng
mắc sao cho phù hợp với pháp lý và đạo đức, cũng như để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Thứ ba, tính chất phản biện: Là những biện pháp nhằm phản
bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là
không phù hợp với pháp lý và đạo lý. Luật sư lấy pháp luật và đạo


đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc
nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề xuất những biện
pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái, bảo vệ công lý.
- khái niệm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
Thuật ngữ "dịch vụ" ra đời cùng với sự xuất hiện của kinh tế
hàng hóa, dịch vụ là "con đẻ" của nền kinh tế sản xuất hàng hóa.
Khi kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi phải có một sự lưu
thông trôi chảy, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
con người thì dịch vụ càng phát triển. Theo đó, dịch vụ là những
hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng
hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc
chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu
quả các nhu cầu của sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người.

Như vậy, có thể hiểu rằng, những hoạt động mang tính tự phục vụ
thì không phải là dịch vụ. Để được gọi là một hoạt động dịch vụ
thì sản phẩm của nó cần có sự trao đổi, có nghĩa là sản phẩm của
hoạt động dịch vụ là sự phục vụ và sự phục vụ đó phải là hàng
hóa.
Với định nghĩa nêu trên, dịch vụ pháp lý được hiểu là sự trao
đổi các sản phẩm mang tính pháp lý (hàng hóa) giữa chủ thể cung
cấp và đối tượng phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu giúp đỡ pháp lý


của các đối tượng phục vụ. Sản phẩm mang tính pháp lý cũng có
đặc thù, nó không phải là sản phẩm vật chất nên việc trao đổi
cũng không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu mà nó là những
công việc, việc làm nhằm thỏa mãn nhu cầu được nâng cao nhận
thức pháp luật, được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối
tượng được phục vụ.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "dịch vụ pháp lý" ra đời khi Đảng và
Nhà nước ta thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và được ghi nhận trong Pháp lệnh tổ chức
luật sư năm 1987, Thông tư số 1119-QLTPK ngày 24/12/1987 của
Bộ Tư pháp về công tác dịch vụ pháp lý và Công văn số
870/CV/DVPL ngày 26/10/1989 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công
tác dịch vụ pháp lý. Theo các văn bản này, dịch vụ pháp lý được
hiểu là hoạt động của luật sư tham gia tố tụng (đại diện, bào chữa)
hình sự, dân sự, hôn nhân, gia đình, lao động; tư vấn pháp lý và
một số dịch vụ pháp lý khác (soạn thảo đơn từ, đánh máy…) cho
các tổ chức và cá nhân.
Đến Pháp lệnh Luật sư năm 2001, quy định về "dịch vụ pháp
lý" được quy định khái quát tại Điều 1 Pháp lệnh này, theo đó, dịch

vụ pháp lý bao gồm hoạt động tố tụng, tư vấn pháp lý và dịch vụ


pháp lý khác. Và quy định này được cụ thể hóa tại Điều 14 của
Pháp lệnh, phạm vi hành nghề luật sư bao gồm:
Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can,
bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hình sự; tham gia tố tụng với tư cách là
người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động hoặc hành
chính; tham gia tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; tư vấn
pháp luật, soạn thảo hợp đồng, đơn từ theo yêu cầu của cá nhân, tổ
chức; đại diện theo ủy quyền của cá nhân, tổ chức để thực hiện
các vông việc có liên quan đến pháp luật; thực hiện dịch vụ pháp
lý khác theo quy định của pháp luật [40].
Như vậy, theo quy định của Pháp lệnh Luật sư năm 2001, dịch
vụ pháp lý bao gồm: dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tư pháp (tham
gia tố tụng); dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực tố tụng trọng tài; tư
vấn pháp luật; đại diện theo ủy quyền về các công việc có liên
quan đến pháp luật; các dịch vụ pháp lý khác.
Đến Luật Luật sư năm 2006, thuật ngữ "dịch vụ pháp lý" đã
được quy định thành một điều luật riêng, theo Điều 4 của Luật
Luật sư: "Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng,


tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các
dịch vụ pháp lý khác" [34]. Theo Điều 22 Luật Luật sư, phạm vi
hành nghề của luật sư bao gồm:
Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc
về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật; Thực
hiện tư vấn pháp luật; Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để
thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật; thực hiện dịch
vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này [34].
Như vậy, kể từ khi ban hành Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm
1987 cho đến khi Luật Luật sư năm 2006 được Quốc hội thông
qua, pháp luật chưa đưa ra một định nghĩa đầy đủ, cũng như chỉ ra
nội hàm cụ thể về khái niệm "dịch vụ pháp lý" mà chỉ sử dụng
phương pháp liệt kê để xác định các hoạt động cụ thể được coi là
dịch vụ pháp lý.
Ngày 29/6/2006, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Trợ giúp pháp


lý. Tại Điều 3 Luật này quy định:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí
cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp
người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ
công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh
chấp và vi phạm pháp luật [35].
Theo đó, điều luật này đưa ra đặc trưng của hoạt động trợ
giúp pháp lý mà chưa đứa ra cách hiểu hay định nghĩa chính thức
về thuật ngữ "dịch vụ pháp lý" và "dịch vụ pháp lý miễn phí".

Theo Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý "dịch vụ pháp lý" theo quy
định của luật này bao gồm: tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng; đại
diện ngoài tố tụng; hòa giải; thực hiện những công việc liên quan
đến thủ tục hành chính, khiếu nại và các hoạt động khác theo quy
định của luật này. Điều 5 của Luật Trợ giúp pháp lý cũng giới hạn
việc cung cấp dịch vụ pháp lý miến phí không thuộc lĩnh vực kinh
doanh, thương mại. Như vậy, quan niệm về dịch vụ pháp lý theo
quy định của Luật Trợ giúp pháp lý có phạm vi hẹp hơn theo quy
định của Luật Luật sư.
Có quan niệm cho rằng:


Dịch vụ pháp lý với khái niệm nội hàm của nó có thể hiểu là
tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật và dịch vụ đại diện pháp lý.
Theo đó, dịch vụ tư vấn pháp luật được hiểu là hoạt động cung
cấp các ý kiến pháp lý, giải pháp của các chủ thể cung cấp dịch vụ
pháp lý cho các cá nhân, tổ chức có yêu cầu (gọi chung là khách
hàng). Còn dịch vụ đại diện pháp lý được hiểu là chủ thể cung cấp
dịch vụ sẽ là người đại diện cho khách hàng, thay mặt cho khách
hàng trước các cơ quan, tổ chức, trước các đối tác của khách hàng
để thực hiện các công việc có liên quan đến quyền và nghĩa vụ
khách hàng theo đúng quy định của pháp luật.
Quan điểm khác cho rằng, "dịch vụ pháp lý và dịch vụ của
luật sư có phải là hai khái niệm khác nhau hay không, vẫn còn là
vấn đề gây tranh cãi. Song ở Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay
nên được hiểu như nhau" [38].
Các quy định của pháp luật về luật sư và các quan niệm trên
đây khẳng định dịch vụ pháp lý là dịch vụ của luật sư hay nói cách
khác, chỉ có luật sư mới được cung cấp dịch vụ pháp lý. Theo quy
định của Luật Trợ giúp pháp lý thì dịch vụ pháp lý miễn phí là

hoạt động của các chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật
về trợ giúp pháp lý nhằm cung cấp cho người nghèo, đối tượng
chính sách các dịch vụ pháp lý cụ thể trong các vấn đề liên quan


trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của họ và không thu phí.
Từ những khái niệm trên xem xét một cách toàn diện về hoạt
động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam cả về lý luận và thực
tiễn, có thể rút ra khái niệm về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật
sư ở Việt Nam như sau: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở
Việt Nam là tổng thể những công việc, nhiệm vụ của luật sư thực
hiện để người được trợ giúp pháp lý tiếp cận và sử dụng dịch vụ
pháp lý miễn phí nhằm thỏa mãn nhu cầu nâng cao nhận thức
pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối
tượng chính sách, đồng thời góp phần bảo đảm việc thực hiện
nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân thủ đúng
pháp luật.
Khái niệm về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trên đã
đề cập một cách toàn diện về những vấn đề liên quan đến luật sư
thực hiện trợ giúp pháp lý, cụ thể:
Thứ nhất, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý người có kiến
thức pháp luật, bởi luật sư là người đã có bằng cử nhân luật, đã
được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật
sư.
Thứ hai, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý phải là người có
phẩm chất đạo đức tốt, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến


pháp và pháp luật. Bởi vì, khi thực hiện trợ giúp pháp lý cho đối
tượng, nhiều đối tượng bức xúc với công việc của mình khi không

được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét thấu tình đạt
lý hoặc do không hiểu biết về pháp luật mà nghĩ là quyền lợi của
mình đang bị xâm hại có thể có những hành động quá khích xúc
phạm đến luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý và đặc biệt là luật sư
khi thực hiện trợ giúp pháp lý đều thực hiện miễn phí. Vì vậy,
người có phẩm chất đạo đức trung thành với Tổ quốc, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật sẽ giúp cho người được trợ giúp pháp lý
tin tưởng và trình bày đúng vụ việc.
Thứ ba, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý có thể trực tiếp tư
vấn, kiến nghị, đại diện, bào chữa cho đối tượng hoặc gián tiếp trợ
giúp pháp lý cho đối tượng thông qua nhận vụ việc về nhà làm,
soạn thảo văn bản hướng dẫn để gửi cho đối tượng được trợ giúp
pháp lý.
Thứ tư, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện tư vấn,
đại diện, bào chữa cho đối tượng ở tất cả các lĩnh vực pháp luật.
Thứ năm, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý phải chịu trách
nhiệm về vụ việc đã trợ giúp cho đối tượng, đây là trách nhiệm cá
nhân và cũng là đạo đức nghề nghiệp, đòi hỏi luật sư phải tuân thủ
triệt để.


- Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt
Nam
- Chủ thể thực hiện
Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối
tượng yếu thế trong xã hội thông qua các hình thức khác nhau như
sau: thứ nhất, thông qua Trung tâm trợ giúp pháp lý của nhà nước
với tư cách là cộng tác viên; thứ hai, cá nhân luật sư thực hiện trợ
giúp pháp lý thông qua tổ chức hành nghề luật sư của mình; thứ
ba, luật sư phối hợp với các tổ chức xã hội khác như: Hội luật gia,

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam, các tổ chức phi chính phủ để thực hiện trợ giúp pháp lý; thứ
tư, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo Khoản 2 Điều 57 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003.
- Đối tượng phục vụ
Bằng các con đường tiếp cận trợ giúp pháp lý khác nhau, do
vậy đối tượng nhận được sự trợ giúp pháp lý từ phía luật sư cũng
rất đa dạng và khác nhau.
Đối với nhóm luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua
các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thì đối tượng được
hưởng trợ giúp pháp lý theo quy định Điều 3 của Luật Trợ giúp


pháp lý bao gồm: người nghèo, người có công với cách mạng;
người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa;
người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn; người được trợ giúp pháp lý theo các Điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; phụ nữ là nạn nhân của
bạo lực gia đình, của tội phạm mua bán người… Ngoài ra, trong
khuôn khổ các dự án hợp tác quốc tế, các đối tượng khác cũng
được hưởng trợ giúp pháp lý như: tất cả người chưa thành niên
không phân biệt trẻ em hay người chưa thành niên từ 16 tuổi trở
lên đến dưới 18 tuổi, người mới ra tù tái hòa nhập cộng đồng…
Đối với nhóm luật sư tự thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua
tổ chức hành nghề luật sư, đối tượng trợ giúp pháp lý miễn phí
thường không phân biệt đối tượng này hay đối tượng kia mới
được trợ giúp pháp lý miễn phí. Luật sư nói riêng và tổ chức hành
nghề luật sư nói chung tự quyết định đối tượng được hưởng trợ
giúp pháp lý theo chính sách của từng tổ chức hành nghề luật sư
mà không phụ thuộc vào quy định của Luật Trợ giúp pháp lý.

Đối với nhóm luật sư tham gia trợ giúp pháp lý thông qua
các tổ chức xã hội: đối tượng nhận trợ giúp pháp lý phụ thuộc vào
tổ chức xã hội đó đang phục vụ hoặc quan tâm tới nhóm đối tượng
nào. Ví dụ như các Trung tâm tư vấn pháp luật của Tổng liên đoàn


lao động Việt Nam thì đối tượng chính là người lao động đang
làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp...
Đối với nhóm luật sư thông qua tòa án thực hiện trợ giúp
pháp lý với tư cách là luật sư chỉ định trong các phiên tòa hình sự.
Theo quy định của Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các
cơ quan tố tụng có trách nhiệm chỉ định luật sư bào chữa cho bị
can, bị cáo phạm tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình, và bị
can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất.
- Nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
Không thu lệ phí, thù lao từ người được trợ giúp pháp lý: ở
Việt Nam, nguyên tắc đầu tiên của hoạt động trợ giúp pháp lý đó
là: "Không thu phí, lệ phí thù lao từ người được trợ giúp pháp lý".
Bên cạnh đó, theo Điều 8 Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi
bởi Luật luật sư năm 2012) thì Nhà nước khuyến khách luật sư và
các tổ chức hành nghề luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý
miễn phí. Theo nguyên tắc này, khi đến yêu cầu trợ giúp pháp lý,
người được trợ giúp pháp lý không phải trả bất kỳ một khoản lệ
phí, thù lao nào dưới bất kỳ hình thức nào. Pháp luật trợ giúp pháp
lý cấm tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ
giúp pháp lý trong đó có luật sư làm cộng tác viên của các Trung


tâm trợ giúp pháp lý nhà nước nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản

tiền, lợi ích nào khác từ người được trợ giúp pháp lý, sách nhiễu
người được trợ giúp pháp lý. Kinh phí hoạt động trợ giúp pháp lý
do ngân sách Nhà nước cấp và nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước.
Nhìn chung, hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước trên
thế giới chỉ miễn phí cho một số trường hợp đặc biệt còn phần lớn
có thu phí (nhưng ở mức thấp hơn so với các đối tượng bình
thường khác). Ví dụ: ở Singapore người được trợ giúp pháp lý
miễn phí là người có thu nhập bình quân dưới 7.000 USD/năm
(trong đó không tính giá trị tài sản là phương tiện kinh doanh,
tranh thiết bị đang sử dụng trong gia đình; người đã trên 60 tuổi
có tiền gửi tiết kiệm dưới 30.000 USD…); ở một số nước như
Đức, Anh… đối với án hình sự, đối tượng được trợ giúp pháp lý
miễn phí nếu Tòa án tuyên án là phạm tội phải thanh toán toàn bộ
chi phí trợ giúp pháp lý, kể cả tiền thuê luật sư bào chữa cho đối
tượng; ở Anh, Thụy Điển… quy định đối tượng là nạn nhân của
tội phạm nghiêm trọng thì được miễn phí. Nhà nước sẽ trả toàn bộ
các khoản chi phí trợ giúp pháp lý nếu người bị hại thắng kiện,
nếu trong trường hợp ngược lại (người bị hại thua kiện) thì "phải
thanh toán toàn bộ chi phí, kể cả chi phí cho lật sư bào chữa cho
nạn nhân" [43, tr. 35].


×