Tải bản đầy đủ (.doc) (173 trang)

Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 173 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HÀ THỊ THUỲ DƯƠNG

ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU
NÔNG ĐẾN THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT
NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT B IỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2019


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HÀ THỊ THUỲ DƯƠNG

ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU
NÔNG ĐẾN THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT
NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT B IỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62.22.03.02

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS, TS. Lê Hữu Nghĩa
2. TS. Trần Sỹ Dương


HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Hà Thị Thùy Dương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI ............................................................................................6

1.1. Những công trình nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở, về tâm lý tiểu nông
trên phương diện lý luận.....................................................................................6
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm
lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở tại Việt Nam hiện nay .................16
1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp để hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở nước ta
hiện nay ............................................................................................................23
1.4. Những giá trị của các công trình được tổng quan và những vấn đề cần
đặt ra cho tác giả luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết..........................29
CHƯƠNG 2: TÂM LÝ TIỂU NÔNG VÀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .............................................................33

2.1. Một số vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông .........................................................33

2.2. Một số vấn đề lý luận về thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay .........50
2.3. Phương thức tác động và sự cần thiết phải hạn chế những ảnh hưởng tiêu
cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở..................................64
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐẾN
THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN ...................................................79

3.1. Thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân
chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay ........................................................................79
3.2. Nguyên nhân của thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông
đến thực hiện dân chủ ở cơ sở ........................................................................103
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC
CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ VIỆT NAM HIỆN NAY ..............................................114

4.1. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - cơ sở vật chất để
hạn chế, xoá bỏ những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ....................114


4.2. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao trình độ,
nhận thức, văn hóa của nhân dân....................................................................122
4.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó có
pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ..................................133
4.4. Hoàn thiện công tác cán bộ nhằm đảm bảo đội ngũ cán bộ, công chức ở
cơ sở có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất......................................................139
KẾT LUẬN ............................................................................................................150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ CÔNG BỐ ..................................................................152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................153



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta, dân chủ đã được xác
định là một trong hệ mục tiêu của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đến đại hội lần thứ XI, hệ mục tiêu đổi mới của Việt Nam được Đảng ta
xác định là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, như vậy dân chủ
đã được đặt lên trước mục tiêu công bằng. Điều này thể hiện sự phát triển nhận thức
của Đảng về dân chủ, dân chủ là mục tiêu, là yếu tố thể hiện bản chất của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Cùng với đó, dân chủ còn được xác định là động lực của
công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, dân chủ có trở thành động lực thực sự cho sự phát
triển đất nước hay không, bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là chế độ
của dân, do dân và vì dân có được thể hiện hay không tùy thuộc vào mức độ dân
chủ hóa, mức độ thực hành dân chủ trong đời sống xã hội. Trong đó, việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở là một nội dung quan trọng và đòi hỏi cấp bách nhất trong quá trình
dân chủ hóa, xây dựng và hoàn hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nếu
như tại cơ sở, nhân dân chưa được thực sự làm chủ thì khó có thể nói làm chủ ở
những cấp cao hơn, phạm vi rộng hơn.
V.I.Lênin đã từng khẳng định không phải chúng ta tuyên bố dân chủ, ra sắc
lệnh dân chủ là có dân chủ trong thực tế. Việc biến các giá trị dân chủ trở thành hiện
thực cuộc sống là một quá trình lâu dài, phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như sự hoàn
thiện của cơ chế, pháp luật dân chủ, trình độ, ý thức làm chủ của người dân và năng
lực, thái độ tôn trọng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức… [210]. Với
đặc điểm của một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên
chủ nghĩa xã hội như ở nước ta thì việc hiện thực hóa các giá trị dân chủ trong thực
tiễn đời sống là vô cùng khó khăn. Những thách thức ấy không chỉ xuất phát từ chỗ
người dân và cán bộ chưa được đào luyện, trưởng thành trong nền dân chủ tư sản mà
còn bị ảnh hưởng bởi những tàn dư về tư tưởng, tâm lý của xã hội phong kiến, xã hội

tiểu nông trước đây. Để thực hiện dân chủ nói chung, thực hiện dân chủ ở cơ sở nói
riêng, điều quan trọng là phải nhận diện rõ những rào cản đối với việc thực hiện dân


2

chủ, trong đó một trở lực rất đáng quan tâm chính là tâm lý tiểu nông. Như tác giả
Hoàng Chí Bảo từng khẳng định:
...muốn thực hiện được vai trò và tác dụng tích cực của dân chủ đối với
sự phát triển của cá nhân và xã hội thì phải thường xuyên phát hiện và
tháo gỡ những rào cản dân chủ, xoá bỏ những phản dân chủ trong xã hội
cả những biểu hiện hữu hình có thể cảm nhận được trong thể chế, trong
bộ máy và con người lẫn những biểu hiện vô hình trong tâm ý, ý thức, lối
sống phong tục, tập quán lạc hậu có trong đời sống hàng ngày của cá
nhân và cộng đồng [9, tr.13].
Xuất phát từ tầm quan trọng đặc biệt của thực hiện dân chủ ở cơ sở với xây
dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Bộ Chính trị ban hành
chỉ thị 30 năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và đặc biệt
là sự ra đời của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, việc
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã có những chuyển biến tích cực. Người
dân đã có cơ sở pháp lý để thực hiện quyền làm chủ của mình. Tuy nhiên, mức độ
ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với việc thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở nặng nề
hơn so với các cấp cao hơn. Một phần, do trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, hình
thức dân chủ trực tiếp được phát huy tối đa với sự tham gia của đông đảo người
dân, vì vậy đối tượng tham gia thực hiện dân chủ ở diện rộng. Một phần khác, do
cán bộ ở cơ sở đều là những người quen biết, họ hàng, không hề xa lạ với người dân
nên họ không chỉ bị tác động bởi những quy định của luật pháp mà còn bị chi phối
bởi các mối quan hệ phi quan phương khác. Người dân và cán bộ ở cơ sở, đa số là ở
các xã (Việt Nam có hơn 11.000 xã, phường, thị trấn thì đến hơn 8000 xã), hoạt
động của nhiều người dân vẫn là sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, do đó

những tàn dư của tâm lý tiểu nông ở bộ phận này nặng nề hơn so với các tầng lớp
khác. Vì vậy, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện
dân chủ thì trước hết phải quan tâm đến cấp cơ sở, cấp xã.
Thời gian qua, triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị định và pháp lệnh dân
chủ ở xã, phường thị trấn trong thực tế, quyền dân chủ của người dân trên các mặt
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã được khẳng định ngày càng tốt hơn. Thông qua
đó, ý thức, năng lực làm chủ của người dân được nâng lên, thái độ, tác phong, tinh


3

thần phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã cũng có nhiều chuyển
biến tích cực. Tuy nhiên, quá trình thực hiện dân chủ ở các xã vẫn còn những bất
cập, tình trạng dân chủ hình thức, độc đoán chuyên quyền vẫn còn tồn tại ở không ít
nơi, một bộ phận người dân cũng chưa tích cực, chủ động hưởng quyền dân chủ của
mình, hoặc thực hiện nhưng không hướng đến lợi ích chung của cộng đồng…
Những hạn chế trong chất lượng thực hiện dân chủ ở cơ sở có nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó một phần xuất phát từ chính tâm lý tiểu nông đã ăn sâu vào
trong suy nghĩ và hành động của cán bộ và người dân ở cơ sở.
Vì vậy, việc nhận diện rõ những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến
việc thực hiện dân chủ ở cơ sở nước ta là rất cần thiết để chúng ta có những biện
pháp chủ động ngăn ngừa, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông,
góp phần thiết thực vào việc đẩy mạnh thực hành dân chủ ở nước ta, đưa dân chủ
thực sự trở thành động lực để phát triển đất nước và hiện thực hóa các mục tiêu của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với những lý do đó, tôi lựa chọn đề
tài “Ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông, về thực hiện

dân chủ ở cơ sở và thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số giải pháp để
ngăn ngừa, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án;
Làm rõ những vấn đề lý luận về tâm lý tiểu nông và thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt
Nam hiện nay; phân tích sự cần thiết phải hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở, phương thức tác động của tâm lý
tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Phân tích thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay, nguyên nhân của thực trạng đó.


4

- Đề xuất một số giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu
nông đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận án là ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án là việc thực hiện dân chủ của
nhân dân và cán bộ ở các xã. Nội dung của việc thực hiện dân chủ ở các xã cũng
được khảo sát trên cơ sở nội dung của pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn.
Phạm vi không gian: các xã trong phạm vi không gian lãnh thổ Việt Nam.
Phạm vi thời gian: từ năm 2007 (khi có Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn) đến nay.

4. Những đóng góp mới của luận án
- Những vấn đề về tâm lý tiểu nông, về thực hiện dân chủ ở cơ sở đã đươc
nhiều công trình bàn tới nhưng những phương thức tác động của tâm lý tiểu nông
đến thực hiện dân chủ ở cơ sở, đó là thông qua phong tục tập quán và giáo dục gia
đình là nội dung mà chưa công trình nào đề cập tới và sẽ được làm rõ trong luận án.
- Nhận diện và chỉ rõ những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong
thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam hiện nay ở cả người dân và cán bộ cơ sở, đánh
giá mức độ tác động của tâm lý này trong thực hiện 4 nhóm quyền cơ bản của người
dân là quyền được biết, quyền được tham gia ý kiến, quyền biểu quyết, quyết định
và quyền kiểm tra, giám sát.
- Đề xuất được một số giải pháp để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
tâm lý tiểu nông đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở Việt Nam trong thời gian tới,
trong đó đặc biệt là giải pháp xoá bỏ dần phương thức tác động của tâm lý tiểu nông
đến thực hiện dân chủ qua đó nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu
nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. Bên cạnh đó, giải pháp về hoàn thiện hệ thống
pháp luật về dân chủ ở cơ sở đã có một số công trình nói tới, nhưng hoàn thiện hệ


5

thống pháp luật về dân chủ ở cơ sở nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của
tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở là những đóng góp mới, chưa được
đề cập ở các công trình trước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước ta về thực hành dân chủ., về ý thức xã hội, ý thức nông dân…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp phân tích và tổng
hợp, lịch sử và lôgíc, quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh, phương pháp
chuyên gia…
6. Ý nghĩa của luận án
- Góp phần cung cấp cơ sở lý luận cho Đảng, Nhà nước trong việc hoạch
định chủ trương, chính sách, pháp luật về phát huy dân chủ cơ sở, hạn chế ảnh
hưởng của tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cũng như nhân dân trong quá trình
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy trong
các trường chính trị, trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình khoa học liên quan
đến đề tài luận án của nghiên cứu sinh, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án chia
làm 4 chương 13 tiết.


6

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ, VỀ
TÂM LÝ TIỂU NÔNG TRÊN PHƯƠNG DIỆN LÝ LUẬN

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở trên phương diện
lý luận
Về những công trình nghiên cứu ở nước ngoài: vấn đề dân chủ ở cơ sở cũng
là một nội dung quan trọng trong thực hiện dân chủ, được nhiều nước quan tâm.
Đặc biệt, quá trình thực hiện dân chủ cơ sở ở Trung Quốc có nhiều điểm tương

đồng với Việt Nam và cũng được giới khoa học của Trung Quốc nghiên cứu khá
sâu sắc ở nhiều góc độ khác nhau.
Ở Trung Quốc, nội dung của dân chủ cơ sở đã được luật hoá bằng các luật và
có những nội dung gần giống như ở Việt Nam mặc dù tên gọi có khác. Vương Đổng
trong Xây dựng dân chủ cơ sở trong 30 năm cải cách mở cửa [59] cho rằng, từ cải
cách mở cửa đến nay, Trung Quốc từng bước thiết lập nên hệ thống tự trị dân chủ ở
cơ sở với nội dung chủ yếu là Ủy bản thôn dân ở nông thôn, Ủy ban cư dân ở đô thị
và Đại hội đại biểu người lao động ở các doanh nghiệp. Nội dung cơ bản của dân
chủ cơ sở ở Trung Quốc chính là bầu cử dân chủ, quản lý dân chủ, quyết sách dân
chủ, giám sát dân chủ. Bầu cử dân chủ người dân trực tiếp bầu ra uỷ ban dân thôn
đại diện cho họ trong thực hiện quyền tự trị ở thôn. Quản lý dân chủ nghĩa là người
dân được biết và cùng nhau quản lý những vấn đề lớn trong phạm vi thôn. Quyết
sách dân chủ là những chính sách lớn thực hiện ở thôn đều phải có sự bàn bạc, biểu
quyết của nhân dân và giám sát dân chủ là người dân được tham gia vào quá trình
giám sát các hoạt động diễn ra ở thôn. Nội dung những quyền này của người dân
cũng đã được thể chế hoá ở Việt Nam.
Nghiên cứu về vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng được
nhiều học giả Trung Quốc chỉ ra. Các tác giả cũng tiếp cận vai trò, ý nghĩa ở nhiều
góc độ khác nhau, vai trò của dân chủ đối với việc xây dựng chế độ chính trị dân
chủ xã hội chủ nghĩa, với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc cũng như
thực hiện các mục tiêu ở Trung Quốc như xây dựng xã hội hài hoà… Tác giả Lưu


7

Diệp Phong trong bài viết Ý nghĩa của việc tăng cường xây dựng dân chủ cơ sở ở
nông thôn và một số khó khăn hiện thực [145] khẳng định, xây dựng chính trị dân
chủ ở cơ sở lấy tăng cường tự trị thôn dân làm nội dung chủ yếu là một công việc
đặc biệt quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa ở Trung Quốc, là thực tiễn quan
trọng của cải cách thể chế chính trị nông thôn Trung Quốc. Đồng thời chỉ ra một số

khó khăn, thách thức trong việc thực hiện tự trị thôn dân ở Trung Quốc hiện nay.
Dương Ái Dân trong cuốn sách Nghiên cứu xây dựng dân chủ chính trị ở cơ sở [31]
đã phân tích giá trị và ý nghĩa của việc xây dựng dân chủ ở cơ sở trên các phương
diện như: xây dựng dân chủ ở cơ sở với việc xây dựng xã hội hài hòa, xây dựng dân
chủ với văn minh chính trị xã hội chủ nghĩa, chế độ chính trị dân chủ xã hội chủ
nghĩa với chính trị dân chủ ở cơ sở; Tác giả cũng khẳng định quần chúng nhân dân
ở cơ sở là chủ thể dân chủ ở cơ sở. Trương Nông An trong Tự trị thôn dân - con
đường tất yếu của xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc [1] khẳng định
tự trị thôn dân là một mắt khâu trong tiến trình cải cách thể chế chính trị Trung
Quốc. Thái Đài Hồng trong bài viết Một số suy nghĩ về thúc đẩy xây dựng dân chủ
cơ sở ở nông thôn [79] cho rằng, xây dựng dân chủ ở cơ sở là một bộ phận quan
trọng của xây dựng dân chủ ở Trung Quốc. Thực trạng xây dựng và phát triển dân
chủ ở cơ sở trực tiếp ảnh hưởng đến trình độ phát triển và mức độ thực hiện của dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn là một bộ phận quan
trọng của xây dựng dân chủ ở cơ sở.
Như vậy, dân chủ cơ sở ở Trung Quốc có những nội dung tương đồng với
quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam, đồng thời cũng có nhiều sự khác
biệt. Ở Trung Quốc, dân chủ ở cơ sở lấy cấp thôn làm điểm xuất phát, trong khi ở
Việt Nam là cấp xã. Một sự khác biệt nữa trong dân chủ cơ sở ở Việt Nam và
Trung Quốc là ở Trung Quốc, nhân dân trực tiếp bầu và bãi nhiệm uỷ ban thôn
dân (từ 5 đến 7 người), trong khi ở Việt Nam nhân dân trực tiếp bầu và bãi nhiệm
trưởng thôn.
Về tình hình nghiên cứu ở trong nước: nghiên cứu về dân chủ ở cơ sở, đặc
biệt là dân chủ ở xã, phường, thị trấn thu hút sự tham gia của rất nhiều nhà khoa học
và những người lành đạo thực tiễn ở nước ta từ năm 1998 đến nay. Các công trình


8

này đã góp phần làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến thực hiện dân chủ ở cơ

sở theo nhiều góc độ khác nhau:
Những công trình đi sâu nghiên cứu nội dung của thực hiện dân chủ ở cơ sở
Tác giả Đỗ Quang Tuấn trong bài “Cơ sở lý luận - thực tiễn của phương
châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và mấy vấn đề về xây dựng quy chế
dân chủ ở cơ sở” [202], đã đề cập những nội dung dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra trong quy chế dân chủ ở cơ sở. Tác giả Đỗ Mười với bài “Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân ở cơ sở” [121] cũng chỉ rõ “Quy chế dân chủ ở xã có nội
dung chủ yếu là xác định quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội ở cơ sở, xác định mối quan hệ giữa nhân dân và chính quyền cơ sở”.
Tác giả Nguyễn Long Khánh với bài “Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo tư tưởng Hồ
Chí Minh” [90] chỉ rõ quan niệm về thực hiện dân chủ ở cơ sở “Thực hiện dân chủ
ở cơ sở là thực hiện các quá trình dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội một
cách trực tiếp, rộng rãi và liên tục đối với mọi người, đối với mọi giới và mọi lứa
tuổi”. Bên cạnh những tác giả tiếp cận nội dung của thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn trên các nội dung dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân kiểm tra
thì tác giả Lê Thi trong bài “Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức
trách nhiệm của nhà nước” [176] cho rằng, dân chủ ở cơ sở không phải là hình
thức mà là một cấp độ của chế độ dân chủ. Nội dung của dân chủ cơ sở thể hiện
dưới hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Tiếp cận nội dung của quyền
dân chủ ở cơ sở theo phương châm dân biết, dân bàn, dân quyết định, dân kiểm tra,
tác giả Nguyễn Hồng Chuyên trong bài viết “Đổi mới cơ chế dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã” [27] đã phân tích
cụ thể nội dung các quyền dân biết, dân bàn, dân quyết định dân kiểm tra theo pháp
luật về dân chủ ở cấp xã là gì và đưa ra những yêu cầu trong thực hiện các nhóm
quyền này.
Như vậy, tiếp cận về nội dung của thực hiện dân chủ ở cơ sở, các tác giả có
nhiều góc độ xem xét khác nhau nhưng đều thống nhất ở các nội dung dân biết, dân
bàn, dân quyết định, dân kiểm tra. Có những tác giả làm rõ mối quan hệ giữa các
quyền này, đồng thời một số nhà nghiên cứu cũng đã bước đầu chỉ ra quyền dân chủ



9

trực tiếp và dân chủ gián tiếp trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Những nội dung này
sẽ được tác giả luận án kế thừa và phát triển trong phân tích những vấn đề lý luận về
dân chủ ở cơ sở.
Những công trình nghiên cứu về sự cần thiết, ý nghĩa, vai trò của việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở:
Về sự cần thiết của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhiều nhà khoa học đã có
những lí giải của mình. Tác giả Bùi Ngọc Trinh với bài “Để thực hiện dân chủ trực
tiếp trên địa bàn làng xã” [196] cho rằng, cần thực hiện quyền dân chủ trực tiếp ở
địa bàn làng xã nơi mà mọi người sống khá ổn định, gắn bó về mặt văn hóa, phong
tục, tình cảm, gia đình, dòng họ. Tác giả Đỗ Mười với bài “Phát huy quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở” [121] chỉ ra thêm 2 lí do phải thực hiện dân chủ ở cơ sở đó
là xã là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất công tác, là địa bàn diễn ra
sự tiếp xúc và các mối liên hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với đảng bộ và
chính quyền, cán bộ, công chức. Đồng thời đông đảo nhân dân ở cơ sở có những
yêu cầu bức xúc về dân chủ, có những nguyện vọng và lợi ích thiết thân trong đời
sống hàng ngày. Trong bài “Thực hiện dân chủ ở xã, mấy vấn đề đặt ra” [138], tác
giả Trần Quang Nhiếp cũng giải thích rõ lí do tại sao phải quan tâm thực hiện dân
chủ ở xã là do:
Xã là nơi có vị trí quan trọng, là nơi trực tiếp giải quyết mối quan hệ giữa
nhà nước và nhân dân, là địa bàn tổ chức, thực hiện các chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với lực
lượng đông đảo của xã hội. Xã là cộng đồng dân cư mà mọi người gắn
bó với nhau bởi những kết cấu chặt chẽ, làng xóm, họ tộc lâu bền trải qua
nhiều biến cố lịch sử [138, tr.45]
Nói về vai trò của xã đối với việc thực thi, hoàn thiện chính sách của Nhà nước, tác
giả cũng khẳng định:
Nhân dân ở xã cũng như phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện các

chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, vừa
là người kiểm nghiệm, đánh giá, thẩm định tính chuẩn xác, hiệu lực, hiệu
quả của những chủ trương, đường lối, chính sách. Vì thế đây là nơi đưa


10

nghị quyết, chính sách vào cuộc sống và ngược lại, thông qua đây thể
hiện năng lực và trình độ làm chủ của nhân dân trong mỗi thời kỳ, trên
từng lĩnh vực của đời sống xã hội [138, tr. 45].
Tác giả Nguyễn Huy Quý trong bài “Về dân chủ ở cơ sở” [153] chỉ rõ sự cần
thiết phải thực hiện dân chủ ở cơ sở, đó là hầu hết các lợi ích chính trị, văn hóa của
công dân hiện nay đều được thực hiện ở cấp xã, phường, xí nghiệp, đơn vị; Nếu các
đơn vị cơ sở không có dân chủ thực sự thì không thể đưa quyền dân chủ về chính trị
và văn hóa trong Hiến pháp và trong đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước
đến với mọi người dân; Dân chủ ở tất cả các cấp đều quan trọng nhưng dân chủ ở
cơ sở là khâu trực tiếp quyết định hiệu quả của cả hệ thống dân chủ. Bằng nhiều
cách phân tích và lập luận khác nhau, các tác giả đều khẳng định thực hiện dân chủ
ở cơ sở là nhu cầu cấp thiết, bức bách và quan trọng nhất trong thực hiện dân chủ ở
Việt Nam hiện nay. Các tác giả đều khẳng định việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là
cần thiết do tầm quan trọng của cơ sở, do nhu cầu và điều kiện thuận lợi cho việc
thực hiện dân chủ. Đây là những nội dung quan trọng, cần thiết mà tác giả luận án
sẽ kế thừa.
Về vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, Tác giả Nguyễn Cúc
(chủ biên) trong cuốn sách “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện
nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [29] đã làm rõ ý nghĩa của việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở đối với việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay. Về các bài tạp chí, tác giả Phạm Quang Nghị trong bài “Thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Hà Nam” [123] đánh giá quy chế dân chủ ở cơ sở là
“giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể; là chất

keo gắn kết Đảng, Nhà nước với nhân dân; là liều thuốc chữa căn bệnh quan liêu,
tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, góp phần làm lành mạnh và
trong sạch bộ máy và cán bộ, giữ vững và phát huy bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Tác giả Trần Quang Nhiếp trong bài
“Dân chủ ở cơ sở với phát triển cộng đồng” [140] nêu rõ vai trò của thực hiện dân
chủ với phát triển cộng đồng đó là thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, khắc phục tư duy “đèn


11

nhà ai nhà ấy rạng” của lối sống cá nhân vị kỷ; Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm
nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân; Thực hiện dân chủ ở cơ sở
đã phát huy tiềm năng trí tuệ sức sáng tạo, sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân
dân để phát triển kinh tế - xã hội; Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm giữ vững kỷ
cương, phép nước ngăn chặn tiêu cực, các tệ nạn xã hội, nâng cao năng lực quản lý
của chính quyền; Thực hiện dân chủ ở cơ sở nhằm xây dựng niềm tin và mối quan
hệ chặt chẽ giữa dân với Đảng và chính quyền. Trong bài “Khâu đột phá của quá
trình phát huy dân chủ ở nước ta thời kỳ đổi mới” [146], tác giả Tòng Thị Phóng
cũng nêu ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là nhận thức về dân chủ của
các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về dân chủ, nhất là dân chủ trực
tiếp của nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực; Thực hiện dân chủ ở cơ sở góp
phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội;
Thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần vào xây dựng Đảng và chính quyền. Dù có
nhiều cách tiếp cận khác nhau, song các công trình trên đã phân tích ý nghĩa của
thực hiện dân chủ ở cơ sở đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị,
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội ở địa phương. Đây cũng là những nội dung hữu ích cần tham khảo cho
tác giả luận án. Tuy nhiên, trong luận án này, tác giả tập trung làm rõ hơn vai trò
của dân chủ ở cơ sở với quá trình dân chủ hoá, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở:
Tác giả Đỗ Mười trong bài “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở”
[121] đã phân tích vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở đối với việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở “Điều quan trọng là phải có được số cán bộ chủ chốt ở cơ sở trong
sạch, liêm khiết, công tâm; nếu số này tiêu cực nặng, tham nhũng mất dân chủ, nhân
dân không tin cậy thì phải kiện toàn cán bộ đã rồi mới triển khai chỉ thị 30. Những
cơ sở trung bình, thậm chí có những mặt yếu kém nếu cán bộ chủ chốt tốt thì vẫn có
thể triển khai chỉ thị 30”. Tác giả Trần Quang Nhiếp trong bài “Thực hiện dân chủ
ở xã, mấy vấn đề đặt ra” [138] chỉ ra 2 yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện dân


12

chủ ở xã, đó là sự lãnh đạo chặt chẽ và hoạt động thống nhất, sáng tạo của hệ thống
chính trị ở xã là yếu tố cơ bản, là điều kiện trực tiếp đảm bảo thực hiện dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra cùng với đó là sự giác ngộ, năng lực và trình độ làm chủ
của mỗi người dân ở nông thôn. Đây là yếu tố quan trọng, quyết định, tác động
nhiều mặt đến quá trình thực hiện dân chủ ở xã. Đồng tình với quan điểm của nhiều
nhà nghiên cứu, tác giả Nhật Tân với bài “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng để phát
huy dân chủ ở cơ sở” [167] cũng nêu rõ vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên và
trình độ dân trí, dân sinh của người dân là những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở. Tác giả Lê Thi trong bài “Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn
đề tăng cường ý thức trách nhiệm của nhà nước” [176] bên cạnh việc chỉ ra 2 yếu
tố cơ bản tác động đến việc thực hiện dân chủ ở xã là người dân và cán bộ, tác giả
còn chỉ ra mối quan hệ tương hỗ giữa hai yếu tố này. Như vậy, các công trình này
đều đánh giá cao vai trò của hai yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến thực hiện dân chủ ở
cơ sở là cán bộ cơ sở và nhân dân - những chủ thể thực hiện dân chủ ở cơ sở. Đây là
gợi ý về mặt phương pháp luận cho tác giả luận án trong khi nghiên cứu về ảnh

hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ ở cơ sở. Những biểu
hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông trong cán bộ cơ sở và nhân dân thông qua hành
động của họ tác động đến việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về tâm lý tiểu nông
Những công trình chỉ ra những biểu hiện của tâm lý tiểu nông.
Vì tâm lý tiểu nông, tâm lý nông dân, tâm lý sản xuất nhỏ ở Việt Nam có
điểm tương đồng, giao thoa với nhau bởi sản xuất của Việt Nam trước đây chủ yếu
là sản xuất nông nghiệp nhỏ. Cho nên, tác giả sử dụng các tài liệu này khi nghiên
cứu về tâm lý tiểu nông.
Đỗ Thị Thanh Mai trong luận án tiến sĩ Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam
khi chuyển sang kinh tế thị trường - đặc trưng và xu hướng biến đổi [108] đã chỉ ra
những đặc trưng tâm lý tiêu cực truyền thống của người nông dân miền Bắc là tâm lý
sản xuất nhỏ manh mún, phân tán, tự cung, tự cấp; Bảo thủ thiên về tư duy kinh
nghiệm, trực giác, hạn chế sự phát triển của tư duy lô gic và khoa học; Tâm lý hẹp
hòi, vị kỷ, phường hội, cục bộ địa phương. Như vậy, tác giả công trình này cho
rằng tâm lý sản


13

xuất nhỏ là một biểu hiện trong tâm lý truyền thống tiêu cực của người nông dân.
Trong tâm lý sản xuất nhỏ tác giả chỉ ra 2 nét tâm lý là thiển cận, không nhìn xa “gà
nhà ăn quanh quẩn cối xay”, lối sống cá nhân vị kỷ đèn nhà ai nhà ấy rạng.
Lê Hữu Xanh trong cuốn sách Tác động của tâm lý làng xã trong việc xây
dựng đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay
[223] đã chỉ ra biểu hiện của tâm lý làng xã là tâm lý tiểu nông, tâm lý cộng đồng và
tâm lý trọng tình cảm. Trong tác phẩm này, tác giả xếp tâm lý tiểu nông vào là một
trong những biểu hiện của tâm lý làng xã. Đồng thời tác giả nêu 1 số biểu hiện của
tâm lý tiểu nông đó là tư duy kinh nghiệm chiếm ưu thế trong đời sống nhận thức;
tâm lý an phận, thụ động, trông chờ, ít sáng tạo (sản xuất nhỏ, trình độ lạc hậu, khả

năng chế ngự và chinh phục tự nhiên thấp), tâm lý tư hữu (một nắng hai sương lo
vun vén cho mảnh ruộng, ngôi nhà của mình).
Công trình “Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa
những điều cần khắc phục” [63] do Phạm Minh Hạc chủ biên là tập hợp các bài viết
của nhiều tác giả, trong đó các tác giả bàn nhiều về tâm lý tiểu nông. Ví dụ như
trong công trình này có bài viết “Một số điều cần khắc phục trong nhân cách người
Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Thái Duy Tuyên đã chỉ
ra những biểu hiện tâm lý tiêu cực đó là tư tưởng dòng họ, bè phái cục bộ, tâm lý dĩ
hòa vi quý, tâm lý bảo thủ, trì trệ. Tác giả Đỗ Long trong công trình này cũng chỉ ra
những biểu hiện của tâm lý tiểu nông là tư duy manh mún, tình cảm dòng họ và tính
cục bộ, tính thụ động, cầu may, ăn xổi, tác phong tùy tiện, ý thức kỷ luật kém, tư
tưởng bình quân chủ nghĩa.
Tác giả Trần Sỹ Dương trong công trình “Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất
nhỏ ở đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” [39] đã chỉ ra
những đặc trưng tiêu cực của tâm lý sản xuất nhỏ là cục bộ địa phương và tâm lý
bình quân, cào bằng; Tính thu vén cá nhân, tư lợi; Nếp nghĩ theo kinh nghiệm, ngại
thay đổi, tầm nhìn thiển cận; Thói quen tự do tuỳ tiện, vô kỷ luật, chưa có ý thức tôn
trọng pháp luật.
Tác giả Cao Thị Sính trong luận án tiến sĩ “Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông
đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”
[159] đã phân tích cả những đặc điểm tích cực và tiêu cực của tâm lý tiểu nông. Các


14

đặc trưng tiêu cực là thói quen sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, bảo thủ, nếp nghĩ theo
kinh nghiệm, ngại đổi mới; Tâm lý hẹp hòi, vị lợi, cục bộ địa phương, tính tuỳ tiện,
kèm kỷ luật, kỷ cương, chưa có thói quen tôn trọng và chấp hành pháp luật.
Tác giả Lê Thị Thanh Hương (chủ biên) trong cuốn sách Một số yếu tố tâm
lý của người nông dân ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nông thôn mới [83] đã

đưa ra định nghĩa về tâm lý tiểu nông đó là “tâm lý của người nông dân sản xuất
nhỏ mang tính tự phát, manh mún, tự cung, tự cấp”. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra
một số điểm hạn chế của tâm lý tiểu nông là “Về mặt nhận thức và tư duy: nhận
thức dựa vào kinh nghiệm, đậm nét cảm tính và chủ quan, chỉ thấy cái ngắn hạn,
trước mắt, không nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ, ngại đổi mới, ít sáng tạo”; Về đời
sống tình cảm, thích sự bình yên, trọng tình cảm hơn lý trí. Về thói quen và nhu
cầu: có tâm lý an phận thủ thủ thường, sống theo kiểu tiết chế nhu cầu. Từ đó, tác
giả đi đến kết luận: “Những người có tâm lý tiểu nông cũng có tính đố kỵ, ghen ăn
tức ở theo kiểu “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, không muốn ai hơn mình,
không dám làm gì, níu kéo nhau cùng cực khổ, tùy tiện vô nguyên tắc, coi thường
pháp luật. Cùng với đó là tâm lý đóng kín, bế quan tỏa cảng, không giao lưu, quan
hệ rộng mà sống quẩn quanh trong lũy tre làng nên bị hạn chế nhiều về tầm nhìn.
Họ cũng có tâm lý tư hữu, thờ ơ, vô trách nhiệm trước việc công, chỉ lo vun vén cho
mảnh ruộng, ngôi nhà riêng của mình”.
Lê Thị Lan trong bài viết Tư tưởng làng xã ở Việt Nam [95] đã nêu lên một
số nội dung trong tư tưởng làng xã là tư tưởng cố kết cộng đồng, tư tưởng, yên
phận, trọng kinh nghiệm, tư tưởng cục bộ địa phương. Như vậy, tâm lý làng xã cũng
có nhiều nét tâm lý tương đồng với tâm lý tiểu nông.
Đàm Thị Hồng trong bài viết Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối với quá
trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay [77] đưa ra định nghĩa “Tâm lý
tiểu nông là loại hình tâm lý phổ biến ở nông thôn nước ta, được hình thành trên cơ
sở nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, quy mô nhỏ, khép kín, mang nặng tính tự cấp,
tự túc”. Tác giả cũng nêu những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông là Tư duy
manh mún, phân tán, nhỏ lẻ; Tư tưởng bè phái, dòng họ, cục bộ địa phương; Tâm lý
tư hữu cá nhân; Thiếu ý thức kỷ luật lao động, coi thường pháp luật; Tính thụ động,
yên phận, ỷ lại; Người nông dân tuy một nắng hai sương nhưng lại làm việc tuỳ


15


hứng, tự phát, thiếu tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, tác phong lề mề, tuỳ tiện đã trở thành
thói quen phổ biến; Thói quen dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể “Nước trôi thì bèo trôi,
nước nổi thì thuyền nổi”.
Tóm lại, về những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông ở những công
trình cụ thể vẫn có sự khác biệt, có công trình nói biểu hiện này, công trình nói biểu
hiện khác và cách sắp xếp tâm lý tiểu nông với tâm lý làng xã, tâm lý nông dân, tâm
lý truyền thống…có sự giao thoa, bao hàm song nếu khái quát chung tất cả các tài
liệu này thì những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông đã được nhắc tới về cơ
bản đầy đủ. Đây là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả luận án khi nghiên cứu
về những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông.
Những công trình phân tích cơ sở hình thành tâm lý tiểu nông ở nước ta.
Trong công trình “Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại
hóa những điều cần khắc phục” [63] do Phạm Minh Hạc chủ biên, trong khi làm rõ
những biểu hiện của tâm lý tiểu nông, tác giả cũng phân tích điều kiện sản xuất sinh
hoạt của người nông dân sản xuất nhỏ trong không gian làng xã đã hình thành nên
tâm lý tiểu nông như thế nào. Tác giả Đỗ Long trong công trình “Quan hệ cộng
đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân” [103] phân tích làm rõ tâm lý cộng đồng
và cơ sở hình thành tâm lý cộng đồng đó chính là không gian làng xã. Tác giả Trần
Sỹ Dương trong cuốn sách “Ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ ở đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” [39] đã chỉ ra những yếu tố tác
động đến sự hình thành tâm lý sản xuất nhỏ là nền sản xuất nhỏ, điều kiện tự nhiên,
yếu tố văn hoá, xã hội đặc biệt là văn hoá làng xã, yếu tố chính trị. Luận án tiến sĩ
“Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đến xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay” [159] tác giả Cao Thị Sính cũng làm rõ cơ sở hình thành tâm lý tiểu nông
chính là do điều kiện sản xuất, sinh hoạt của người nông dân. Những công trình này
cũng là tài liệu tham khảo có giá trị cho tác giả luận án trong nghiên cứu lý luận về
tâm lý tiểu nông. Tuy nhiên, các công trình này đôi khi trình bày biểu hiện và những
cơ sở hình thành lẫn vào nhau, cách phân chia cơ sở hình thành cũng có nhiều tiếp
cận khác nhau. Ở trong luận án, tác giả sẽ trình bày 3 cơ sở quan trọng nhất để hình



16

thành tâm lý tiểu nông là điều kiện tự nhiên, cơ sở kinh tế và cơ sở văn hoá xã hội.
Tác giả sẽ phân tích cụ thể hơn những cơ sở này sẽ góp phần nảy sinh những biểu
hiện tiêu cực nào của tâm lý tiểu nông.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG ẢNH
HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÂM LÝ TIỂU NÔNG ĐẾN THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở
CƠ SỞ TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

Về tình hình nghiên cứu ở nước ngoài:
Trung Quốc là quốc gia có nền văn hoá có nhiều nét tương đồng với Việt
Nam, một đất nước nông nghiệp và trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong
kiến. Vì vậy, quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Trung Quốc cũng chịu sự tác
động mạnh mẽ của nhân tố văn hoá truyền thống. Do đó, cũng có nhiều công trình
nghiên cứu ở Trung Quốc phân tích những cản trở của yếu tố tâm lý và văn hoá
truyền thống đối với việc thực hiện dân chủ cơ sở ở đất nước này, đồng thời đề xuất
các giải pháp ngăn chặn, hạn chế. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
Quách Ngọc Lan trong công trình Phân tích nhân tố tâm lý và văn hóa cản
trở việc tham gia xây dựng dân chủ cơ sở của nông dân [97] tập trung phân tích
nhân tố tâm lý và văn hóa của nông dân cản trở việc việc nâng cao chất lượng tham
gia của nông dân vào quá trình chính trị ở cơ sở.
Trương Hải Yến trong bài viết Xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn dưới sự
ảnh hưởng của văn hóa chính trị truyền thống [224] cho rằng, cùng với việc nghiên
cứu xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn ngày càng phát triển theo chiều sâu, ngày
càng nhiều học giả nhận thức được nhân tố văn hóa đã trở thành một nhân tố ở tầng
sâu chế ước việc xây dựng dân chủ cơ sở ở nông thôn. Điều này chủ yếu được thể
hiện ở thái độ và nhận thức đối với dân chủ, tính nhiệt tình và động cơ tham gia
chính trị, hoạt động bầu cử... Vì thế, để thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa ở nông thôn,
cần phải từng bước khắc phục những cản trở của văn hóa chính trị truyền thống đối

với phát huy dân chủ, tập trung phát triển sức sản xuất xã hội ở nông thôn, tăng
cường xã hội hóa chính trị ở nông thôn, nỗ lực bồi dưỡng văn hóa chính trị phù hợp
với dân chủ hiện đại.


17

Trong bài viết Hạn chế sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị truyền thống,
thúc đẩy xây dựng dân chủ ở cơ sở [66], Lý Hồng Hải cho rằng, văn hóa chính trị
thường ảnh hưởng đến tiến trình dân chủ và sự phát triển chính trị của một quốc gia.
Văn hóa chính trị truyền thống Trung Quốc có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với đời
sống chính trị xã hội hiện đại, đặc biệt là sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị truyền
thống đối với xây dựng dân chủ chính trị ở cơ sở càng rõ nét. Để thúc đẩy xây dựng
chính trị dân chủ ở cơ sở, cần phải hạn chế sự ảnh hưởng của văn hóa chính trị
truyền thống phong kiến đối với việc xây dựng dân chủ, chú trọng bồi dưỡng công
dân theo mô hình “người công dân tham gia”, tăng cường sự minh bạch chính trị,
xây dựng văn hóa chính trị hiện đại...
Vương Đổng với công trình Xây dựng dân chủ cơ sở trong 30 năm cải cách
mở cửa [59], sau khi trình bày nhiều thành tựu trong thực hiện dân chủ cơ sở ở
Trung Quốc, cũng khẳng định hiện nay, việc xây dựng dân chủ cơ sở ở Trung Quốc
vẫn còn tồn tại nhiều nhân tố cản trở việc phát huy dân chủ bắt nguồn từ lịch sử
2000 năm phong kiến của Trung Quốc.
Lê Học Huy trong bài viết Tố chất văn hóa của nông dân và sự ảnh hưởng
của nó đối với việc xây dựng chính trị dân chủ ở cơ sở [86] đã phân tích sự ảnh
hưởng về tố chất của nông dân đối với quá trình xây dựng chính trị dân chủ ở cơ sở
cũng như việc thực thi dân chủ ở cơ sở.
Như vậy, các công trình nghiên cứu ở Trung Quốc cũng đã bước đầu đặt ra
vấn đề về những trở lực của tâm lý, văn hoá truyền thống với thực hiện dân chủ ở
cơ sở. Đây là những tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả trong quá trình
nghiên cứu luận án.

Về tình hình nghiên cứu trong nước:
Các sách nói về thực trạng ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực
hiện dân chủ ở cơ sở, có thể nói đến một số công trình tiêu biểu sau:
Cuốn sách Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt
Nam hiện nay [204] do Đào Trí Úc chủ biên, là tập hợp của nhiều bài viết nói về vai
trò của hương ước như một công cụ bổ sung cho pháp luật để quản lý xã hội ở nông
thôn hiện nay. Trong quá trình đó, các tác giả có phân tích những mặt tích cực và


18

tiêu cực của hương ước cũ, trong đó có những biểu hiện của tâm lý tiểu nông trong
hương ước, về tính điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả của hương ước cũ đối với hành
vi của mọi cá nhân. Mặc dù thể hiện ở những bài viết cụ thể nhưng rõ ràng qua
những nội dung này cho thấy tâm lý tiểu nông qua hương ước mà ảnh hưởng đến
mọi người dân ở nông thôn.
Trong công trình “Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở” [94], tác giả Trần Ngọc Khuê và Lê Kim Việt cũng đã chỉ ra những tác động
tiêu cực của tâm lý nông dân đối với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đó là
“Nhiều biểu hiện tâm lý tồn tại như một sức ỳ, một vật cản của quá trình dân chủ
hóa. Biểu hiện rõ nhất là tính duy tình, tự ti, mặc cảm về địa vị xã hội của một bộ
phận dân cư nên họ không dám đấu tranh, bộc lộ chính kiến, muốn dĩ hòa vi quý.
Trong đấu tranh phê bình thì thiếu công tâm, khách quan, cục bộ dòng họ, cục bộ
địa phương”. Bên cạnh tâm lý duy tình, tác giả còn chỉ ra biểu hiện của tư duy manh
mún dẫn tới “Trong bàn bạc, thảo luận, trao đổi quyết định những vấn đề lớn, tư
duy tiểu nông, tư duy cò con, manh mún, tủy tiện biểu hiện rất rõ, không vượt ra
ngoài những nhu cầu hạn hẹp, cá nhân của người nông dân”. Cùng với đó là tác
động của tâm lý dòng họ, cục bộ “Do tác động của tâm lý dòng họ, cục bộ địa
phương nên ở nhiều nơi xảy ra tình trạng cát cứ, bè phái, phân tán, gây chia rẽ, mất
đoàn kết, không tạo ra tính thống nhất, sức mạnh trí tuệ và nội lực của tập thể, cộng

đồng. Nhiều vấn đề đưa ra dân bàn bạc thì bị chi phối bởi quan hệ dòng họ, do vậy
thiếu khách quan, chính xác”. Một biểu hiện nữa là tâm lý bình quân chủ nghĩa
“Yếu tố bình quân, cào bằng ảnh hưởng đến việc triển khai, khi thực hiện dân biết,
dân làm, kiểm tra có biểu hiện đố kỵ, không thích ai hơn mình, cái gì cũng phải đều
nhau, kìm hãm nhân tố tích cực, nảy sinh sự thiếu tin cậy, nghi hoặc lẫn nhau”. Tác
giả tiếp tục chỉ ra tác động tiêu cực của tâm lý cộng đồng đến thực hiện dân chủ
“Tâm lý cộng đồng có mặt tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực, đang trở thành 1
dạng áp lực nhóm, mang tính áp đặt đối với thái độ và chính kiến của cá nhân. Do
tác động của tâm lý cộng đồng, tính trách nhiệm, trí tuệ, sáng kiến cá nhân không
được phát huy đầy đủ. Người nông dân có tâm lý ngại bộc lộ chính kiến của mình.
Tâm lý cộng đồng có ảnh hưởng lớn đến việc giải phóng năng lực, trí tuệ, sự tự do,


19

dân chủ của mỗi cá nhân”. Từ những biểu hiện tiêu cực của tâm lý tiểu nông đã
phân tích trên, tác giả đã đi đến kết luận: “Những ảnh hưởng tiêu cực này biểu hiện
cả trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân… Nông dân Việt Nam vốn có bản
chất tư hữu, lối tư duy trực quan, cụ thể, tùy tiện, manh mún. Do vậy, trong nhận
thức và hành vi, họ có tầm nhìn hạn hẹp, khi đụng chạm đến lợi ích, ít có khả năng
vượt khỏi cái cá nhân để vươn tới cái cộng đồng, cái tổng thể, chiến lược. Đây là
nguyên nhân hạn chế hiệu quả việc thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”.
Lê Kim Hải (chủ biên) trong cuốn sách Những vấn đề đặt ra trong triển khai
quy chế thực hiện dân chủ ở xã [66] đã nêu thực trạng thực hiện quy chế dân chủ ở
xã, những thành công và đặc biệt là những vấn đề đang đặt ra, trong đó có những
nội dung cho thấy ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông trong thực hiện quy chế như
không tuân thủ pháp luật.
Tác giả Hoàng Chí Bảo trong cuốn sách Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông
thôn trong tiến trình đổi mới đã khẳng định “những lực cản đối với dân chủ ở Việt

Nam hiện nay có cả trong quá khứ xa xưa để lại, có cả trong hiện tại với những thể
chế thiết chế của nó, trong tổ chức quản lý xã hội” [9]. Lực cản mà quá khứ để lại
với việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay đó chính là tâm lý làng xã. Cuốn
sách có 1 mục về ảnh hưởng và tác động của tâm lý làng xã đối với việc thực hiện
và phát huy dân chủ hiện nay ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ (từ trang 186 đến
trang 218). Tác giả bàn đến cả những tác động tích cực và tiêu cực. Về những tác
động tiêu cực, tác giả trình bày 3 đặc điểm tâm lý tác động đến thực hiện dân chủ là
tính phân tán, cát cứ, cục bộ địa phương gắn liền với tâm lý phường hội; tâm lý bình
quân cào bằng; tâm lý lệ làng, coi phép vua thua lệ làng.
Tác giả Lê Minh Quân trong cuốn sách Về quá trình dân chủ hoá xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay [149] đã nêu một số yếu tố tác động đến quá trình dân
chủ hoá, thực hiện dân chủ ở Việt Nam như xây dựng Nhà nước pháp quyền, kiểm
soát quyền lực Nhà nước… trong đó dân chủ hoá ở cơ sở được coi là 1 hình thức để
thực hiện dân chủ hoá. Ở đây, tác giả có trình bày thành tựu và hạn chế trong quá
trình dân chủ hoá, đặc biệt là những hạn chế có chứa đựng những nội dung về việc


20

cán bộ không tích cực thực hiện pháp lệnh, nhân dân chủ yếu quan tâm đến lợi ích
bản thân… Những hạn chế này thực chất chính là do những ảnh hưởng tiêu cực của
tâm lý tiểu nông trong thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tuy nhiên, vì là 1 chương nhỏ
trong 9 chương của cuốn sách nên những nội dung này mới chỉ được nhắc đến chứ
chưa được phân tích sâu sắc.
Nguyễn Văn Hiển (chủ biên) trong cuốn sách Về thi hành pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 [69] đã tập trung phân tích những
thành tựu và hạn chế trong thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn với
các nội dung như xây dựng công trình công cộng tại địa phương và hoạt động của
Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, hoạt động bầu trưởng thôn, trưởng tổ dân phố,
hoạt động xây dựng và thực thi hương ước, quy ước văn hoá, hoạt động của ban

thanh tra nhân dân, hoạt động lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ chủ chốt cấp xã,
phường, thị trấn. Mặc dù không nói đến tâm lý tiểu nông nhưng qua phần thực trạng
hạn chế, chúng ta có thể thấy nhiều ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến
thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cuốn sách là tài liệu khảo sát công phu với nhiều số liệu
cụ thể, định lượng là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá trình đánh giá
thực trạng về những ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông đến thực hiện dân chủ
ở cơ sở.
Về các bài viết nghiên cứu khoa học đăng trên tạp chí, nhiều tác giả đánh giá
thực trạng thực hiện dân chủ ở cấp xã, chỉ ra những bất cập của nó mà những bất
cập đó có liên quan tới ảnh hưởng tiêu cực của tâm lý tiểu nông, mặc dù có tác giả
không nói rõ điều này. Tác giả Phạm Quang Nghị trong bài “Thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở ở Hà Nam” [123] đánh giá trong thực hiện quy chế dân chủ, vẫn có
trường hợp cán bộ thoái hóa, biến chất tham nhũng cố tình làm sai quy chế dân chủ
cơ sở, không thực hiện đúng các quy định. Người dân không hiểu quy chế dân chủ
cơ sở, vụ lợi, bị các phần tử xấu kích động, có những hành động sai trái… Thực
chất những hạn chế này là nói đến sự không tuân theo pháp luật, kỷ cương của cán
bộ và nhân dân trong thực hiện dân chủ ở cấp xã. Tác giả Lê Kim Việt với bài “Qua
3 năm thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nông thôn” [221] đã bước đầu thấy trong
thực hiện dân chủ cơ sở “Không ít người nhận thức được yêu cầu, nội dung, mục


×