Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận: Lý luận chung về xuất khẩu và thực trạng tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ cuối năm 1986 đến giữa năm 1960, đất nước Việt Nam đã trải qua 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng với hai kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm. Trong 10 năm
đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân Việt Nam đã phát huy cao độ nội lực của dân tộc,
kiên trì mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa vì độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh đã giành được những thành tựu to lớn. Tuy còn một số
mặt yếu kém, chưa vững chắc song nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đất
nước đã có điều kiện để chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO, khẳng
định nước ta đã từng bước tiến sâu, tiến mạnh vào nền kinh tế toàn cầu. Tỷ trọng cán cân
thương mại so với tổng sản phẩm nội địa tăng lên nhanh chóng qua từng thời kỳ, các mặt
hàng xuất khẩu nhanh chóng chiếm lĩnh các thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới như Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản… đưa Việt Nam trở thành Top 5 trong xuất khẩu gạo, Top 10 trong
xuất khẩu dệt may. Các mặt hàng như cà phê, cao su, thủy sản cũng tiếp tục mang thương
hiệu Việt Nam đến với người tiêu dùng toàn cầu. Gia nhập WTO, đồng nghĩa với việc
Việt Nam sẽ được hưởng những thuận lợi trong xuất khẩu khi được áp dụng các mức thuế
xuất khẩu được cắt giảm rất nhiều cũng như việc cam kết giảm dần đến xóa bỏ các hạn
ngạch quota đối với hàng hóa Việt Nam, đây sẽ là các tín hiệu tích cực cho ngành xuất
khẩu nước nhà.
Năm 2008, khủng hoảng và suy thoái toàn cầu diễn ra trên một phạm vi rộng lớn
của thế giới, tác động đến hầu hết các nền kinh tế của các quốc gia và tác động mạnh mẽ
đến các nền kinh tế có mức độ hội nhập cao. Năm 2008, tổng sản phẩm trong nước (GDP)
theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007 và chỉ số giá tiêu dùng bình
quân năm tăng 22,97% , tình hình xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng do diễn biến phức tạp của
giá dầu thô và mức tiêu thụ sụt giảm của các thị trường lớn như Hoa Kỳ và EU.
Nhận thức từ việc nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hiện nay, em đã chọn đề tài
nghiên cứu sau: “Lý luận chung về xuất khẩu và thực trạng tình hình xuất khẩu gạo
của Việt Nam năm 2018”.
Trong quá trình nghiên cứu và làm Đề tài này, do thời gian và kiến thức còn hạn
chế mặc dù bản thân em đã rất cố gắng nhưng chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất



mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy, cô giáo đánh giá, nhận xét và giúp đỡ tạo
điều kiện để đề tài hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
1.1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó
không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong
một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá
sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát
triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế oỏn định từng bước nâng cao mức sống nhân dân.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên
của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng
hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một
quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước
này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào
hoạt động kinh doanh này.
1.2 Các hình thức xuất khẩu thông dụng ở Việt Nam hiện nay
Hình thức xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một quoocsgia cho quốc
gia nước ngoài.
Ưu điểm: hình thức này có thể giảm được chi phí trung gian, tiếp cận trực tiếp
được với thị trường, nắm bắt hay đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Do đó có phản
ứng linh hoạt trước sự biến động của thị trường, hạn chế bớt được các rủi ro.


Hạn chế: tuy nhiên hình thức này cũng gặp rất nhiều rủi ro khi thị trường trong
nước đó biến động. Doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không bán được hàng hoặc khi giá cả
trong nước đó thay đổi bất ngờ, doanh nghiệp có khi phải chịu thiệt hại rất lớn.

Hình thức xuất khẩu trực tiếp chủ yếu là thông qua việc mở các văn phòng đại
diện để bán sản phẩm, giới thiệu sản phẩm hoặc là đầu tư trực tiếp sang nước đó để tận
dụng các lợi thế đặc biệt của nước đó nhằm nâng cao lợi nhuận. Do vậy, hình thức xuất
khẩu này mang lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng cũng chứa đựng yếu tố rủi ro cao nhất.
Hình thức xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hóa của một quốc gia cho quốc gia nước
ngoài thông qua trung gian.
Ưu điểm: nhà xuất khẩu sẽ phân chia bớt rủi ro cho nhà xuất khẩu trung gian. Do
vậy lợi nhuận thu về có tính an toàn và ổn định cao hơn.
Hạn chế: nhà sản xuất cũng phải chi bớt một phần lợi nhuận cho trung gian nên lợi
nhuận của họ sẽ giảm. Hơn nữa, nhà xuất khẩu sẽ bị chậm thông tin so với các biến động
của thị trường. Thông tin từ người tiêu dùng đến sẽ chậm và điều này có thể gây thiệt hại
rất lớn. Nhà sản xuất sẽ không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Hình thức gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hình thức bên gia công giao hoặc bán toàn bộ nguyên liệu
hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công. Sau một thời gian thỏa thuận, bê nhận gia
công nộp hoặc bán lại thành phẩm cho bên gia công. Bên đặt gia công phải trả cho bên
gia công một khoản gọi là chi phí gia công. Đây là một trong những hình thức rất phổ
biến ở Việt Nam.
Ưu điểm: các nhà gia công không phải lo đầu vào và đầu ra, tạo thêm việc làm, tận
dụng được số lao động dư thừa.


Hạn chế: nhà gia công do nhận theo đơn đặt hàng, vì vậy, sẽ không chủ động trong
quá trình sản xuất và sẽ không nắm bắt được thông tin về thị trường.
Hình thức tái xuất khẩu
Là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hóa trước đây đã nhập khẩu nhưng
không gia công chế biến. Hình thức này nhằm hưởng lợi nhuận chênh lệch từ giá mua đi
với giá bán lại.
Ưu điểm: vốn không cần lớn do không phải đầu tư vào sản xuất. Chính vì thế nhà

xuất khẩu có thể thay đổi sản phẩm linh hoạt theo nhu cầu thị trường.
Nhược điểm: chi phí vận chuyển của hình thức xuất khẩu này cũng khá lớn. rủi ro
của hình thức này cũng tương đối lớn qua việc mua đi bán lại.
Hình thức chuyển khẩu
Là hàng hóa được chuyển từ một quốc gia nọ sang quốc gia kia thông qua một
nước trung gian thứ ba.
Ưu điểm: rủi ro của hình thức này ít, vì nhà xuất khẩu chỉ cần chuyển hàng hóa
sang một nước thứ ba, nước thứ ba như một người trung gian. Vì thế nhà xuất khẩu sẽ
chia sẻ một phần rủi ro.
Nhược điểm: hình thức này tồn tại khá nhiều hạn chế, đó là lợi nhuận của các nhà
xuất khẩu thấp do phải thực hiện các khoản chi phí dịch vụ như vận tải, quá cảnh, lưu
kho, lưu bãi…
Xuất khẩu tại chỗ
Là hành vi bán hàng hóa cho người nước ngoài trên lãnh địa của nước mình.
Hình thức này ít gặp rủi ro hơn về pháp luật, chính trị, vận chuyển so với các hình
thức khác. Vì chúng ta bán hàng hóa ngay trên lãnh thổ của mình do đó môi trường kinh


doanh rất quen thuộc. Và hình thức này tiết kiệm được chi phí vận chuyển, đóng gói nên
lợi nhuận rất cao.
Tuy nhiên số lượng hàng bán được theo hình thức này lại không nhiều.
Như vậy mỗi hình thức xuất khẩu đều có những ưu và nhược điểm. Do vậy tùy
vào loại hàng hóa, khả năng của nhà xuất khẩu mà chọn loại hình thức xuất khẩu nào phù
hợp để mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó
không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong
một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hoá
sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng
hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao mức sống nhân

dân. Do vậy, xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại để đem lại những hiệu quả đột biến
cao hoặc có thể gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên
ngoài mà chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một
quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước
này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào
hoạt động kinh doanh này.
Đối với nước ta, nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn
thấp kém, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh xuất khẩu thu ngoại
tệ cải thiện đời sống và phát triển kinh tế là cực kỳ quan trọng. Đảng và Nhà nước ta chủ
trương phát triển quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại đặc biệt hướng mạnh vào xuất
khẩu hàng hoá là một chủ chương đúng đắn phù hợp với quy luật kinh tế khách quan.
Hơn bao giờ hết, xuất khẩu hàng hoá thực sự có vai trò quan trọng, cụ thể là:


Thứ nhất: Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng để đảm bảo
nhu cầu nhập khẩu.
Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về, mà là
với mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác nhằm thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu (xuất khẩu > nhập khẩu), tích
luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn nhu cầu nhập khẩu trong tương lai).
Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là tiền đề
của nhau xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu. Đặc biệt trong
điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để phát triển kinh tế, tránh được nguy cơ tụt hậu
với thế giới, đồng thời còn tìm cách đuổi kịp thời đại, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra công
cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong đó nhập khẩu máy móc, thiết bị,
công nghệ hiện đại là một điều kiện tiên quyết. Muốn nhập khẩu, chúng ta phải có ngoại
tệ, có các nguồn ngoại tệ sau:
- Xuất khẩu hàng hoá. dịch vụ.
- Viện trợ đi vay, đầu tư ....

- Liên doanh đầu tư nước ngoài với ta.
- Các dịch vụ thu ngoại tệ: ngân hàng, du lịch ...
Có thể thấy rằng, trong các nguồn trên thì xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ là nguồn
quan trọng nhất vì: nó chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời là khả năng bảo đảm trả được các
khoản đi vay, viện trợ ... trong tương lai. Như vậy cả về dài hạn và ngắn hạn, xuất khẩu
luôn là câu hỏi quan trọng cho nhập khẩu.
Thứ hai: Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế của đất nước.
Để xuất khẩu được, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải lựa chọn được
những ngành nghề, mặt hàng có tổng chi phí (chi phí sản xuất và chi phí xuất khẩu) nhỏ
hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ phải dựa vào những ngành hàng, những


mặt hàng khai thác được các lợi thế của đất nước cả về tương đối và tuyệt đối. Ví dụ như
trong các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của ta thì dầu mỏ, thuỷ sản, gạo, than đá là những
mặt hàng khai thác lợi thế tuyệt đối nhiều hơn (vì chỉ một số nước có điều kiện để sản
xuất các mặt hàng này). Còn hàng may mặc khai thác chủ yếu lợi thế so sánh về giá nhân
công rẻ. Tuy nhiên, phân biệt lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh chỉ mang ý nghĩa tương
đối.
Hoạt động xuất khẩu vừa thúc đẩy thai thác các lợi thế của đất nước vừa làm cho
việc khai thác đó có hiệu quả hơn vì khi xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có
ngoại tệ để nhập máy móc, thiết bị tiên tiến đưa năng suất lao động lên cao. Các lợi thế
cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi dào, cần cù, giá thuê rẻ, nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú và địa thế địa lý đẹp.
Thứ ba: Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất, định
hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa dạng và xuất khẩu
mũi nhọn.
Xuất khẩu đa dạng là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm thu
được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy mô, chất lượng
thấp (vì không được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả.

Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Tuân theo quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo
tức là tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình có điều kiện nhất, có
lợi thế so sánh hay chính là việc thực hiện chuyên môn hoá và phân công lao động quốc
tế. Khi đó, nước ta có khả năng chiếm lĩnh thị trường, trở thành "độc quyền" mặt hàng đó
và thu lợi nhuận siêu ngạch. Xuất khẩu mũi nhọn có tác dụng như đầu của một con tàu,
tuy nhỏ bé nhưng nó có động cơ, do đó nó có thể kéo cả đoàn tàu tiến lên. Hiện nay, đây
là hướng xuất khẩu chủ yếu của nước ta, có kết hợp với xuất khẩu đa dạng để tăng thu
ngoại tệ.


Và khi mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn đem lại hiệu quả cao thì các doanh nghiệp sẽ
tập trung đầu tư để phát triển ngành hàng đó, dẫn đến phát triển các ngành hàng có liên
quan. Ví dụ: Khi ngành may xuất khẩu phát triển làm cho ngành dệt cũng phát triển để
cung cấp nguyên vật liệu cho ngành may dẫn đến ngành trồng bông, đay cũng phát triển
để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành dệt.
Hơn nữa, xu hướng xuất khẩu là mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu các ngành sản xuất
trong nền kinh tế vì cơ cấu một nền kinh tế chính là số lượng các ngành sản xuất và tỷ
trọng của chúng so với tổng thể.
Rõ ràng, tỷ trọng ngành hàng mũi nhọn là tăng lên và tăng mạnh còn trong nội bộ
ngành đó thì những khâu, những loại sản phẩm ưa chuộng trên thị trường thế giới cũng sẽ
phát triển hơn. Tức là xuất khẩu hàng mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu ngành và cả cơ cấu
trong nội bộ một ngành theo hướng khai thác tối ưu lợi thế so sánh của đất nước.
Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ ở mức chất lượng
cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp đủ mạnh ở mỗi nước mới tham gia thị
trường thế giới. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải nâng cao chất
lượng sản phẩm, giảm chi phí để tồn tại và phát triển.
Toàn bộ các tác động trên làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng theo hướng
tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động xuất khẩu.
Thứ tư: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập và tăng
mức sống.

Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần thêm
lao động, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế lao động nhiều, giá
rẻ ở nước ta. Chính vì thế mà chúng ta chủ trương phát triển ngành nghề cần nhiều lao
động như ngành may mặc. Với một đất nước hơn 70 triệu dân, tỷ lệ thất nghiệp tương đối
cao thì đây là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện nước ta hiện nay.


Thứ năm: Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường thế giới
tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán,
là một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế của một nước: GDP, lạm pháp, thất
nghiệp và cán cân thanh toán. Cao hơn nữa là xuất siêu, tăng tích luỹ ngoại tệ, luôn đảm
bảo khả năng thanh toán với đối tác, tăng được tín nhiệm. Qua hoạt động xuất khẩu, hàng
hoá Việt Nam được bầy bán trên thị trường thế giới, khuyếch trương được tiếng vang và
sự hiểu biết.
Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn, làm tiền đề thúc
đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch vụ du lịch, ngân hàng, đầu tư, hợp tác,
liên doanh ....
Như vậy xuất khẩu có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần vào ổn định chính trị của một quốc gia. Vì vậy, các quốc gia cần phải thúc đẩy xuất
khẩu hàng hóa ra thị trường thế giới.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
a) Các yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu, hơn nữa
các yếu tố này rất rộng nên các doanh nghiệp có thể lựa chọn và phân tích các yếu tố thiết
thực nhất để đưa ra các biện pháp tác động cụ thể:
+ Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ của hàng xuất khẩu
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị
tiền tệ của nước kia. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng
để doanh nghiệp đưa ra quyết định liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế nói

chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.


Để nhận biết được sự tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt động của nền
kinh tế nói chung, hoạt động xuất khẩu nói riêng các nhà kinh tế thường phân biệt tỷ giá
hối đoái danh nghĩa (TGDN) và tỷ giá hối đoái thực tế (TGTT)
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (tỷ giá chính thức) là tỷ giá được nêu trên các phương
tiện thông tin đại chúng như: Báo chí, đài phát thanh, tivi…Do ngân hang Nhà nước công
bố hàng ngày.
Tuy nhiên tỷ hối đoái chính thức không phải là một yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước về các mặt hàng. Vấn đề đối với các
nhà xuất khẩu và những doanh nghiệp có hàng hoá cạnh tranh với các nhà nhập khẩu là
có được hay không một tỷ giá chính thức, được điều chỉnh theo lạm phát trong nước và
lạm phát xảy ra tại các nền kinh tế của các bạn hàng của họ.Một tý giá hối đoái chính
thức được điều chỉnh theo các quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái thực
tế.
Nếu tỷ giá hối đoái thực tế thấp hơn so với nước xuất khẩu và cao hơn so với nước
nhập khẩu thì lợi thế sẽ thuộc về nước xuất khẩu do giá nguyên vật liệu đầu vào thấp hơn,
chi phí nhân công rẻ hơn làm cho gia thành sản phẩm ở nước xuất khẩu rẻ hơn so với
nước nhập khẩu. Còn đối với nước nhập khẩu thì cầu về hàng nhập khẩu sẽ tăng lên do
phải mất chi phí lớn hơn để sản xuất hàng hoá ở trong nước. Điều này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các nước xuất khẩu tăng nhanh được các mặt hàng xuất khẩu của mình, do
đó có thể tăng được lượng dự trữ ngoại hối .
Tương tự, tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu cũng như: “Một chiếc gậy vô hình ” đã
làm thay đổi, chuyển hướng giữa các mặt hàng, các phương án kinh doanh của doanh
nghiệp xuất khẩu.
+ Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế
Thông qua mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế thì chính phủ có thể đưa ra
các chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu. Chẳng hạn chiến lược phát



triển kinh tế theo hướng CNH- HĐH đòi hỏi xuất khẩu để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu
nhập khẩu cac trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất, mục tiêu bảo hộ sản xuất trong
nước đưa ra các chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu
dùng…
Thuế quan, hạn nghạch và trợ cấp xuất khẩu
*Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất
khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo
chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ kinh tế đối
ngoại. Tuy nhiên, thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước
tăng lên không có hiệu quả và mức tiêu dùng trong nước lại giảm xuống. Nhìn chung
công cụ này thường chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng nhằm hạn chế số lượng xuất
khẩu và bổ sung cho nguồn thu ngân sách.
*Hạn ngạch
Được coi là một công cụ chủ yếu cho hàng rào phi thuế quan, nó được hiểu như
qui định của Nhà nước về số lượng tối đa của một mặt hàng hay của một nhóm hàng
được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định thông qua việc cấp giấy phép. Sở dĩ
có công cụ này vì không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi
về quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng hay nhóm hàng như sản phẩm đặc
biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu…
*Trợ cấp xuất khẩu
Trong một số trường hợp chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu để
tăng mức độ xuất khẩu hàng hoá của nước mình, tạo điều kiện cho sản phẩm có sức cạnh
tranh về giá trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng giá nội địa của hàng
xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng sản lượng và mức xuất khẩu.


b) Các yếu tố xã hội
Hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định.

Chính vì vậy, các yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu
tố xã hội là tương đối rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này có thể
nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hoá, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng.
Nên văn hoá tạo nên cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định các thức tiêu
dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu mong muốn được thoả mãn và cách thoả mãn của con
người sống trong đó. Chính vì vậy văn hoá là yếu tố chi phối lối sống nên các nhà xuất
khẩu luôn luôn phải qua tâm tìm hiểu yếu tố văn hoá ở các thị trường mà mình tiên hành
hoạt động xuất khẩu.
+ Các yếu tố chính trị pháp luật
yếu tố chính trị là nhân tố khuyến khích hoạc hạn chế quá trình quốc tế hoá hoạt
động kinh doanh. Chính sách của chính phủ có thể làm tăng sự liên kết các thị trường và
thúc đây tốc độ tăng trưởng hoạt động xuất khẩu bằng việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan,
phi thuế quan, thiết lập các mối quan hệ trong cơ sở hạ tầng của thị trường. Khi không ổn
định về chính trị sẽ cản trở sự phát triển kinh tế của Đất nước và tạo ra tâm lý không tốt
cho các nhà kinh doanh.
Các yếu tố chính trị pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Cac
công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các qui định mà chính phủ tham gia vào
các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới cũng như các thông lệ quốc tế:
Các qui định của luật pháp đối với hoạt động xuất khẩu(thuế, thủ tục qui định về
mặt hàng xuất khẩu,qui định quản lý về ngoại tệ..)
Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà quốc gia có doanh nghiệp xuất khẩu tham
gia. Các qui địmh nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn.


Các vấn đề về pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan đến việc xuất khẩu(công
ước viên 1980, Incoterm 2000…)
Qui định về giao dịch hợp đồng, về bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ
Qui định về lao động, tiền lương, thời gian lao động, nghỉ ngơi, đình công, bãi
công
Qui định về cạnh tranh độc quyền, về các loại thuế.

Qui định về vấn đề bảo về môi trường, tiêu chuẩn chất lượng, giao hàng, thực hiện
hợp đồng.
Qui định về quảng cáo hướng dẫn sử dụng.
Ngoài những vấn đề nói trên chính phủ còn thực hiện các chính sách ngoại thương
khác như :Hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan....
Chính sách ngoại thương của chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay đổi. Sự thay
đổi đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy họ
phải nắm bắt được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước để biết được xu hướng vận
động của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước.
+ Các yếu tố về tự nhiên và công nghệ
Khoảng cách địa lý giữa các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải, tới thới gian
thực hiện hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng do vậy, nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn
nguồn hàng, lựa chọn thị trường, mặt hàng xuất khẩu…
Vị trí của các nước cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng, thị trường tiêu
thụ ví dụ: Việc mua bán hàng hoá với các nước có cảng biển có chi phí thấp hơn so với
các nước không có cảng biển.
Thời gian thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể bị kéo dài do bị thiên tai như bão,
động đất…Sự phát triển của khoa hóc công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin cho


phép các nhà kinh doanh nắm bắt một cách chính xác và nhanh chóng thông tin, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc theo dõi, điều khiển hàng hoá xuất khẩu, tiết kiệm chi phí, nâng
cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Đồng thời yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình
sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu, các lĩnh vực khác có liên quan như vận tải,
ngân hàng…
+ Ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cấu hoá thì sự phụ thuộc giữa các nước ngày càng
tăng. Chính vì thế mỗi biến động của tình hình kinh tế xã hội trên thế giới đều ít nhiều
trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước. Lĩnh vực xuất khẩu hơn
bất cứ một hoạt động nào khác bị chi phối mạnh mẽ nhất, ở đây cũng do một phần tác

động của các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Khi xuất khẩu hàng hoá từ nước này sang
nước khác, người xuất khẩu phải đỗi mặt với các hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Mức
độ lỏng lẻo hay chặt chẽ của các hàng rào này phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế
song phương giữa hai nước nhập khẩu và xuất khẩu.
Ngày nay, đã và đang hình thành rất nhiều liên minh kinh tế ở các mức độ khác
nhau, nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương được ký kết với mục tiêu đẩy
mạnh hoạt động thương mại quốc tế. Nếu quốc gia nào tham gia vào các liên minh kinh
tế này hoặc ký kết các hiệp định thương mại thì sẽ có nhiều thuận lợi trong hoạt động
xuất khẩu của mình. Ngược lại, đó chính là rào cản trong việc thâm nhập vào thị trường
khu vực đó.
+ Nhu cầu của thị trường nước ngoài
Do khả năng sản xuất của nước nhập khẩu không đủ để đáp ứng được nhu cầu tiêu
dung trong nước, hoặc do các mặt hàng trong nước sản xuất không đa dạng nên không
thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng, nên cũng là một trong những nhân tố để
thúc đẩy xuất khẩu của các nước có khả năng đáp ứng được nhu cầu trong nước và cả nhu
cầu của nước ngoài.


CHƯƠNG 2: CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
NĂM 2018
2.1. Khái quát về tình hình xuất khẩu của Việt Nam năm 2018
Biều đồ 2.1. Giá trị xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Việt Nam giai đoạn
2014-2018

Hoạt động xuất nhập khẩu năm 2018 của Việt Nam tiếp tục đạt được những kết
quả ấn tượng, đóng góp tích cực vào bức tranh tăng trưởng chung của nền kinh tế cả
nước, qua đó góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định
tỷ giá, kiểm soát lạm phát và cải thiện cán cân thanh toán.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 2018 ước đạt 244,7 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm
2017, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu do Quốc hội và Chính phủ đặt ra.

Xuất khẩu năm 2018 đạt mức tăng trưởng cao so với năm 2017, vượt xa chỉ tiêu
kế hoạch được Quốc hội và Chính phủ giao. Tăng trưởng xuất khẩu có đóng góp lớn vào
tăng trưởng GDP, tạo công ăn việc làm, tiêu thụ hàng hóa cho nông dân. Xuất siêu giúp
nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và ổn định kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh tình
hình quốc tế và khu vực diễn biến hết sức phức tạp và khó đoán định, đặc biệt là những


diễn biến từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, xu thế bảo hộ mậu dịch gia tăng...,
thì mức tăng trưởng xuất khẩu của năm 2018 là rất tích cực (đặc biêt là so với kết quả
thực hiện của năm 2017 ở mức rất cao, xuất khẩu đã ở mức trên 215 tỷ USD).
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm
lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, phù hợp
với lộ trình thực hiện Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020,
định hướng đến năm 2030, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào
chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Số mặt hàng đạt kim
ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên đã tăng qua các năm, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2011 có 21 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu
trên 1 tỷ USD, chiếm 81% tổng kim ngạch xuất khẩu; năm 2015 tăng lên thành 23 mặt
hàng với tỷ trọng chiếm khoảng 87%. Đến năm 2016 đã tăng lên 25 mặt hàng với tỷ
trọng chiếm 88,7%% và đến năm 2018 là 29 mặt hàng (trong đó có 8 mặt hàng xuất khẩu
trên 5 tỷ USD và 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD), chiếm 91,67% tổng kim ngạch
xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu được mở rộng, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn
tới hầu hết các thị trường trên thế giới, nhiều sản phẩm đã dần có chỗ đứng vững chắc và
nâng cao được khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng
như EU, Nhật Bản, Mỹ, Úc... Đánh giá chung cho thấy tất cả các thị trường có FTA của
Việt Nam đều ghi nhận tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao so với thời điểm trước khi có
FTA.
Thị trường xuất khẩu, nhập khẩu được mở rộng, không chỉ tăng cường ở các thị

trường truyền thống mà còn khai thác được các thị trường mới, tiềm năng. Kim ngạch
xuất khẩu sang các khu vực thị trường đều đạt mức tăng trưởng dương, đặc biệt tăng cao
ở những thị trường có FTA với Việt Nam như ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Úc - New Zealand. Đặc biệt là Việt Nam đã xuất siêu chủ yếu vào thị trường các nước


phát triển, có yêu cầu khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu như Hoa Kỳ (năm 2017 xuất
siêu 32,24 tỷ USD thì tới năm 2018 đã xuất siêu 34,7 tỷ USD); EU (năm 2017 xuất siêu
26,14 tỷ USD đã tăng lên 28,7 tỷ USD vào năm 2018).
Đáng chú ý, xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước tiếp tục tăng trưởng tốt:
Nếu như những năm trước đây, xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI luôn đạt mức tăng
trưởng cao hơn so với khối doanh nghiệp trong nước thì thời gian gần đây, tốc độ tăng
trưởng của khối trong nước đã cao hơn khối FDI. Năm 2018, khối doanh nghiệp trong
nước xuất khẩu khoảng 69,2 tỷ USD, tăng 15,9%, cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu
chung và cao hơn mức tăng trưởng của khối doanh nghiệp FDI (kể cả dầu thô) là 12,9%.
Cán cân thương mại năm 2018 đã duy trì xuất siêu với mức thặng dư kỷ lục. Với
việc thúc đẩy xuất khẩu gắn với tái cấu túc sản xuất trong nước và kiểm soát tốt khâu
nhập khẩu như nêu trên, cán cân thương mại năm 2018 đã duy trì xuất siêu với mức thặng
dư kỷ lục. Con số xuất siêu của Việt Nam trong năm nay đã gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ
năm ngoái. Qua đó đã góp phần làm tích cực cán cân thanh toán và ổn định các chỉ số
kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế.
Bên cạnh kết quả đạt được, năm 2018 cũng còn một số hạn chế trong công tác xuất
nhập khẩu. Các mặt hàng nông, thủy sản xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận
những thị trường có yêu cầu cao về chất lượng và an toàn thực phẩm. Phần lớn các mặt
hàng xuất khẩu đều chưa xây dựng được thương hiệu riêng và vững chắc.
2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu năm 2018
Biều đồ 2.2. 10 nhóm hàng xuất khẩu đạt mức tăng trưởng cao nhất 11 tháng
năm 2018



Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 10 nhóm hàng xuất khẩu đạt mức tăng trưởng
cao nhất năm 2018 bao gồm điện thoại, hàng dệt may, máy móc thiết bị, máy vi tính, máy
ảnh, giày dép, sắt thép, gỗ, phương tiện vận tải và sản phẩm từ sắt thép.
 Điện thoại các loại và linh kiện điện tư
Là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và có tốc độ tăng trưởng cao nhất
trong tất cả các mặt hàng. Theo đó, giá trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 46,2 tỷ USD,
tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nhóm hàng này sang các thị trường như Liên minh
châu Âu (EU 28 nước), Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Ả Rập...
 Hàng dệt may


Đứng thứ hai là hàng dệt may với kim ngạch xuất khẩu đạt 27,7 tỷ USD trong 11
tháng, tăng 17,1%, tương ứng tăng 4,05 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Hàng dệt may
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc.
 Máy móc thiết bị
Dù không phải là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ ba tuy nhiên máy móc thiết bị
lại là ngành hàng có tốc độ tăng trưởng cao thứ ba trong tất cả các nhóm hàng. Xuất khẩu
mặt hàng này đạt 15,13 tỷ USD, tăng 28,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chủ yếu
xuất khẩu sang Mỹ, EU, Nhật Bản, Ấn Độ.
 Máy vi tính và sản phẩm điện tư
Ngành hàng đạt mức tăng trưởng cao thứ tư là máy vi tính và sản phẩm điện tử.
Theo đó, xuất khẩu nhóm hàng này đạt 26,9 tỷ USD trong 11 tháng qua, tăng 13,6%
(tương đương tăng 3,23 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2017.
Các thị trường chính nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện từ Việt
Nam là Trung Quốc, Mỹ, EU và Hàn Quốc.
 Máy ảnh, máy quay
Đứng thứ năm về tốc độ tăng trưởng là máy ảnh, máy quay. Trị giá xuất khẩu
nhóm hàng này trong 11 tháng đạt 4,78 tỷ USD, tăng 44,4% so với cùng thời gian năm

trước, trong đó chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc, Hồng Kông và Hàn Quốc.
 Giày dép
Mặt hàng tăng trưởng cao thứ sáu là giày dép với kim ngạch đạt 14,65 tỷ USD,
tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu nhóm hàng này chủ yếu sang các thị
trường như Mỹ, EU, Trung Quốc và Nhật Bản.
 Sắt thép


Sắt thép cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực và đạt tốc độ tăng trưởng cao thứ bảy
của Việt Nam. Xuất khẩu mặt hàng này đạt 5,78 triệu tấn, trị giá 4,21 tỷ USD, tăng 36,4%
về lượng và tăng 49,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017.
Tính đến hết tháng 11/2018 sắt thép các loại chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường
Campuchia, Mỹ, Indonosia, Malaysia và EU.
 Gỗ và phương tiện vận tải
Gỗ và phương tiện vận tải là hai ngành hàng có tốc độ tăng trưởng cao thứ tám và
thứ chín của Việt Nam. Trị giá xuất khẩu ngành hàng này đạt trị giá lần lượt 8,05 tỷ USD,
tăng 16% và 7,3 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Việt Nam xuất khẩu hai ngành hàng này chủ yếu sang các nước Mỹ, Trung Quốc,
Nhật Bản, Thái Lan...
 Sản phẩm từ sắt thép
Ngành hàng có mức tăng trưởng cao thứ 10 là sản phẩm từ sắt thép, với trị giá
xuất khẩu đạt 2,74 tỷ USD, tăng 660 triệu USD so với cùng kỳ năm ngoái.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT
NAM NĂM 2018
3.1. Tình hình kinh tế - xã hội và xuất khẩu năm 2018
Biểu đồ 3.1 Tỉ lệ GDP của Việt Nam giai đoạn 2008-2018


Nguồn: Tổng cục Thống kê
Năm 2018 là năm thành công toàn diện của kinh tế Việt Nam, khi cả 12/12 chỉ tiêu

phát triển kinh tế - xã hội đều đạt và vượt mục tiêu đề ra; bên cạnh đó là nhiều con số
tăng trưởng kỷ lục đáng chú ý.
Tăng trưởng GDP trong năm 2018 đạt mức kỷ lục 7,08%. Đây là mức tăng trưởng
cao nhất trong vòng 10 năm qua. Kể từ năm 2008, sau khi Việt Nam chịu tác động của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tăng trưởng GDP của Việt Nam mới lại chạm ngưỡng 7%,
cho thấy nền kinh tế đã từng bước hồi phục vững chắc hơn.
Đặc biệt, con số 7,08% của tăng trưởng GDP cao hơn mục tiêu 6,7% Quốc hội đã
đề ra và cũng cao hơn mọi dự báo. Trước đó, nhiều dự báo của các tổ chức quốc tế uy tín
trong năm 2018 đã tin tưởng vào thành công của chúng ta và có những dự báo tích cực
đối với Việt Nam. Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng GDP cả năm nay là
6,8%; Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tiếp tục dự báo khoảng 6,9%...
Tuy nhiên trong bối cảnh trong nước và thế giới nhiều biến động, thử thách, các
chuyên gia, tổ chức quốc tế đã có những lo lắng cho việc đảm bảo mức tăng trưởng dự
báo của Việt Nam.


Điều đáng ghi nhận là, dù tăng trưởng GDP ở mức cao, song nền kinh tế vẫn bảo
đảm ổn định vĩ mô, chỉ số giá tiêu dùng đảm bảo mục tiêu kiểm soát dưới 4%, nợ công
giảm so với năm 2017... Điều đó cho thấy Chính phủ không chỉ tập trung cho con số tăng
trưởng mà còn chú trọng vào chất lượng tăng trưởng, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Đáng chú ý nữa là, kim ngạch xuất nhập khẩu thiết lập kỷ lục mới, với tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của cả năm đạt trên 482,23 tỷ USD. Đặc biệt, lần đầu tiên, Việt
Nam đạt mức xuất siêu trên 7 tỷ USD. Đây là con số mà trước nay Việt Nam chưa bao
giờ đạt được.
Như vậy, Việt Nam đã có 3 năm liên tục xuất siêu với con số năm sau luôn cao
hơn năm trước, là kết quả ấn tượng so với mục tiêu cân bằng cán cân thương mại đặt ra
cho năm 2020. Xuất siêu lớn không chỉ góp phần quan trọng gia tăng dự trữ ngoại hối
của Việt Nam, mà còn góp phần ổn định tỷ giá hối đoái.
Ngoài những con số tăng trưởng kỷ lục, nhiều chuyên gia, tổ chức quốc tế còn ấn
tượng hơn với Việt Nam trong năm 2018 về sự tăng trưởng toàn diện trong tất cả các lĩnh

vực; với động lực là ngành sản xuất chế tạo tiếp tục mở rộng, sản xuất nông nghiệp tăng
cao, ngành dịch vụ ổn định, tiêu dùng trong nước được duy trì tốt, đầu tư dồi dào của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước.
3.2. Phân tích về tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2018
Biểu đồ 3.2 Sản lượng xuất khẩu gạo giai đoạn 2010-2018


Nguồn: Tổng cục Hải quan
Lượng gạo xuất khẩu hàng năm của nước ta chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo
xuất khẩu toàn thế giới. Hiện nay, gạo Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 150 quốc gia và
vùng lãnh thổ, bên cạnh thị trường truyền thống đã từng bước mở rộng thị trường xuất
khẩu vào các nước châu Mỹ, Trung Đông…Sản phẩm gạo trắng cao cấp và gạo thơm đã
bước đầu thâm nhập vào thị trường khó tính, giúp sản phẩm gạo Việt Nam từng bước
hiện diện trên khắp thế giới.
Năm 2018 là dấu mốc đáng kể với ngành sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam, với
kim ngạch gia tăng đến 20%, tăng cả giá trị và sản lượng. Xuất khẩu gạo của Việt Nam
đã duy trì xu hướng tích cực ngay từ đầu năm nhờ tín hiệu nhập khẩu trở lại từ nhiều thị
trường, theo cả hợp đồng tập trung và hợp đồng thương mại.
Hạt gạo Việt Nam cũng đã bước đầu thâm nhập được các thị trường yêu cầu chất
lượng cao như Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông (Trung Quốc), Mỹ, EU và liên tiếp duy
trì vị trí nước xuất khẩu lớn thứ 3 thế giới, sau Ấn Độ và Thái Lan. Giá gạo xuất khẩu
duy trì ở mức cao góp phần tiêu thụ lúa gạo hàng hóa với mức giá cao, có lợi cho người
nông dân; tăng trưởng xuất khẩu các loại gạo chất lượng cao và giảm dần tỷ trọng các
loại gạo chất lượng trung bình và thấp.


Cùng với đó, chính sách mới quản lý điều hành xuất khẩu gạo qua việc Chính phủ
ký ban hành Nghị định số 107 ngày 15/8/2018 về kinh doanh xuất khẩu gạo giúp cho việc
xuất khẩu gạo dần dần được hình thành một cách hệ thống. Thể chế chính sách xuất khẩu
gạo đã từng bước theo hướng tự do hóa, dần phù hợp với quy định của quốc tế, loại bỏ

các rào cản gây bất lợi cho thương nhân trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo.
Biểu đồ 3.3 Cơ cấu các loại gạo xuất khẩu năm 2018 (%)

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Về loại gạo xuất khẩu, trong 10 tháng đầu năm 2018, giá trị xuất khẩu gạo trắng
chiếm 51% tổng kim ngạch; gạo Jasmine và gạo thơm chiếm 32%; gạo nếp chiếm 12%
và gạo Japonica, gạo giống Nhật chiếm 5%. Thị trường xuất khẩu gạo Jasmine và gạo
thơm lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc (25%), Ghana (23%) và Bờ Biển Ngà (14%).
Với gạo nếp, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất, chiếm tới 82% tổng kim
ngạch xuất khẩu gạo nếp của Việt Nam, trị giá 272 triệu USD. Về gạo Japonica và gạo
giống Nhật, hai thị trường xuất khẩu chủ yếu là Papua New Guinea (57%) và Trung Quốc
(13%).



×