LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tác giả xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm
giúp đỡ trong quá trình thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo nhà Trường,
lãnh đạo Khoa Cơ bản đã tạo điều kiện cho tác giả về mặt thời gian cũng như sự động
viên giúp đỡ để tác giả có thể hoàn thành đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, ngày 19 tháng 6 năm 2017
Tác giả
Lương Xuân Thành
1
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức, giai cấp
công nhân ở các nước, nhất là các nước đang phát triển, là một trong những lực lượng
xã hội quan trọng nhất, đang tham gia tích cực vào các chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia.
Giai cấp công nhân là một lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa chung của đất nước. Giai cấp công nhân chính là nền tảng và là cơ sở
chính trị - xã hội vững chắc của Đảng. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh trong
điều kiện hiện nay về thực chất là góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng Đảng,
phát triển kinh tế tạo cơ sở cho giữ vững chế độ, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhằm đáp ứng nhu cầu học tập, giảng dạy học phần những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Giai cấp công nhân là 1 nội dung quan trong thuộc chương
VII: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa trong học
phần những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin tuy nhiên giới hạn của giáo
trình chỉ nêu qua nội dung cơ bản, để hiểu sâu hơn nội dung, đầy đủ hơn còn phải đọc
và hệ thống nhiều tài liệu khác nhau.
Tác giả nhận thấy việc nghiên cứu về sự thay đổi nhận thức về giai cấp công
nhân qua các kỳ đại hội Đảng là cần thiết, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và có ý nghĩa
lý luận trang bị nhận thức chính trị đúng đắn cho sinh viên trong nhà trường.
Vì những lý do nêu trên, tác giả chọn “Tìm hiểu sự thay đổi nhận thức về giai
cấp công nhân qua các kỳ đại hội Đảng” làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa
của mình.
Nội dung của đề tài gồm 2 chương:
2
Chương 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
giai cấp công nhân.
Chương 2. Sự thay đổi nhận thức về giai cấp công nhân qua các thời kỳ đại hội
Đảng
Hi vọng, đề tài là tài liệu bổ ích cho giáo viên và sinh viên trong quá trình dạy và
chương VII môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin II, môn chính trị
dành cho trung cấp và cao đẳng tại trường CĐ CNTT hữu nghị Việt Hàn.
MỤC LỤC
3
4
MỞ ĐẦU
1. Tên đề tài: “TÌM HIỂU SỰ THAY ĐỔI NHẬN THỨC VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI ĐẢNG”
2. Mã số đề tài:
3. Chủ nhiệm đề tài: Th.S Lương Xuân Thành
4. Đơn vị chủ trì: Khoa Cơ bản
5. Danh sách cán bộ tham gia:
T
TT
Mã số án
bộ (nếu
có)
Tên cán bộ
tham gia(ghi rõ
chức danh, học
vị)
Đơn vị công tác (ghi rõ
Thực hiện số
Bộ môn, Khoa/Trung tâm, chương, điều,
đơn vị ngoài trường)
mục của báo cáo
6. Thời gian thực hiện được phê duyệt: 06 tháng (từ 3/2017-6/2017)
7. Thời gian kết thúc thực tế: 19/06/2017
8. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu:
Mục tiêu:
- Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công
nhân.
- Tìm hiểu sự thay đổi nhận thức về giai cấp công nhân qua các kỳ đại hội Đảng.
- Kết quả của đề tài là tài liệu bổ ích cho giáo viên và sinh viên trong quá trình dạy và
chương VII môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin II, môn chính trị dành cho
trung cấp và cao đẳng tại trường CĐ CNTT hữu nghị Việt Hàn.
Nội dung nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài phải làm rõ quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân, sự thay đổi nhận thức về giai
cấp công nhân qua các kỳ đại hội Đảng.
9. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu:
5
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan tới sự thay đổi nhận thức về giai cấp
công nhân qua các kỳ đại hội Đảng
- Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nội dung sự thay đổi nhận thức về giai cấp
công nhân qua các kỳ đại hội Đảng
Về không gian: Đề tài nghiên cứu nội dung trên ở Việt Nam
Về thời gian: năm 2017.
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN.
1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GIAI CẤP CÔNG
NHÂN.
1.1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó
a. Khái niệm giai cấp công nhân
Trong nhiều tác phẩm của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật
ngữ như: giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công
nhân công nghiệp, giai cấp công nhân hiện đại... Dù khái niệm giai cấp công nhân có
nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen giai cấp
công nhân vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản. Đó là:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất (nghề nghiệp),đó là
những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao. Đây là tiêu chí cơ bản để phân
biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời Trung cổ thay người thợ
trong công trường thủ công. C.Mác viết: Trong công trường thủ công và trong nghề thủ
công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người
công nhân phải phục tùng máy móc Công nhân cũng là phát minh của thời đại mới.
Giống như máy móc vậy ... công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp
hiện đại
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là
những người lao động không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, làm thuê cho
giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của giai cấp
công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đều gọi
giai cấp công nhân dưới chủ nghĩa tư bản là giai cấp vô sản. Ngày nay, với sự phát
6
triển không ngừng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, bộ mặt của chủ nghĩa
tư bản đã có những thay đổi to lớn và đi cùng với nó là sự thay đổi nhất định của giai
cấp công nhân so với trước kia. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có
những thay đổi to lớn: bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện
công nhân của nền công nghiệp tự động hoá. Giai cấp công nhân hiện nay không chỉ
bao gồm những người lao động trong công nghiệp, trực tiếp tạo ra các giá trị vật chất
cho xã hội mà còn bao gồm những người lao động trong các bộ phận dịch vụ công
nghiệp, gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Song, dù cho trình độ kỹ
thuật có thay đổi như thế nào đi nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế - xã hội, giai cấp công
nhân vẫn tồn tại như một giai cấp đặc thù với cả hai tiêu chí cơ bản nêu trên. Căn cứ
vào hai thuộc tính nói ở trên chúng ta có thể đưa ra định nghĩa như sau về giai cấp công
nhân:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên
tiến trong các quy trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham
gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội;
đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện
nay.
b. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Trong mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng lên một hình thái kinh tế - xã hội cao
hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của lịch sử, đóng vai trò là động lực
chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo quá trình cách mạng đó. Giai cấp công nhân là sản
phẩm của nền đại công nghiệp, lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất tiên
tiến, đại biểu cho xu hướng phát triển của xã hội tương lai, do vậy về mặt khách quan
nó có nhiệm vụ xoá bỏ xã hội cũ, tổ chức, lãnh đạo, xây dựng xã hội mới phù hợp với
quy luật phát triển của lịch sử. Nhiệm vụ này do chính địa vị kinh tế - xã hội của giai
cấp đó quyết định.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: Xoá bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa và tiền tư bản chủ nghĩa; từng bước xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa; xoá bỏ áp bức bóc lột; giải phóng mình đồng thời giải
phóng toàn nhân loại.
Đó là nội dung cơ bản bao trùm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Lịch sử
phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai
cấp là động lực cơ bản phát triển của lịch sử. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình,
giai cấp công nhân phải tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh mình, tiến
hành cuộc đấu tranh cách mạng nhằm xoá bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi
mặt. Con đường để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình đó chính là
phải tiến hành cuộc cách mạng không ngừng và triệt để qua hai giai đoạn: Một là, lật
7
đổ giai cấp tư sản giành lấy chính quyền, thiết lập nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp công nhân. Hai là, sử dụng chính quyền mới làm công cụ cải tạo xã hội cũ, tập
hợp quần chúng nhân dân lao động xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa để tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
1.2. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ
các điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
a. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa
Xét một cách tổng quát chúng ta có thể khẳng định rằng, địa vị kinh tế - xã hội
của giai cấp công nhân quy định một cách khách quan vai trò sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Bởi vì:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong
các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Trong nền sản xuất
hiện đại, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp, vừa là sản phẩm căn bản nhất của
nền sản xuất đó. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với đại công
nghiệp, còn giai cấp công nhân lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp. Giai
cấp công nhân hiện đại có xu hướng ngày càng được tri thức hóa. Điều này có được là
do yêu cầu khách quan của sự phát triển công nghiệp trong thời đại mà khoa học và
công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ hai, do không có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ bị lệ
thuộc hoàn toàn trong quá trình phân phối các kết quả lao động của chính mình. Do
vậy, về mặt lợi ích giai cấp công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư
sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức,
bóc lột tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, giai
cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư
bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích mà lại
được cả thế giới.
Thứ ba, giai cấp công nhân có lợi ích căn bản thống nhất với lợi ích của toàn thể
nhân dân lao động nên họ có thể tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo đông đảo quần chúng đi
theo làm cách mạng, đồng thời họ cũng là người đi đầu trong cuộc đấu tranh của toàn
thể nhân dân lao động và của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
b. Đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
Địa vị kinh tế - xã hội khách quan còn tạo ra những đặc điểm chính trị - xã hội
của giai cấp công nhân. Chính những đặc điểm này đã tạo ra khả năng để giai cấp công
8
nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Những đặc điểm chính trị - xã hội
của giai cấp công nhân gồm:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, chế độ xã hội
tiên tiến nhất, do đó, họ đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân luôn phát triển và lớn mạnh không chỉ
về số lượng mà còn về chất lượng cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ
hiện đại. Chính điều kiện làm việc ở thành thị và các khu công nghiệp giúp cho giai
cấp công nhân mở rộng các quan hệ xã hội, mở mang trí tuệ. Cuộc đấu tranh chống áp
bức bóc lột vì dân sinh dân chủ, cải thiện điều kiện làm việc đã tôi luyện cho giai cấp
công nhân có những phẩm chất cần thiết cho cuộc đấu tranh. Lợi ích căn bản của giai
cấp công nhân thống nhất với lợi ích căn bản của nhân dân lao động nên họ có đủ khả
năng và điều kiện tập hợp quần chúng nhân dân làm cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tính cách mạng triệt để. Trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Trong tất cả các giai cấp
hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách
mạng, tất cả các giai cấp khác đều là những tầng lớp trung đẳng ... Đó là do giai cấp
công nhân không gắn với tư hữu, do vậy, họ kiên định trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới
Thứ ba, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Môi trường làm việc
của giai cấp công nhân là sản xuất tập trung cao và có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện
đại, có cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ, làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp
công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc đấu
tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản - là một giai cấp có tiềm lực về kinh tế - kỹ
thuật nên giai cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất kỷ luật của mình.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp công nhân ở tất cả các
nước đều có chung một mục đích là giải phóng mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi
áp bức bóc lột và họ đều có chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột. Và cũng do yêu
cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, để chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà
chúng đã liên kết với nhau thành tập đoàn tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai
cấp công nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của giai cấp mình. Dựa vào đặc
điểm này, C.Mác - Ph.Ăngghen nhấn mạnh: trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô
sản Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại. V.I. Lênin sau này cũng khẳng định: Vô sản tất
cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại.
1.3. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất hiện một cách khách quan, song, để
biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ
9
quan. Trong những nhân tố chủ quan ấy, việc thành lập ra Đảng Cộng sản trung thành
với sự nghiệp, lợi ích của giai cấp công nhân là yếu tố quyết định nhất đảm bảo cho
giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
a. Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công
nhân.
Tính tất yếu của việc hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân. Trong
thực tế lịch sử, phong trào công nhân chống giai cấp từ sản đã xuất hiện ngay từ khi
chủ nghĩa tư bản ra đời. Mặc dù quy mô ngày càng mở rộng nhưng đều bị thất bại. Khi
chưa có đảng lãnh đạo, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chỉ mang tính tự
phát, rời rạc, chưa có tổ chức và hệ thống, chưa có lý luận dẫn đường. Khi Đảng Cộng
sản ra đời và trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng và với tư cách là đội tiên phong
chính trị của giai cấp công nhân và toàn xã hội, Đảng Cộng sản có nhiệm vụ đề ra
cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng, đường lối, chiến lược, sách lược, các chính sách
đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, với quy luật vận động khách
quan của thế giới; với quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động. Chỉ có Đảng Cộng
sản lãnh đạo giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát lên tự giác, sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản trở thành điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình. Để giữ được vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải luôn luôn hướng
mọi hoạt động vì lợi ích chung của dân tộc, luôn tổ chức, giáo dục toàn đảng, toàn dân
thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình. Đảng phải chăm lo xây dựng về tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo,
vững mạnh về chính trị, gắn bó với nhân dân.
Quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân Bằng thực tiễn
cách mạng ở nước Nga cùng với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế V.I. Lênin
đã khái quát và nêu lên một vấn đề có tính quy luật về sự ra đời của Đảng Cộng sản, đó
là: Chủ nghĩa Mác kết hợp với phong trào công nhân dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng
sản. Đây là vấn đề có tính phổ biến đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản ở nhiều nước
trên thế giới, nhất là châu Âu. Vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin vào tình hình cụ thể của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra Đảng
Cộng sản Việt Nam (03/02/1930), đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là một sáng
tạo, một đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sự kết hợp một cách nhuần
nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở
Việt Nam.
b. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là cơ sở giai cấp của Đảng Cộng sản, là nguồn bổ sung lực
lượng cho Đảng, nói cách khác Đảng trước hết bao gồm những người ưu tú nhất trong
giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu, là lãnh tụ chính trị, là
10
bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Vai trò của đảng đối với giai cấp công
nhân thể hiện ở chỗ: Một là, không có một tổ chức chính trị nào hoạt động được mà lại
không thông qua chính đảng của giai cấp mình. Giai cấp công nhân cũng vậy, họ hoạt
động, làm cách mạng thông qua đội tiên phong của mình, đó là Đảng Cộng sản, đảng
của giai cấp công nhân. Hai là, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp
công nhân cần phải có một chính đảng chính trị vững vàng kiên định, sáng suốt, có
đường lối chiến lược sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của giai cấp hay toàn thể
phong trào. Ba là, với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính
là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất nhưng Đảng có trình độ lý
luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp và dân tộc, vì thế không thể lẫn lộn Đảng
với giai cấp.
2. QUAN ĐIỂM CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIAI CẤP CÔNG
NHÂN.
2.1. Giai cấp công nhân
Những kết luận của Hồ Chí Minh về vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam là
kết quả của một quá trình quan sát, tìm tòi nghiên cứu ở nhiều nước từ năm 1911, khi
Người ra đi tìm đường cứu nước. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp năm 1920 đã nói lên quyết tâm của Người đi theo con đường cách
mạng vô sản để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc. Đối với giai cấp công nhân Việt
Nam, khi được tin 600 thợ nhuộm Chợ Lớn đấu tranh (12-1922) đòi chủ xưởng bảo
đảm quyền lợi cho người lao động, Người đã viết: Khắp nơi giai cấp công nhân cũng
bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình…Đây là lần đầu tiên một phong trào
như thế nhóm lên ở thuộc địa. Chúng ta hãy ghi lấy dấu hiệu đó của thời đại.
Ở nước ta sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp bằng chính sách khai thác thuộc địa
đã làm xuất hiện một lực lượng xã hội mới: giai cấp công nhân. Nhưng đó là một giai
cấp mới quá nhỏ bé, đến năm 1930 số lượng công nhân nước ta mới chỉ có 22 vạn
người, chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân cư. Đây cũng là một trong nhiều lý do làm cho
nhiều nhà yêu nước đương thời không nhận thấy vai trò lịch sử của giai cấp công nhân
đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Vậy ai là giai cấp công nhân?. Hồ Chí Minh cho rằng, tất cả những người không
có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ họ lao động
trong công nghệ hay trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai
cấp công nhân. Trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của công nhân lao động
trong lĩnh vực công nghiệp, đây là lực lượng chủ lực, tiêu biểu cho giai cấp công nhân,
chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm mỏ,
xe lửa, vân vân... Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa
hàng, những cố nông, vân vân,... cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công
nhân công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân .
2.2. Sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
11
Do ra đời trong điều kiện của một đất nước thuộc địa, nữa phong kiến, phương
thức sản xuất nông nghiệp chiếm ưu thế, nên ngoài những đặc điểm chung với giai cấp
công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những nét đặc trưng riêng: đa
số xuất thân từ nông dân; ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc; ít về số lượng, trình độ
học vấn và chuyên môn thấp. Mặc dù vậy, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn đủ khả
năng để lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi:
Công nhân Việt Nam tuy tuổi còn trẻ, song ra đời trước giai cấp tư sản. Số lượng
ít; nhất là từ khi kháng chiến kiến quốc, một số phân tán và một số ít đổi nghề. Nhưng
sau đó một phần đã tập hợp lại trong vùng bị tạm chiếm và số lượng công nhân vùng tự
do cũng tăng lên. Còn nhiều quan hệ với nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam chưa
được thuần tuý lắm, trình độ học vấn tương đối thấp, nhưng đủ sức lãnh đạo cách mạng
đến thắng lợi.
Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Để phát huy vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân phải gắn liền
với sự nghiệp xây dựng đảng cách mạng, ngược lại xây dựng đảng cách mạng phải đi
liền với xây dựng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, đảng cách mạng
phải hiểu rằng phong trào nông dân, cho dù có quy mô to lớn tới đâu đi nữa cũng
không mong gì giành được những thắng lợi quyết định nếu như giai cấp công nhân
không hành động. Do đó, xây dựng đảng chính là xây dựng giai cấp công nhân ngày
càng lớn mạnh để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Giai cấp công nhân là cơ
sở chính trị - xã hội cho sự ra đời của đảng, khi đảng ra đời sẽ được tổ chức, lãnh đạo
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nếu công nhân không có sự lãnh đạo của
Đảng thì không làm cách mạng thành công được, không thắng lợi được. Thông qua
chính đảng của mình giai cấp công nhân tập hợp lực lượng, tổ chức, lãnh đạo phong
trào thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù trong bối cảnh lúc bấy giờ vẫn còn nhiều ý kiến nghi ngờ về khả năng
lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam, khi cho rằng: ở Việt Nam không thể thực
hiện cuộc cách mạng vô sản, vì giai cấp công nhân ít về số lượng. Khác với giai cấp
công nhân ở các nước tư bản, ra đời từ nền sản xuất công nghiệp chính quốc, giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời từ quá trình xâm lược thuộc địa của đế quốc, sản xuất manh
mún. Trước những băn khoăn đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Lãnh đạo được hay không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người
nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng đấu
tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng Lao động Việt Nam.
Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và
tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến .
Khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, phải tiến hành xây dựng chế độ
xã hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chế độ xã hội mới phải thể hiện được tính ưu việt của
nó, giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động phải thực hiện được vai trò
làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất. Muốn làm được điều đó thì phải đẩy mạnh cải tiến
quản lý xí nghiệp, công nhân phải thực sự tham gia vào quản lý, phải thể hiện được
mình là đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, tạo ra được nhiều của cải với chất
12
lượng cao, giá thành rẻ, quản lý hiệu quả: muốn thực hiện được vai trò làm chủ, giai
cấp công nhân phải quản lý tốt kinh tế, quản lý tốt xí nghiệp, làm cho năng suất lao
động không ngừng nâng cao, của cải xã hội ngày càng nhiều với phẩm chất tốt, giá
thành hạ. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu giai cấp công nhân phải luôn phấn đấu rèn
luyện về năng lực, nâng cao trình độ để thực sự xứng đáng là người làm chủ. Muốn
nâng cao năng lực thì phải cố gắng học tập, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ tinh
thần hăng hái lao động, mà còn tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng
cao năng lực làm chủ của mình. Khi đi lên chủ nghĩa xã hội sự đối lập giữa lao động
chân tay và lao động trì óc dần được xoá bỏ, có chăng chỉ là sự khác nhau ở trình độ
đào tạo. Do đó, Hồ Chí Minh mong muốn công nông hoá trí thức, trí thức hoá công
nông. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa và nâng cao trình độ tri thức của mình,
trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm
của công nông. Một khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển, thì người công nhân
phải có trình độ kỹ thuật rất cao không kém gì kỹ sư .
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh vấn đề trí thức hóa giai cấp công nhân đã
được Người đặc biệt quan tâm, và coi đây là xu thế phát triển tất yếu khi lực lượng sản
xuất ngày càng phát triển. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân thực hiện vai trò làm
chủ của mình trong sản xuất, cũng như lãnh đạo xã hội trong quá trình thực hiện cách
mạng.
Phát hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thế giới là công lao của Mác và
Ăngghen. Nhưng qua những cuộc tranh luận lý luận về vấn đề đó trong phong trào
cách mạng và phong trào công nhân từ sau khi C.Mác và Ph. Ăngghen qua đời và xem
xét vấn đề đó vào những điều kiện cụ thể của Việt Nam những năm hai mươi của thế
kỷ hai mươi mới thấy đầy đủ giá trị của lý luận và thực tiễn mà Hồ Chí Minh đã cống
hiến cho cách mạng Việt Nam. Sau này, đánh giá về giai cấp công nhân Việt Nam, Hồ
Chí Minh khẳng định: Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất,
luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào công nhân quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra là
người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.
CHƯƠNG 2. SỰ THAY ĐỔI NHẬN THỨC VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN QUA CÁC
THỜI KỲ ĐẠI HỘI ĐẢNG
2.1. Sự thay đổi nhận thức về giai cấp công nhân qua các thời kỳ đại hội Đảng
thời kỳ trước đổi mới.
trong
13
1. GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN ĐẠI TRÊN THẾ GIỚI ĐÃ CÓ NHIỀU
BIẾN ĐỔI SO VỚI THẾ KỶ XIX
1.1. Về nguồn gốc xuất thân từ đô thị của giai cấp công nhân hiện nay
Giai cấp công nhân thời Mác là giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột và xuất
thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn. Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại
đây, xu thế đô thị hóa và đông đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn
nhân lực của giai cấp công nhân.
Trong những thập niên gần đây, quá trình đô thị hóa trên thế giới có sự khác biệt
khi so với vài thế kỷ trước đây và đang diễn ra với tốc độ cao.
Trước đây, các vùng tụ cư trong lịch sử nhân loại thường ở lưu vực các con sông
lớn, nơi thuận tiện cho canh tác nông nghiệp và có nguồn nước cho sinh hoạt. Ngày
nay, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện những thành phố lớn trên sa mạc
như LasVegas cùng nhiều đô thị ở Trung Đông… Chúng hầu như được xây dựng và
phát triển dựa trên nguyên lý mới: khắc phục sự khắc nghiệt của tự nhiên, nhân tạo hóa
các điều kiện sống bằng khoa học và công nghệ hiện đại. Đây là một quá trình gắn liền
với phát triển văn minh và công nghệ. Đó là những thành phố được dịch vụ bởi công
nghệ hiện đại. Nó cần đến công nghệ mới, công nghiệp và công nhân.
Hiện nay, khu vực có mức đô thị hóa cao nhất là Bắc Mỹ với 82% dân số sống ở
đô thị, tiếp đó là Mỹ La tinh và Caribbean 80% và châu Âu 73%. Báo cáo Nhìn lại
triển vọng đô thị hoá thế giới của Liên hợp quốc năm 2005, mô tả thế kỷ XX đã chứng
kiến quá trình đô thị hoá nhanh chóng của cư dân thế giới với tỷ lệ cư dân đô thị tăng
từ 13% (220 triệu người) năm 1900 lên 29% (732 triệu người) năm 1950 và 49% (3,2
tỷ người) năm 2005. Báo cáo này cũng ước tính rằng vào năm 2030 con số đó sẽ là
60% (4,9 tỷ người). Một nhà nghiên cứu nhận định: Chúng ta đã chưa bao giờ có một
cuộc cách mạng nhân khẩu học nhanh và triệt để như cuộc cách mạng của 100 năm
qua. Vào năm 1900 hay khoảng đó, gần 95% người ở khắp thế giới làm công việc chân
tay. Và cũng chỉ có gần 5% người đã sống ở đô thị có dân cư trên 100.000 dân. Ngày
nay, ở các nước phát triển, tỷ lệ người làm công việc chân tay đã giảm xuống chỉ còn từ
20 - 25% trong lực lượng lao động và gần 50% dân cư sống ở đô thị. Từ đây đang hình
thành dự trữ cho lực lượng lao động hiện đại.
Ở các nước đang phát triển và phát triển ở trình độ cao, từ những năm 60 thế kỷ
XX trở lại đây, nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa có một bộ phận lớn và ngày càng
tăng, được tuyển mộ từ nhóm cư dân đô thị. Cơ cấu xuất thân của công nhân cũng đa
dạng hơn: họ xuất thân từ gia đình công nhân truyền thống, từ gia đình trí thức - công
chức, tiểu thương, dịch vụ… Lối sống đô thị khá gần gũi với tác phong lao động công
nghiệp cũng giúp cho người lao động bớt bỡ ngỡ khi tham gia vào phương thức sản
xuất công nghiệp.
14
Đô thị hóa làm xuất hiện ngày một đông đảo hơn đội ngũ lao động làm thuê, vốn
có mặt từ thời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, gồm bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác
học đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê.... Song hiện nay họ đông
đúc hơn, đa dạng hơn. Đó là nhóm lao động dịch vụ xã hội với hàng nghìn nghề khác
nhau. Xét về cơ cấu xã hội, các nhà nghiên cứu đều thấy sự tăng lên của những nhóm
lao động dịch vụ mới. Họ là những người kết hợp cả lao động chân tay và lao động trí
óc. Trong các quốc gia phát triển đã có sự xuất hiện một cơ cấu xã hội mới với vai trò
mới của trí thức, công nhân tri thức. Piter Druke cho biết: Người làm việc cả bằng tay
lẫn bằng kiến thức lý thuyết đã tạo thành nhóm tăng nhanh nhất trong lực lượng lao
động Mỹ từ 1980. (Thí dụ các kỹ thuật viên máy tính, kỹ thuật viên X quang, nhà vật
lý trị liệu, các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm y khoa..,. Cũng bởi vậy, ở nhiều nước
phát triển hiện nay, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đã không
còn cơ sở xã hội như thế kỷ XIX và thay vào đó là liên minh giữa những người lao
động mà chủ yếu là hai nhóm ngành lao động đông đảo ở đô thị là sản xuất công
nghiệp và dịch vụ bằng phương thức công nghiệp.
1.2. Đô thị là nơi mà đấu tranh giai cấp hiện đại bộc lộ tính điển hình của
nó.
Ph.Ăng ghen từng viết: Các thành phố lớn là nơi bắt nguồn của phong trào công
nhân: nơi đây công nhân lần đầu tiên đã bắt đầu suy nghĩ về tình cảnh của mình và đấu
tranh để thay đổi nó, nơi đây sự đối lập về lợi ích giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản lần đầu đã biểu lộ ra, nơi đây những liên đoàn lao động, phong trào Hiến chương
và chủ nghĩa xã hội đã ra đời…
Phân hóa sâu sắc của xã hội đô thị hiện nay cũng khiến cho các điểm nóng xã hội,
các cuộc đấu tranh chính trị hiện đại xuất hiện thường xuyên hơn tại các đô thị - đấu
trường của chính trị hiện đại. Cuốn sách Thế kỷ của những cuộc cách mạng 1789 1848 (xuất bản năm 1962 và tái bản 2005) của nhà sử học Eric Hobsbawm nói về vấn
đề đó. Tác giả đã nhận định Phát triển đô thị trong giai đoạn giai đoạn 1789 - 1848 là
một quá trình chia tách giai cấp khổng lồ, đã đẩy những người lao động nghèo vào các
vũng lầy khổng lồ của tình trạng khốn cùng bên ngoài các trung tâm của chính phủ, của
các doanh nghiệp và của các khu dân cư của giai cấp tư sản… Mô tả này tương tự như
quan sát và phân tích của Ph.Ăng ghen về mặt tối của các đô thị công nghiệp trong
Tình cảnh giai cấp công nhân Anh. Và hiện nay thì, Liên hợp quốc nhận định: Quản lý
đô thị đã trở thành một trong những thách thức phát triển quan trọng nhất trong thế kỷ
XXI .
Theo đó, cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội hiện nay, sát cánh cùng giai cấp công
nhân là các tầng lớp cư dân đô thị và các nhóm lao động dịch vụ. Trong quá trình thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân không thể không quan tâm tới lực
lượng xã hội to lớn này trong các đô thị.
15
1.3. Cơ cấu đa dạng của giai cấp công nhân hiện đại cũng làm nảy sinh
những nhu cầu bổ sung nhận thức mới
Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại cũng
làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó liên
tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công nghiệp - nông nghiệp dịch vụ) theo trình độ công nghệ (bộ phận công nhân áo xanh - công nhân của công
nghiệp truyền thống; áo trắng - công nhân có trình độ đại học cao đẳng chủ yếu làm
công việc điều hành quản lý sản xuất; áo vàng - công nhân của các ngành công nghệ
mới, áo tím - công nhân dịch vụ - lao động đơn giản như gác cầu thang, vệ sinh đô
thị…); Phân loại công nhân theo sở hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất và trực tiếp lao
động tại nhà để sống và, không có cổ phần). Phân loại công nhân theo chế độ chính trị
(công nhân ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ở các nước G7, ở
các nước đang phát triển)...
Cũng vì vậy, đã có hàng chục khái niệm để chỉ giai cấp công nhân và có nhiều
điểm khác biệt về nội hàm khi so sánh các khái niệm ấy với nhau. Sự mở rộng nội hàm
ấy đã khiến cho, chỉ còn đặc điểm lao động và bị bóc lột sức lao động (được dùng từ
thời C.Mác) là có thể chấp nhận được. Còn các tiêu chí - phẩm chất khác như gắn liền
với máy móc công nghiệp, lao động mang tính xã hội hóa, có tính tổ chức, kỷ luật và
triệt để cách mạng, có tinh thần quốc tế và bản sắc dân tộc… trong nhiều trường hợp cụ
thể, là tương đối khó nhận diện.
Vấn đề đặt ra là ở chỗ trí thức là người lao động, song có thực sự nên coi họ là bộ
phận của giai cấp công nhân hiện nay hay không? Có nơi (như Trung Quốc) cho luôn
trí thức vào tầng lớp giai cấp công nhân cho tiện, song khái niệm giai cấp công nhân
hiện đại cũng thật khó bao chứa những nhóm lao động này, nếu không muốn nói tới
nguy cơ là làm tan loãng - xóa nhòa giai cấp công nhân.
Vấn đề khác là, một giai cấp mà có nhiều nhóm, đội ngũ, tầng lớp với các bộ
phận có trình độ giác ngộ khác nhau như vậy, thì sự thống nhất - đoàn kết về ý chí và tổ
chức sẽ diễn ra như thế nào? Đã có tình trạng người lao động công nghiệp mà không tự
coi mình là giai cấp công nhân! Họ coi mình là giai cấp trung lưu, vừa làm thuê lại vừa
hữu sản thông qua chế độ cổ phần… Đã có tình trạng đa nguyên công đoàn ở nhiều
nước và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã thừa nhận như một quyền của người lao
động - quyền tự do nghiệp đoàn.
Sự yếu ớt về chính trị và tổ chức của các đảng cộng sản, sự chia rẽ, phân liệt giữa
các đảng cộng sản và đảng công nhân hiện nay cùng những vấn đề đặt ra từ lợi ích
quốc gia dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, liệu có thể là những trở lực từ bên trong
để ngăn cản khẩu hiệu Công nhân toàn thế giới đoàn kết lại để chống giai cấp tư sản và
chủ nghĩa tư bản hay không? Chính những vấn đề khách quan trên đã đặt ra nhu cầu bổ
sung nhận thức mới về giai cấp công nhân, một giai cấp luôn phát triển cùng với sự
phát triển của công nghiệp và cách mạng khoa học và công nghệ.
16
2. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH THỰC HIỆN SỨ MỆNH LỊCH SỬ.
2.1. Giai cấp công nhân Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ XIX đến giữa thế kỹ
XX.
Trước yêu cầu đổi mới tư duy về giai cấp công nhân, một vấn đề đặt ra cần thống
nhất nhận thức là đi tới một khái niệm mới về giai cấp công nhân Việt Nam. Nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin là thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý.
Thực tiễn về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã có những đổi mới và điều đó đòi
hỏi phải có những đổi mới cần thiết trong nội hàm khái niệm giai cấp công nhân. Định
nghĩa khoa học về giai cấp công nhân còn có ý nghĩa thực tiến quan trọng. Bởi nó sẽ
góp phần vào việc định hướng phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng lẫn chất
lượng và còn là cơ sở để xây dựng những chính sách xã hội thích hợp đảm bảo mối
quan hệ hài hòa giữa các giai cấp, giữa giai cấp và dân tộc.
Trong nhiều tác phẩm lý luận của mình, Mác và Ph.Ăng ghen đã đề cập đến sự ra
đời, phát triển và vai trò lịch sử của giai cấp vô sản. Trong Những nguyên lý của chủ
nghĩa cộng sản, Ph.Ăng ghen chỉ rõ: Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn
chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận
của bất cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết,
toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động…Nói tóm lại, giai
cấp vô sản hay là giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX.
Đến Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, trong phần chú thích của mục Tư sản và vô sản
cho lần xuất bản năm 1888, Ph.Ăng ghen định nghĩa: Giai cấp vô sản là giai cấp những
công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc phải
bán sức lao động của mình để sống. Có thể nhận thấy, Mác và Ph.Ăng ghen đã đồng
nhất hóa người công nhân hiện đại với người vô sản trong định nghĩa khoa học của
mình. Điều đó hoàn toàn đúng trong thế kỷ XIX.
Sau khi cơ bản hoàn thành quá trình xâm lược nước ta thực dân Pháp tiến hành thực
hiện kế hoạch khai thác thuộc địa ở Việt Nam, dưới tác động của những cuộc khai thác
thuộc địa giai cấp công nhân ở nước ta đã ra đời. Trước hết, thực dân Pháp tập trung
vào phát triển ngành khai thác mỏ, hàng ngàn nông dân bị bần cùng hóa may mắn được
trở thành thợ mỏ làm việc trong các mỏ khai thác than, thiếc… Tuy chưa phải công
nhân hiện đại, sản xuất trong dây chuyền công nghiệp nhưng đây là mầm mống để phát
triển hình thành giai cấp công nhân Việt Nam. Đẩy nhanh quá trình khai thác thuộc địa,
nhiều khu công nghiệp được xây dựng tập trung ở Hà nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam
Định, Vinh – Bến Thủy, Hòn Gai đã làm cho số công nhân tăng nhanh…. Số lượng
công nhân năm 1906 gần 5 vạn người trong đó có 1.800 thợ chuyên môn. Nhiều xí
nghiệp tập trung đông công nhân như: Xi măng Hải phòng có 1.500 người, 4 nhà máy
dệt ở Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội cũng có 1.800 người, các nhà máy xay xát ở Sài
Gòn có tới 3.000 người, riêng trên các tuyến đường sắt Vân Nam – Hải Phòng đã thu
hút tới 6 vạn người, ngành mỏ (năm 1914) có tới 4.000 thợ, đó là chưa kể số thợ theo
17
mùa. Tổng công nhân Việt Nam tính đến trước chiến tranh thế giới lần thứ I có khoảng
10 vạn người.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ I kết thúc, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ II (1919-1929) nhằm tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân thuộc địa
để bù đắp những tổn thất trong chiến tranh. Sự phát triển của một số ngành công
nghiệp khai khoáng, dệt, giao thông vận tải…. dẫn đến số lượng công nhân tăng nhanh,
công nhân mỏ và công nhân đồn điền nhiều nơi tập trung hàng vạn người. Ở các thành
phố, nhiều nhà máy đã có trên 1.000 công nhân như nhà máy Xi măng Hải Phòng, nhà
máy Dệt Nam Định.
Đến cuối năm 1929, tổng số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp của tư bản
Pháp là hơn 22 vạn người, trong đó có 5,3 vạn thợ mỏ, 8,6 vạn công nhân các ngành
công thương nghiệp. Đó là chưa kể đến những người lao động làm việc ở xí nghiệp thủ
công lớn, nhỏ, thợ may, thợ giặt, bồi bếp….
Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng và từ khi Đảng ra đời cho đến khi Người
đi xa, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định, luôn luôn làm cho toàn Đảng quán triệt.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân. Đảng phải giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Lịch sử dân tộc ta, trước Hồ Chí Minh đã
có nhiều nhà yêu nước đầy nhiệt huyết, nhưng đều không cứu được nước, không giành
được độc lập dân tộc. Khác với các nhà yêu nước đương thời. Hồ Chí Minh đã sớm ý
thức được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng
sản. Người đã sáng lập ra Đảng ta, giáo dục, rèn luyện Đảng trở thành một Đảng Mác
Lênin chân chính, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Xây dựng thành công một Đảng Cộng sản ở một nước vốn là thuộc địa nửa
phong kiến, giai cấp công nhân rất nhỏ bé, giai cấp nông dân chiếm đại đa số, làm cho
Đảng luôn giữ vững được tính chất giai cấp công nhân, trung thành và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới là một cống hiến quan trọng của Hồ Chí
Minh về lý luận xây dựng Đảng vô sản kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân.
Trong tác phẩm Đường Cách mệnh viết năm 1926 Người đã chỉ rõ Đảng muốn vững
thì phải lấy chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không
có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Trước khi thành lập
Đảng, Người đã đề ra chủ trương Vô sản hóa, đưa cán bộ, đảng viên không xuất thân từ
thành phần công nhân vào hầm mỏ, nhà máy, đồn điền để tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân đồng thời học tập, tự rèn luyện mình thành người vô
sản và thành người Cộng sản. Vô sản hóa là một yếu tố đầu tiên quan trọng tạo điều
kiện cho đảng viên thực sự giác ngộ và trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, giữ vững
được bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
18
Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1930, Người đã khẳng định Đảng là
đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,
phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, Đảng phải thu phục cho được đại
đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày
nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúng bọn đại địa chủ và phong kiến.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Do vậy, ngay từ khi ra đời
Đảng ta đã mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Từ thực tế cách mạng Việt Nam, Người luôn coi trọng
việc giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, bồi dưỡng, rèn luyện năng lực và phẩm chất cho
đảng viên. Nhờ vậy, mặc dầu Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, đa số đảng viên
không phải là công nhân, nhưng bản chất giai cấp công nhân và vai trò tiên phong cách
mạng của Đảng vẫn được giữ vững. Và chính trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta trở thành người lãnh đạo cách mạng, của dân tộc Việt Nam, được toàn thể dân
tộc Việt Nam coi là Đảng của mình, là người lãnh đạo duy nhất của dân tộc mình.
Khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người
đã sớm giáo dục toàn Đảng nguy cơ thoái hóa về bản chất giai cấp công nhân, sa vào tệ
quan liêu hóa, xa rời quần chúng, trở thành tổ chức làm quan vi phạm quyền làm chủ
dân, xa rời mục tiêu cách mạng của Đảng. Người đã chỉ rõ 12 điều về tư cách của Đảng
chân chính cách mạng. Trong 12 điều đó thì điều đầu tiên là Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ
quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
Cũng trong tác phẩm này Người đã nhấn mạnh về tính đảng - tức là bản chất giai
cấp công nhân của Đảng. Năm 1951, khi Đảng ra công khai và đổi tên thành Đảng Lao
động Việt Nam, Người khẳng định bản thân giai cấp công nhân của một Đảng cầm
quyền và chỉ rõ trong điều kiện lịch sử mới quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động và của cả dân tộc là một. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động cho nên Đảng cũng là Đảng của dân tộc. Cũng có
người ngại nói Đảng của dân tộc và sợ trái với bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn
luôn là Đảng của giai cấp công nhân theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân nhưng
khi đã trở thành Đảng cầm quyền, khi Đảng thực sự là người vừa đại diện cho lợi ích
của giai cấp công nhân, vừa đại diện cho lợi ích cả dân tộc, được cả dân tộc thừa nhận
thì việc khẳng định Đảng cũng là Đảng của dân tộc là hoàn toàn đúng. Theo Tư tưởng
Hồ Chí Minh, là Đảng của giai cấp công nhân nên Đảng củng phải đặc biệt chú trọng
đến thành phần công nhân trong công tác đảng viên và công tác cán bộ. Nhưng Đảng
cũng tránh chủ nghĩa thành phần mà hẹp hòi không dám kết nạp và đề bạt những người
ưu tú xuất thân từ các thành phần xã hội khác. Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh
bản chất giai cấp công nhân của Đảng là mọi đảng viên xuất thân từ thành phần nào
cũng phải suy nghĩ và hành động theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Nhưng
Người cũng luôn luôn nhắc nhở toàn Đảng về sự thống nhất lợi ích của Đảng và của
dân tộc. Trong lời khai mạc lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Đảng, Người đã chỉ
rõ Đảng ta vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta
19
không có lợi ích gì khác, Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, là hòa
bình, ấm no.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta đã được Người nhắc nhở toàn Đảng
một cách sâu sắc nhưng lại dễ hiểu, dễ nhớ Đảng ta là một Đảng cầm quyền…phải giữ
gin Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân.
Thực tiễn lịch sử của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế đã chỉ rõ, đã là
Đảng Cộng sản thì Đảng nào cũng phải coi trọng việc giữ vững bản chất giai cấp công
nhân. Đảng Cộng sản ra đời và hoạt động ở một nước mà kinh tế còn kém phát triển,
giai cấp công nhân hiện đại còn ít như ở Việt Nam thì việc không ngừng nâng cao bản
chất giai cấp công nhân của Đảng lại càng quan trọng. Trong mọi giai đoạn và mọi thời
kỳ cách mạng, bản chất công nhân, sự vững mạnh của Đảng cũng phải được thể hiện cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Về đường lối chính trị, Người coi Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp
công nhân và khi đã trở thành Đảng cầm quyền thì Đảng đồng thời là đội tiên phong
chính trị của cả dân tộc. Đường lối chính trị là vấn đề cốt tử đầu tiên quyết định vận
mệnh của Đảng và cả vận mệnh của dân tộc. Hồ Chí Minh đã xác định cho Đảng ta
một đường lối chính trị đúng đắn; làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cương lĩnh đầu tiên, Người
viết làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản.
Nhờ đường lối chính trị đúng đắn của Hồ Chí Minh ngay từ đầu, Đảng ta đã đoàn
kết các giai cấp, tầng lớp cách mạng, các lực lượng yêu nước trên cơ sở liên minh công
nông. Đó là yếu tố quan trọng đầu tiên giúp Đảng ta nắm được quyền lãnh đạo. Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng, đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của quần chúng lao động nên đã
nhanh chóng phát động được cao trào trong những năm 1930-1931 và đã định hướng
đúng cho sự phát triển của các thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Cuộc cách mạng vô sản đầu tiên sau Cách mạng Tháng Mười thành công đã mở
ra thời đại mới của xã hội loài người. Nhưng từ đó đến nay, đặc biệt là từ sau khi chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ - chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn phải
tiếp tục đấu tranh chống những nhận thức, những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa tiếp
tục phủ nhận vai trò của giai cấp công nhân, phủ nhận vai trò lãnh đạo của chính đảng
của giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh là người có công lớn đầu tiên đối với dân tộc ta,
với Đảng ta là về mặt lý luận đã sớm khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam và sớm sáng lập và xây dựng một đảng tiên phong của giai cấp công
nhân.Trung thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta qua mọi giai đoạn và
mọi thời kỳ cách mạng đều coi trọng xây dựng Đảng mang bản chất giai cấp công
nhân. Để xác định được đường lối đúng, Đảng luôn luôn coi trọng việc giáo dục chủ
nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh bằng nhiều hình thức, đồng thời xuất phát
đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam để vận dụng sáng tạo trên tinh thần độc lập tự chủ, tự lực,
20
tự cường. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta bắt nguồn từ đường lối đổi mới
đúng đắn, có nguyên tắc của Đảng ta. Cách mạng nước ta đang đứng trước những thời
cơ và thách thức mới. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và khi đã trở
thành Đảng cầm quyền thì Đảng đồng thời cũng là đội tiên phong của cả dân tộc. Bí
quyết thành công đầu tiên của Đảng ta là không ngừng nâng cao trình độ lý luận trong
toàn Đảng, trước hết là trong cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, bám sát thực tiễn để bổ
sung, phát triển và hoàn thiện đường lối theo mục tiêu con đường mà Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã lựa chọn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Như vậy cùng với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn tới sự ra đời
tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Và, đó
cũng là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai cấp mới – giai cấp công nhân Việt
Nam với những đặc điểm sau:
Một là, giai cấp công nhân Việt Nam chủ yếu xuất thân từ nông dân, do bị bần cùng
hóa trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp nên có sẵn mối quan hệ tự
nhiên với nông dân và nhân dân lao động. Đây là điều kiện thuận lợi để giai cấp công
nhân xây dựng và thiết lập khối liên minh công nông và là nòng cốt của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, nhằm chống lại kẻ thù chung là thực dân Pháp và bọn phong kiến tay
sai để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội,,,
Hai là, giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra và lớn lên được thừa hưởng truyền
thống đấu tranh anh dũng và bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc; Là giai cấp bị bóc
lột nặng nề cùng với nỗi nhục mất nước, nên có điều kiện và cơ sở để liên minh với
nhân dân và các giai cấp, các tầng lớp khác trong xã hội (trước hết là nông dân) để
chống lại ách áp bức của giai cấp tư sản và thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân
tộc. Như vậy lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp kết hợp làm một, khiến động cơ cách
mạng cũng như nghị lực và tính cách mạng triệt để của giai cấp công nhân Việt Nam
được nhân lên gấp bội.
Ba là, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam, trong khi
thế giới giai cấp công nhân ra đời sau giai cấp tư sản.
Bốn là, giai cấp công nhân Việt Nam phải chịu 3 tầng áp bức bóc lột là địa chủ,
phong kiến, tay sai, của giai cấp tư sản mại bản và của chủ nghĩa đế quốc. Với ba tầng
áp bức nặng nề này đã làm cho đời sống công nhân Việt Nam vô cùng cực khổ, so với
giai cấp công nhân thế giới, bởi giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển họ chỉ
phải chịu một tầng áp bức của giai cấp tư sản mà thôi. Chính đặc điểm này đã làm sâu
sắc hơn tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam thúc đẩy họ luôn sẵn
sàng đứng lên đấu tranh.
Năm là, trong giai cấp công nhân Việt Nam không có bộ phận công nhân quý tộc,
họ thuần nhất chỉ là người lao động trong các ngành công nghiệp của thực dân pháp.
Đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng tinh thần đoàn kết của giai cấp công nhân và
đoàn kết dân tộc…
Sáu là, giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị trong điều kiện tình
hình thế giới cũng như phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế đang phát triển
21
mạnh mẽ. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, sự ra đời của Quốc tế Cộng sản
(Quốc tế III) đã cổ vũ và giúp đỡ về nhiều mặt, để giai cấp công nhân Việt Nam vươn
lên đảm nhận lấy sứ mệnh lịch sử của mình lãnh đạo cách mạng…
Trong thời gian này đảng chưa có bất định nghĩa về giai cấp công nhân, nhưng có
thể hiểu giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
giai cấp công nhân là những người lao động không có hoặc về cơ bản không có tư liệu
sản xuất, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư.
2.2. Giai cấp công nhân Việt Nam vào cuối thế kỷ XX đến nay
Đương nhiên, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, công nhân không còn làm thuê cho
chủ tư bản nữa mà đã trở thành người chủ nhà nước, làm chủ tập thể đối với tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội, và từ đây khái niệm giai cấp công nhân không còn đồng nhất
với khái niệm vô sản nữa. Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết trước
đây, một số nhà nghiên cứu lý luận cho rằng: Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công
nhân không thể gọi là giai cấp vô sản nữa: nó thoát khỏi bóc lột, cùng với toàn thể nhân
dân nó nắm giữ các tư liệu sản xuất, do đó sức lao động của nó không phải là hàng hóa.
Rõ ràng, trong điều kiện chủ nghĩa xã hội xô viết với sự thuần nhất về kinh tế trước
đây, định nghĩa về giai cấp công nhân như trên là đúng đắn. Tuy nhiên, trong điều kiện
chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới hiện nay, với nền kinh tế nhiều thành phần, dựa trên
sự đa dạng về chế độ sở hữu thì cần phải có định nghĩa mới về giai cấp công nhân cho
phù hợp với thực tế mới.
Nếu ở thế kỷ XIX, công nhân hiện đại chủ yếu là công nhân công nghiệp, thì
ngày nay, do khoa học công nghệ phát triển, công nhân công nghiệp có thể giảm đi,
trong khi công nhân ở các ngành phi truyền thống như dịch vụ ngân hàng, tài chính, du
lịch… lại tăng lên nhanh chóng. Bởi vậy, trong bối cảnh đầu thế kỷ XXI hiện nay, việc
kế thừa quan điểm của các nhà kinh điển về định nghĩa giai cấp công nhân rất cần phải
có những sáng tạo mới. Định nghĩa mới về giai cấp công nhân cần khẳng định những
yếu tố bất biến trong quan niệm của các nhà kinh điển về giai cấp công nhân, đồng thời
phải tìm ra những yếu tố khả biến cần thay đổi, bổ xung. Cái bất biến trong định nghĩa
về giai cấp công nhân là địa vị kinh tế xã hội khách quan trong nền sản xuất hiện đại
dựa trên kỹ thuật công nghiệp hoặc có tính chất công nghiệp. Đó cũng chính là cơ sở
khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Cái khả biến là những
đặc diểm mới xuất hiện gắn liền với giai cấp công nhân trong nền kinh tế tri thức của
xã hội thông tin đang định hình trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Chẳng hạn,
ngày nay do khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, một số lớn trí thức và
công nhân kỹ thuật cao đã có sở hữu về trí tuệ, một bộ phận công nhân không chỉ ở các
nước tư bản chủ nghĩa mà còn ở cả các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đã có cổ phần và trở thành người tư hữu hoặc lớn hoặc nhỏ. Như vậy, không chỉ
trong các nước xã hội chủ nghĩa mà ngay cả trong các nước ta bản chủ nghĩa, một bộ
phận công nhân không còn là vô sản nữa và cũng không còn là công nhân mất hết tư
liệu sản xuất như ở thế kỷ XIX, nhưng họ vẫn nằm trong giai cấp công nhân. Đó là
22
những thực tế mới mà chúng ta không thể không thừa nhận.
Định nghĩa về giai cấp công nhân dù có thêm những nội hàm mới, thì vẫn cần
phải khẳng định, giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp và là
sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp và công nghiệp hiện đại, là giai cấp tiêu
biểu cho lực lượng sản xuất mới, xã hội hóa, là giai cấp tiên tiến nhất có sứ mệnh lịch
sử xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và
xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đảng ta, qua các nghị quyết của đại hội Đảng hay các nghị
quyết của hội nghị trung ương đã luôn luôn khẳng định vai trò lãnh đạo và vị trí trọng
yếu của giai cấp công nhân trong sự nghiệp cách mạng nói chung và sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Mặc dù các văn kiện của Đảng không đưa ra một định nghĩa chính thức về giai
cấp công nhân trong thời kỳ đổi mới, nhưng nghị quyết của Đảng cũng đã chỉ rõ cần
phải đổi mới tư duy về giai cấp công nhân. Theo tinh thần các nghị quyết của Đảng,
nhiều nhà nghiên cứu lý luận đã quan tâm đến vấn đề định nghĩa giai cấp công nhân.
Trong công trình Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay, các
tác giả đã đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân như sau: Giai cấp công nhân là giai
cấp những người lao động hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các
trình độ kỹ thuật khác nhau, mà địa vị kinh tế xã hội thì tùy thuộc vào chế độ xây dựng
đương thời. Ở các nước tư bản, họ là những người không có hoặc về cơ bản không có
tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị
thặng dư. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những người đã cùng nhân dân lao động
làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động cho mình. Đây là định
nghĩa về giai cấp công nhân nói chung và đã phân biệt rõ người công nhân sau khi cách
mạng thành công không còn là người vô sản như trước vì đã là người làm chủ tư liệu
sản xuất của xã hội. Tuy nhiên ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
tồn tại nề kinh tế nhiều thành phần thì thực tế giai cấp công nhân phong phú và phức
tạp hơn nhiều.
Đối với cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân luôn có một vai trò và vị trí hết
sức quan trọng. Trong các giai đoạn cách mạng trước đây, giai cấp công nhân Việt Nam
không chỉ là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là một trong những lực lượng cách
mạng chủ yếu trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm xóa bỏ sự thống
trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến giành độc lập dân tộc và tiến lên chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX gắn liền với quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp. Ngay từ khi ra đời giai cấp công nhân Việt Nam đã chứng tỏ là giai cấp tiên
tiến. Trong bối cảnh lịch sử dân tộc lúc bấy giờ, khi bàn về giai cấp công nhân Việt
Nam, Hồ Chí Minh cho rằng: chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng
nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng
tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ
ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.
Quán triệt tinh thần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam, trong suốt quá trình cách mạng Đảng ta
23
luôn quan tâm chăm lo xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh cả về số
lượng và chất lượng, xứng đáng với vai trò giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, trong quá trình đổi mới giai cấp công nhân nước ta có
sự biến đổi nhanh trên nhiều phương diện, không còn thuần nhất, phát triển nhanh về
số lượng và chất lượng, đa dạng về cơ cấu, phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo
trong nội bộ ngày càng sâu sắc.
Trước sự biến đổi đó, khi bàn về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có nhiều
ý kiến cho rằng: với quá trình cổ phần hóa hiện nay, những công nhân đã có sở hữu cổ
phần và có thu nhập từ lợi nhuận doanh nghiệp đã trở thành ông chủ, không còn là giai
cấp công nhân nữa. Cũng có ý kiến cho rằng, công nhân Việt Nam hiện nay đang làm
thuê chứ không phải làm chủ; lãnh đạo xã hội hiện nay thuộc về trí thức chứ không
phải là giai cấp công nhân. Những người đưa ra ý kiến này lập luận rằng: giai cấp công
nhân là giai cấp vô sản, không có tư liệu sản xuất, nên bộ phận công nhân hiện nay có
sở hữu cổ phần thì không còn là giai cấp công nhân nữa, quá trình này đang làm cho
giai cấp công nhân ngày càng teo đi. Nói giai cấp công nhân Việt Nam làm chủ là
không đúng, vì nhìn vào thực tiễn công nhân trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
là đang làm thuê, bị bóc lột giá trị thặng dư không khác gì so với giai cấp công nhân ở
các nước tư bản. Nói giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo là áp đặt, vì đội ngũ lãnh
đạo các cấp ở Việt Nam hiện nay là trí thức chứ không phải là công nhân.
Những quan niệm trên đây là phiến diện, siêu hình, thiếu cơ sở khoa học, mơ hồ
về lập trường tư tưởng. Việc công nhân có sở hữu cổ phần là xu thế phát triển tất yếu
của nền sản xuất hàng hóa, có cổ phần không làm mất đi bản chất của giai cấp công
nhân, mà trái lại nó phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của công nhân trong sản xuất. Như
phân tích ở trên, khi bàn về công nhân trong các công ty cổ phần - sự phát triển cao
nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã cho rằng: việc công nhân sở hữu cổ
phần là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản
xuất,...với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp thành sở hữu xã hội
trực tiếp.
Vì vậy, sở hữu vừa là mục tiêu, động lực, vừa là phương tiện, công cụ để đạt được
mục tiêu tổng thể. Do đó, đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế
độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Vì vậy, cùng là sở hữu nhưng
sở hữu trong chủ nghĩa xã hội khác sở hữu tư bản chủ nghĩa. Sở hữu của công nhân
trong chủ nghĩa xã hội với tư cách là cách thức tổ chức lao động sản xuất, nhằm huy
động mọi nguồn lực cho sự phát triển của sản xuất.
Trong chủ nghĩa xã hội, sở hữu là để phát huy tinh thần sáng tạo và làm chủ của
công nhân, dùng quyền sở hữu của mình làm giàu cho bản thân, gia đình và đất nước.
Còn trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản lại đem quyền sở hữu đi bóc lột sức lao
động của người khác, nên sở hữu tư sản thành tư bản, vì tư bản là giá trị mang lại giá
trị thặng dư bị nhà tư bản chiếm không của người lao động: chủ nghĩa cộng sản không
tước bỏ của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ
tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác. Cho nên, khi
nói về công nhân có sở hữu cổ phần ở nước ta không nên đánh đồng với sở hữu tư sản,
24
sở hữu của công nhân trong chủ nghĩa tư bản, không lầm lẫn mục tiêu với công cụ.
Người công nhân có cổ phần chứng tỏ nó đang khẳng định mình để đi tới chỗ thủ tiêu
mình với tư cách là giai cấp vô sản. Vì vậy, giai cấp công nhân nước ta hiện nay có thể
bao gồm cả những người có sở hữu thuộc các hình thức khác nhau mà pháp luật thừa
nhận. Không vì họ có sở hữu mà đưa họ ra ngoài giai cấp công nhân.
Có một thực tế hiện nay, khi mà các đơn vị sản xuất kinh doanh không tồn tại một
cách độc lập và khép kín, mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có nhiều loại hỗn
hợp, đan kết với nhau, xu hướng liên kết, liên doanh ngày càng phát triển cả trong nước
và ngoài nước. Trong mỗi nhà máy, xí nghiệp, công ty, có những dây chuyền sản xuất
và bộ phận liên kết với các đơn vị sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Những đơn vị sản xuất ấy vừa có mặt ở thành phần kinh tế này, vừa nằm trong thành
phần kinh tế khác, khó có sự phân biệt một cách rạch ròi giữa các thành phần kinh tế.
Bởi thế, người công nhân trong các đơn vị sản xuất này cũng không thuần khiết thuộc
một thành phần kinh tế nhất định, mà họ có thể hiện diện ở hai hoặc nhiều thành phần
kinh tế khác nhau. Họ có thể vừa là công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, vừa
làm ở khu vực kinh tế tư nhân hoặc cá thể, hộ gia đình.
Trong bối cảnh đó, nếu xét riêng từng cá nhân, trong từng công ty, nhà máy, xí
nghiệp thì hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của công nhân vẫn thường xuyên xảy ra.
Đây cũng là đặc điểm của nền kinh tế thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng
nếu xét giai cấp công nhân trong tính tổng thể với tư cách là giai cấp làm chủ đất nước,
thì địa vị và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân vẫn không hề thay đổi. Cho nên,
không thể nhìn bộ phận để đánh giá cái toàn thể. Hơn nữa, ngày nay khi chủ nghĩa tư
bản đã toàn cầu hóa nền kinh tế, thì khái niệm làm thuê cũng có tính tương đối. Nhiều
người có tư liệu sản xuất nhưng vẫn là người làm thuê khi xét nó trong những mối
quan hệ khác nhau, vừa là ông chủ trong mối quan hệ với người lao động làm thuê cho
mình, nhưng lại trở thành người làm thuê cho những doanh nghiệp, ông chủ khác.
Trong chủ nghĩa xã hội, khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, thì nó trở
thành những người làm chủ ở các mức độ khác nhau về các quá trình sản xuất nói riêng
và xã hội nói chung.
Vì vậy, lãnh đạo cách mạng thuộc về giai cấp công nhân Việt Nam, chứ không
phải là trí thức như ý kiến đưa ra trên đây. Trong bất cứ thời đại nào, trí thức cũng đóng
vai trò quan trọng trong xã hội. Ngày nay, khi khoa học đang ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, thì trí thức là những người đi đầu trong việc phát triển các lý
thuyết khoa học và công nghệ, khoa học quản lý, khoa học quân sự, khoa học xã hội,
giáo dục nâng cao dân trí… Nhưng trong xã hội, trí thức chưa bao giờ là một giai cấp,
bởi vì nó không đại biểu cho một phương thức sản xuất, không phải là một lực lượng
kinh tế, chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Do đó, nó không
có hệ tư tưởng riêng, chỉ đi theo và chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp mà nó
phục vụ. Vì thế, trong xã hội có giai cấp, trí thức bao giờ cũng thuộc về giai cấp này
hay giai cấp khác (thường thì thuộc về giai cấp cầm quyền).
Trong xã hội có giai cấp, thì lãnh đạo xã hội bao giờ cũng thuộc về một giai cấp
nhất định - thông qua chính đảng, nhà nước và các tổ chức của nó. Ở bất cứ xã hội có
25