Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

tìm hiểu sự biến đổi của cùng lặp lại thuộc orf94, orf125 của virus gây bệnh đốm trắng trên tôm sú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.3 KB, 52 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






TÔ VŨ AN






TÌM HIỂU SỰ BIẾN ĐỔI CỦA VÙNG LẶP LẠI THUỘC
ORF94, ORF125 CỦA VIRUS GÂY BỆNH ĐỐM TRẮNG
TRÊN TÔM SÚ (Penaeus monodon)
TẠI CÀ MAU








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN








2008

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






TÔ VŨ AN




TÌM HIỂU SỰ BIẾN ĐỔI CỦA VÙNG LẶP LẠI THUỘC
ORF94, ORF125 CỦA VIRUS GÂY BỆNH ĐỐM TRẮNG
TRÊN TÔM SÚ (Penaeus monodon)
TẠI CÀ MAU




LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

CHUYÊN NGÀNH BỆNH HỌC THỦY SẢN





CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Th.s TRẦN THỊ TUYẾT HOA







2008
MỤC LỤC
Phần I: Giới thiệu 1
Mục tiêu của đề tài 2
Nội dung nghiên cứu 2
Phần II: Tổng quan tài liệu 3
2.1 Tình hình nuôi tôm biển 3
2.1.1Trên thế giới 3
2.1.2 Việt Nam 4
2.1.3 Đồng bằng sông Cửu Long 4
2.1.4 Cà Mau 5
2.2 Tình hình dịch bệnh trong nuôi tôm
6
2.2.1 Trên thế giới 6
2.2.2 Trong nước và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long 6

2.3 Ảnh hưởng của bệnh đốm trắng đến nghề nuôi tôm 7
2.4 Đặc điểm của tác nhân gây bệnh đốm trắng 8
2.4.1 Tác nhân gây bệnh 8
2.4.2 Triệu chứng…… 8
2.4.3 Phương thức lây truyền và loài cảm nhiễm 8
2.4.4 Chẩn đoán…………………………… 9
24.5 Phòng ngừa và xử lý bệnh 9
2.4 Một số nghiên cứu bệnh đốm trắng 10
2.6 Kỹ thuật PCR và các ứng dụng 14
2.6.1 Quy trình 14
2.6.2 Những ứng dụng của PCR 15
2.6.3 Hạn chế 15
Phần III: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 16
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu 16
3.2 Vật liệu nghiên cứu 17
3.2.1 Mẫu vật 17
3.2.2 Dụng cụ 17
3.2.2.1 Dụng cụ thu mẫu 17
3.2.2.2 Dụng cụ phân tích PCR 17
3.2.3 Hóa chất 17
3.2.3.1 Phân tích PCR 17
3.4 Phương pháp Nested-PCR 17
3.4.1 Qui trình ly trích DNA 18
3.4.2 Qui trình khuếch đại 18
3.4.3 Cách chuẩn bị phản ứng 18
3.4.4 Chạy điện di 18
3.4.5 Đọc kết quả 19
3.5 PCR-genotyping 19
3.5.1 PCR-Genotyping khuếch đại vùng lặp lại thuộc ORF94 19
3.5.1.1 Điều kiện phản ứng 19

3.5.1.2 Thành phần hóa chất tham gia phản ứng PCR-genotyping 19
3.5.1.3 Đọc kết quả 20
3.5.2 PCR-Genotyping khuếch đại vùng lặp lại thuộc ORF125 21
3.5.2.1 Điều kiện phản ứng 21
3.5.2.2 Thành phần hoá chất tham gia phản ứng PCR-genotyping 21
3.5.2.3 Đọc kết quả 22
Phần IV: Kết quả và thảo luận 23
4.1 Kết quả xác định sự hiện diện của WSSV trong các mẫu tôm 23
4.2 Kết quả phân tích PCR-genotyping 27
4.2.1 Kết quả PCR-genotyping khuyếch đại vùng lặp lại thuộc ORF94. 27
4.2.1.1 Phản ứng PCR-genotyping (ORF94) thực hiện theo qui trình của
Trần Thị Mỹ Duyên, (2006) 27
4.2.1.2 Kết quả phân tích các mẫu WSSV thu tại Cà Mau
(PCR-genotyping-ORF94) 29
4.2.2 Kết quả PCR-genotyping khuyếch đại vùng lặp lại
thuộc ORF125 32
4.2.3 Mối liên hệ giữa số vùng lặp lại thuộc ORF94 và ORF125 35
Phần V: Kết luận và đề xuất 37
5.1 Kết Luận 37
5.2 Đề xuất 37
Phần VI: Tài liệu tham khảo 38
Phần VII: Phụ lục 42




















DANH SÁCH HÌNH
Hình 4.1: Thể hiện tỉ lệ cảm nhiễm WSSV 25
Hình 4.2: Kết quả điện di sản phẩm PCR của mẫu tôm trong các ao có
dấu hiệu đốm trắng tại Cà Mau bằng gel 1% 25
Hình 4.3: Kết quả điện di kiểm tra 10 mẫu sau khi giảm thể tích 28
Hình 4.4: Kết quả điện di khuyếch đại vùng lặp lại thuộc ORF94 trên
mẫu WSSV thu ở Cà Mau 30
Hình 4.5: Kết quả điện di khuyếch đại vùng lặp lại thuộc ORF94 trên
mẫu thu ở Cà Mau 32
Hình 4.6: Kết quả điện di khuyếch đại vùng lặp lại thuộc ORF125 trên
mẫu WSSV thu ở Cà Mau 34













i
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 3.1: Thành phần và nồng độ hoá chất thực hiện phản ứng PCR-
genotyping (ORF94) 20
Bảng 3.2: Thành phần và nồng độ hoá chất thực hiện phản ứng PCR-
genotyping (ORF125) 21
Bảng 4.1: Một vài thông tin về ao nuôi nhiễm WSSV trong các mẫu tôm
tại Cà Mau 26
Bảng 4.2: Cường độ nhiễm của 10 mẫu kiểm tra 28
Bảng 4.3: Kết quả phân tích các nhóm vùng lặp lại thuộc ORF94 trong
các ao tôm thu ở Cà Mau 29
Bảng 4.4: Kết qủa phân tích các nhóm vùng lặp lại thuộc ORF125 trong
các ao tôm thu tại Cà Mau 33
Bảng 4.5: Kết quả PCR-genotyping khuyếch đại vùng lặp lại thuộc
ORF94, ORF125 35

ii
LỜI CẢM TẠ

Xin chân thành cảm ơn cô Trần Thị Tuyết Hoa đã tận tình chỉ dẫn trong suốt quá
trình thực hiện đề tài này.
Chân thành cảm ơn thầy cô Khoa Thủy Sản, các bạn lớp BHTS và NTTS K30 đã
tận tình giúp đở trong suốt quá trình học tập và làm luận văn này.
Xin cảm ơn cha, mẹ, chị, em là một chổ dựa vững chắc cho sự nghiệp và tương lai
của bản thân.
Tác giả

Tô Vũ An

TÓM TẮT
Cà Mau là tỉnh có diện tích và sản lượng tôm nuôi cao nhất cả nước. Nhưng trong
những năm gần đây thì tình hình dịch bệnh bùng phát ở nhiều nơi nó gây trở ngại
đối với người nuôi tôm nhất là bệnh đốm trắng do tác nhân White Spot Syndrome
Virus (WSSV). Theo những nghiên cứu gần đây cho thấy WSSV đã có nhiều biến
đổi về mặt cấu trúc di truyền. Nghiên cứu được thực hiện để tìm hiểu về đặc điểm
gen của virut gây bệnh đốm trắng trên tôm sú nuôi tại Cà Mau và khả năng ứng
dụng của vùng lặp lại thuộc ORF94 và ORF125 trong nghiên cứu dịch tể học của
Virut gây bệnh đốm trắng. Kết quả phân tích 60 mẫu tôm dương tính với WSSV
của 12 ao trong tổng số 24 ao thu tại Cà Mau sử dụng phương pháp PCR-
genotyping khuyếch đại vùng lặp lại thuộc ORF94 và ORF125 cho thấy có sự biến
động về cấu trúc di truyền của WSSV trên tôm sú tại Cà Mau. Kết quả cho thấy số
vùng lặp lại trên bộ gen của WSSV giữa các ao thì khác nhau. Trong cùng một ao
nhiễm WSSV thì số vùng lặp lại thường giống nhau 9/12 ao đối với ORF94 và
10/12 ao đối với ORF125. Đối với ORF94 đã xác định được 7 nhóm vùng lặp lại
(4 đến 10 vùng lặp lại) trong đó kiểu gen có 6, 8 vùng lặp lại chiếm tỉ lệ cao nhất
24,6%. Còn ORF125 thì có 5 nhóm vùng lặp lại (từ 4 đến 8 vùng lặp lại) trong đó
kiểu gen có 6 vùng lặp lại chiếm tỉ lệ cao nhất 47%. Sự khác biệt giữa các vùng
lặp lại thuộc ORF94, và ORF125 trên bộ gen WSSV trong các ao tôm bệnh đốm
trắng cho thấy đang tồn tại nhiều kiểu gen WSSV khác nhau có khả năng gây
bệnh đốm trắng trên tôm. Kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng trong nghiên cứu về
sự lan truyền và phân bố WSSV, làm cơ sở cho việc phòng ngừa và kiểm soát sự
bùng phát của bệnh đốm trắng do WSSV gây ra.

1

PHẦN I
GIỚI THIỆU

Cà Mau là tỉnh nằm ở tận cùng cực nam của tổ quốc có ba mặt giáp biển và hệ
thống sông ngòi chằng chịt nên rất thuận lợi cho nghề nuôi trồng thủy sản phát
triển. Từ những đầu thập niên 80 nghề nuôi trồng thủy sản ở Cà Mau (đặc biệt là
nghề nuôi tôm sú) đã dần dần phát triển với hình thức nuôi quãng canh truyền
thống nhưng năng suất nuôi thấp. Để tăng năng suất thì việc chuyển đổi từ hình
thức nuôi quãng canh truyền thống sang bán thâm canh và thâm canh là rất cần
thiết. Do hiệu quả kinh tế mà nghề nuôi tôm đem lại nên diện tích và sản lượng
tôm nuôi ở Cà Mau không ngừng tăng trong những năm gần đây. Xuất khẩu thủy
sản được xem là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và trong khu
vực.
Việc thâm canh hóa trong nuôi tôm sú không những tăng năng suất mà còn làm
tăng nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Theo thống kê của Bộ Thủy sản mỗi năm có
hàng nghìn hecta ao nuôi tôm thương phẩm phải thu hoạch sớm do bệnh trong đó
80% là bệnh đốm trắng. Đây là bệnh nguy hiểm chúng có khả năng lây lan nhanh
trong ao và gây thiệt hại lớn (có thể gây chết đến 100% sau 3 - 10 ngày nhiễm
bệnh) mà còn có khả năng lây lan qua các khu vực lân cận qua nguồn nước hay
các loài giáp xác. Nhưng mức độ gây hại của chúng rất khác nhau ở các vùng và
các vụ trong năm (có những ao tôm bị nhiễm đốm trắng thì tôm chết rất nhanh
nhưng cũng có ao nuôi bị nhiễm đốm trắng tôm vẫn phát triển bình thường đến khi
thu hoạch). Vấn đề này cũng có nhiều giả thiết được đặt ra như: điều kiện môi
trường, quản lý và chăm sóc sức khỏe tôm nuôi, tác nhân gây bệnh: sự biến đổi
kiểu gen WSSV. Do vậy,
Đề tài: "Tìm hiểu sự biến đổi của vùng lặp lại thuộc ORF94, ORF125 của
virus gây bệnh đốm trắng trên tôm sú (Penaeus monodon) tại Cà Mau" được
thực hiện.

2


Mục tiêu của đề tài

Tìm hiểu về đặc điểm gen của virus gây bệnh đốm trắng trên tôm sú nuôi tại Cà
Mau và khả năng ứng dụng của vùng lặp lại thuộc ORF94, ORF125 trong nghiên
cứu dịch tể học của virus gây bệnh đốm trắng.
Nội dung nghiên cứu
* Xác định sự hiện diện của WSSV trong các mẫu tôm sú thu được tại Cà Mau
bằng phương pháp Nested-PCR.
* Phân tích các dòng WSSV thu được với phương pháp PCR-genotyping khuếch
đại vùng lặp lại thuộc ORF94, ORF125.














3


PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tình hình nuôi tôm biển
2.1.1 Trên thế giới
Trên thế giới nghề nuôi trồng thủy sản đặc biệt là nghề nuôi tôm biển đã xuất hiện

rất lâu nhưng nuôi tôm công nghiệp chỉ mới xuất hiện ở những năm 30 của thế kỷ
XX ( Nguyễn Văn Hảo, 2003). Nuôi tôm công nghiệp cung cấp hơn 1/3 sản lượng
tôm nuôi, nhưng diện tích chỉ chiếm khoảng 5% tổng diện tích. Từ đó, nuôi tôm
công nghiệp phát triển mạnh và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều nước.
Nghề nuôi tôm thương phẩm đã nổi lên như một trong các hệ thống sản xuất thực
phẩm có tốc độ phát triển nhanh nhất trên Thế giới và các nước Đông Nam Á và là
nguồn thu ngoại tệ chủ yếu. Đến năm 1980 qui mô và diện tích nuôi tôm biển gia
tăng và phát triển theo hướng ngày càng thâm canh hóa. Thái Lan là nước có sản
lượng tôm đứng đầu thế giới kế đến là Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ,
Bangladesh, Việt Nam (Nguyễn Văn Hảo, 2003).
Nuôi trồng thủy sản trên Thế giới tăng nhanh trong những năm qua với tốc độ
7,6%, đạt 37,5 triệu tấn vào năm 2001, chiếm 29,1% tổng sản lượng thủy sản (Lê
Xuân Sinh, 2005), đến năm 2003 sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 41,9 triệu
tấn. Sản lượng tôm biển tăng rất nhanh, năm 2000 thì sản lượng tôm biển đạt được
1.087.900 tấn (Lê Xuân Sinh, 2003), đến năm 2002 sản lượng này tăng lên
1.292.000 tấn. Nhưng trước đó sản lượng nuôi tôm trên Thế giới có xu hướng
giảm. Cụ thể, năm 1994 sản lượng tôm biển trên thế giới là 733.000 đến năm 1995
giảm còn 712.000 và tiếp tục giảm còn 693.000 tấn vào năm 1996 đến năm 1997
còn 660.000 tấn (World Shrimp Farming,1997 trích dẫn bởi Lê Xuân Sinh, 2003).
Sản lượng tôm giảm trong những năm này là do dịch bệnh bùng phát và gây thiệt

4

hại ở nhiều nước như Thái lan, Việt Nam (1994- 1996), Peru (1997), các quốc gia
dọc bờ biển Đông và Tây Ấn Độ (1994-1995), Indonesia, Philippines (1996).
2.1.2 Việt Nam
Việt Nam với bờ biển trải dài 3.260 km từ Quảng Ninh đến Cà Mau vòng qua
Kiên Giang nên rất có tiềm năng cho nuôi trồng thủy sản nước lợ phát triển. Diện
tích nuôi tôm gia tăng nhanh chóng từ 50.000 ha (1985) lên đến 295.000 ha (1998)
với 30 tỉnh nuôi tôm sú và tăng lên 449.275 ha (2001). Đến năm 2004 diện tích

nuôi tôm nước lợ cả nước khoảng 600.000 ha, với mô hình nuôi quãng canh cải
tiến là chủ yếu, ngoài ra còn có các mô hình bán thâm canh, thâm canh chiếm diện
tích nhỏ trong đó nuôi thâm canh đạt được năng suất cao khoảng 5 -7 tấn/ ha.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có diện tích nuôi lớn nhất cả nước có khoảng
680.000 ha (2005). Sản lượng tôm cùng tăng theo từ 65.282 tấn (1999), tăng lên
103.845 (2000) đến năm 2001 sản lượng tôm nuôi là 162.713 tấn (Lê Xuân Sinh,
2003), và sản lượng tiếp tục tăng đến 210.000 tấn (2003) (Nguyễn Văn Hảo,
2004). Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủy sản năm 2005 là 2,65 tỷ USD (Tạp
chí khuyến ngư Việt Nam số 45), Năm 2007, xuất khẩu thủy sản của cả nước đã
đạt khoảng 925 nghìn tấn trị giá 3,756 tỷ USD, tăng 12,2% về khối lượng và 14%
về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, trị giá xuất khẩu trên khi được bổ
sung đầy đủ số liệu luỹ kế của cả năm, rất có thể đạt đến mức 3,8 tỷ USD. (Báo
thương mại, 2008). Việc xuất khẩu thủy sản được xem là một trong các ngành
kinh tế mũi nhọn ở Việt Nam.
2.1.3 Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu long là vùng nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước và cũng là
một trong các ngành kinh tế mũi nhọn của vùng. Tổng diện tích nuôi tôm của khu
vực ở năm 2003 chiếm 88% diện tích nuôi tôm của cả nước, sản lượng 146.000
tấn, chiếm 69.5% sản lượng tôm của cả nước, với hình thức nuôi quãng canh cải
tiến là chủ yếu như tôm rừng tập trung chủ yếu ở Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh,
tôm lúa ở Cà Mau, Kiên Giang, Sóc Trăng, bán thâm canh ở Sóc Trăng, Thâm

5

Canh ở Sóc Trăng, Bạc Liêu. Sóc Trăng là tỉnh có nghề nuôi tôm với tốc độ thâm
canh hóa cao, năng suất bình quân cao nhất vùng. Năm 2005, tổng diện tích nuôi
tôm của Sóc Trăng là 43.211 ha, sản lượng 42.817 tấn, trong đó diện tích nuôi
thâm canh và bán thâm canh là 17.481 ha, sản lượng tôm nuôi thâm canh là 13.400
tấn, bán thâm canh là 17.850 tấn, quãng canh cải tiến là 11.567 tấn (Sở Thủy Sản
Sóc Trăng, 2005). Năm 2005, Bạc Liêu có diện tích nuôi tôm là 116.473 ha, trong

đó có 10.929 ha nuôi thâm canh và bán thâm canh, sản lượng đạt 63.616 tấn (Sở
Thủy Sản Bạc Liêu, 2005)
2.1.4 Cà Mau
Cà Mau là tỉnh có diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước mà
chủ yếu là thủy sản nước lợ. Do Cà Mau có ba mặt giáp biển, hệ thống sông ngòi
chằng chịt, nguồn tài nguyên và nguồn lao động dồi dào nên rất thuận lợi cho thủy
sản phát triển. Diện tích và sản lượng nuôi tôm trong những năm 1981 có 14.000
ha đạt 4.500 tấn, năm 1991 tăng lên 60.000 ha, 28.600 tấn, và năm 2000 có tới
153.373 ha với 35.700 tấn (Phùng Văn, 2005)
Năm 2001 có 217.898 ha; năm 2002 có 239.398 ha; năm 2003 có 245.338 ha; năm
2004 có 248.174 ha. Trong diện tích nuôi năm 2004 có các loại hình nuôi chủ yếu
là: tôm-rừng 46.300 ha, tôm-lúa 43.600 ha, tôm-vườn 22.000 ha, nuôi tôm công
nghiệp 580 ha, còn lại là nuôi tôm dạng sinh thái (Phùng Văn, 2005)
Năm 2008, Cà Mau có diện tích nuôi tôm 249.000 ha, gồm 35.000 ha rừng - tôm,
40.000 ha lúa - tôm, 1.000 ha tôm - vườn, 900 ha tôm công nghiệp, còn lại là diện
tích chuyên tôm dạng sinh thái (Nguyễn Tiến Hưng, 2008).
2.2 Tình hình dịch bệnh trong nuôi tôm
2.2.1 Trên thế giới
Phong trào nuôi trồng thủy sản trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ nhất là
nghề nuôi tôm châu Á - Thái Bình Dương vào những năm của thập kỷ 80 và lịch
sử bệnh tôm cũng gắn liền với phong trào nuôi đó. Công nghệ nuôi tôm ở các

6

nước châu Á tuy phát triển mạnh nhưng phải đối phó với vấn đề dịch bệnh và sự
suy thoái của môi trường, đã gây ra nhiều thiệt hại cho người nuôi. Ở Trung Quốc
sản lượng tôm nuôi giảm mạnh khoảng 120.000 tấn trong năm 1993, trong khi đó
ở Đài Loan sản lượng liên tục giảm từ đỉnh cao 88.000 tấn vào năm 1987 xuống
còn 12.000 tấn ở năm 1993. Trong khoảng thời gian từ 1993 - 1995 sản lượng tôm
ở Indonesia và philippines giảm tương ứng 48% và 58% (Nguyễn Văn Hảo, 2003).

Ở nhiều quốc gia do phát triển quá mức nghề nuôi nên phải chịu những hậu quả:
tài nguyên môi trường bị cạn kiệt, sử dụng nhiều nông dược, hóa chất, phá rừng,
lấn đất nông nghiệp làm cho đất bị nhiễm mặn, nguồn nước bị ô nhiễm. Việc thâm
canh hóa ngày càng cao làm bệnh bùng phát khắp nơi như Trung Quốc, Ecuador,
Indonesia (1992), Việt Nam, Thái Lan (1994 - 1996), Đài Loan, Philippines
(1993), Với các tác nhân gây bệnh chủ yếu là vi khuẩn, virus, ký sinh trùng,
nấm. Nhưng bệnh do virus gây tác hại nghiêm trọng nhất như MBV (Monodon
Baculovirus), WSSV (White Spot Syndrome Virus), YHV (Yellow Head
Virus)…Dịch bệnh đã làm giảm sản lượng tôm trên thế giới từ 733.000 tấn năm
1994 còn 712.000 tấn năm 1995, còn 693.000 tấn 1996 đến năm 1997 còn 660.000
tấn (Nguyễn Văn Hảo, 2003). Như vậy dịch bệnh là một trở ngại rất lớn cho sự
phát triển nuôi trồng thủy sản trên Thế giới.
2.2.2 Trong nước và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
Theo thống kê của Bộ Thủy sản năm 1995, từ năm 1993 - 1995 dịch bệnh đã báo
động trên toàn quốc nó đã gây thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng. Trong năm 1994, có
84.558 ha bị dịch bệnh, sản lượng bị thiệt hại 5.225 tấn trị giá 294 tỷ đồng
(Nguyễn Văn Hảo, 2003). Đến năm 2001 dịch bệnh bùng phát ở miền Nam gồm
các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Tiền Giang… Trong đó Bạc Liêu có diện
tích thiệt hại cao nhất là 47.333 ha, Sóc Trăng là 10.000 ha (Nguyễn Văn Hảo,
2004). Năm 2002 Cà Mau có 137.000 ha, Sóc Trăng Có 16.702 ha, Bạc Liêu có
89.841 ha bị thiệt hại do bệnh, trong đó có 18.890 ha bị thiệt hại hoàn toàn
(Nguyễn Minh Niên, 2004). Ở Sóc Trăng đến tháng 10/2007 thì trong năm số hộ

7

nuôi lỗ là 3.908 chiếm 14.68%, diện tích thiệt hại 4.110 ha do bệnh phân trắng (
Sở Thủy sản Sóc Trăng, 2007).
Từ đầu năm 2008 đến nay, Cà Mau có hơn 39.000 ha diện tích tôm nuôi bị chết,
với mức độ thiệt hại bình quân từ 25 đến 30%. Trong tháng 6/2008, hiện tượng
tôm chết xảy ra trên diện rộng ở các huyện như Ngọc Hiển: hơn 10.000 ha, Đầm

Dơi: 4.300 ha và Năm Căn trên 800 ha. Nguyên nhân là do thời tiết diễn biến bất
thường, nhiệt độ dao động ngày đêm chênh lệch nhau, các đầm nuôi bị khô cạn
do nắng nóng kéo dài làm tôm suy yếu, phát sinh dịch bệnh (Tuyết Anh, 2008).
2.3 Ảnh hưởng của bệnh đốm trắng đến nghề nuôi tôm
Năm 1960 đã phát hiện virus gây bệnh trên trên giáp xác, đến năm 1990 xác định
bệnh do virut là trở ngại lớn cho nghề nuôi tôm, đặc biệt là bệnh do virut đốm
trắng. Năm 1992, các ao nuôi thâm canh đã gặp trở ngại về bệnh đốm trắng có hơn
80% số trại bị thất bại tại Indonesia. Năm 1994, bệnh đốm trắng gây tỷ lệ chết cao
và làm tổn thất lớn đến nghề nuôi tôm công nghiệp ở Trung Quốc, Nhật Bản,
Indonesia, Ấn Độ, Đài Loan. Năm 1996 ở Thái Lan dịch bệnh đốm trắng bùng
phát làm thiệt hại khoảng 40% tổng sản lượng, thiệt hại khoảng 500 triệu USD.
Virus gây bệnh đốm trắng WSSV lần đầu tiên được báo cáo ở Nhật vào năm 1993,
nhưng trước đó năm 1989 ở đã có báo cáo sự xuất hiện bệnh đỏ thân trên tôm sú
đây là dấu hiệu đi kèm với đốm trắng. Bệnh này đã làm giảm sản lượng tôm trên
thế giới từ 733.000 tấn năm 1994 còn 712.000 tấn năm 1995, còn 693.000 tấn
1996 đến năm 1997 còn 660.000 tấn (Nguyễn Văn Hảo, 2003). Theo thống kê của
Bộ Thủy Sản mỗi năm có hàng ngàn hecta ao nuôi tôm thương phẩm phải thu
hoạch sớm do bệnh trong đó 80% là bệnh đốm trắng. Năm 2003 Sóc Trăng có
16.346 ha bị thiệt hại hoàn toàn chiếm 40% diện tích, cuối năm 2004 diện tích tôm
nuôi bị mất trắng là 18.231 ha.



8

2.4 Đặc điểm của tác nhân gây bệnh đốm trắng
2.4.1 Tác nhân gây bệnh
Bệnh đốm trắng do virus gây hội chứng đốm trắng WSSV gây ra trên tôm he
(Penaeid). WSSV được tìm thấy ở nhóm tôm he và các loài giáp xác khác: tôm
nước ngọt, cua, tôm hùm, chân chèo và ấu trùng côn trùng. Bệnh được báo cáo

đầu tiên ở Nhật Bản vào năm 1993 trên tôm nhập từ Trung Quốc về nuôi (Trần
Thị Tuyết Hoa, 2004). Trước năm 2002, có 3 chủng Baculovirus gây bệnh đốm
trắng hoặc còn gọi là virus Trung Quốc. Tuỳ từng nước nghiên cứu chúng có tên
gọi và kích thước khác nhau. Đến hội nghị virus học quốc tế lần thứ 12 (Paris,
2002) các tác giả: Just M. Vlak, Jean-Robert Bonami, Tim W. Flegel, Guang-
Hsiung Kou, Donald V. Lightner, Chu-Fang Lo, Philip C. Loh, Peter J. Walker đã
phân loại virus gây hội chứng đốm trắng là một giống mới Whispovirus thuộc họ
mới Nimaviridae (Vlak et al., 2002). Virus được tìm thấy ở nhiều cơ quan khác
nhau như: chân bơi, mang, dạ dày, cơ bụng, huyết tương, ruột giữa, tim, chân bò,
lympho, màng bao bọc, mô thần kinh, gan, tinh hoàn, buồng trứng, tinh dịch,
cuống mắt (Lo et al, 1997).
2.4.2 Triệu chứng
Đặc trưng của bệnh này là tôm bơi lội lờ đờ, yếu ớt, bỏ ăn, di chuyển chậm chạp,
cơ thể có thể chuyển sang màu hồng hoặc hơi đỏ, phía dưới giáp đầu ngực có
những đốm trắng từ 1mm đến vài mm. Bệnh thường xuất hiện ở thời điểm 1 – 2
tháng sau khi nuôi, khi môi trường nuôi bắt đầu xấu đi (Bùi Quang Tề, 2003). Khi
tôm bị bệnh đốm trắng có thể chết 100% trong 3 – 10 ngày (Lightner, 1996).
2.4.3 Phương thức lây nhiễm và loài cảm nhiễm
Theo Trần Thị Tuyết Hoa, 2004 hiện nay bệnh đốm trắng ảnh hưởng lớn đến các
loài tôm có giá trị kinh tế thuộc họ Penaeid Một số loài tôm bị nhiễm WSSV như
P. monodon, P. japonicus, P. chinens, P. indicus… Bên cạnh đó WSSV được phát
hiện cảm nhiễm trên 40 loài giáp xác: tôm, cua, còng, copepod, thậm chí là ấu

9

trùng côn trùng. Theo Bùi Quang Tề, (2003) thì bệnh đốm trắng lây theo chiều
ngang là chính. Virus lây từ các giáp xác khác (tôm, cua, chân chèo) nhiễm bệnh
đốm trắng từ môi trường bên ngoài ao hay ngay trong ao nuôi tôm. Khi các loài
tôm nhiễm đốm trắng trong ao sức khoẻ của chúng yếu hoặc chết các con khoẻ ăn
chúng dẫn đến bệnh lây lan càng nhanh hơn. Có thể một số loài chim nước đã ăn

tôm bị bệnh đốm trắng từ ao khác và bay đến ao nuôi đã mang theo các mẫu thừa
và rơi vào ao.
2.4.4 Chẩn đoán
Lightner, (1996) đã đưa ra phương pháp mô học để chẩn đoán bệnh đốm trắng.
Với phương pháp này ta có thể quan sát được thể vùi WSSV phì đại trong nhân
của tế bào bị nhiễm nó bắt màu của thuốc nhuộm Hematoxylin và Eosin.
Dựa trên dấu hiệu đặc trưng là xuất hiện các đốm trắng dưới vỏ. Kết hợp với chẩn
đoán bằng phương pháp mô học: Quan sát nhân của tế bào biểu bì dưới vỏ, tế bào
biểu bì tuyến anten, tế bào cơ quan Lympho, tổ chức liên kết của vỏ, mang, tế bào
biểu bì dạ dày,…Khi nhuộm Hematoxylin và eosin các nhân tế bào có thể vùi lớn
bắt màu đỏ đồng đều. Và sử dụng kỹ thuật PCR và enzyme miễn dịch (Bùi Quang
Tề, 2003).
2.4.5 Phòng ngừa và xử lý bệnh
Hiện nay bệnh đốm trắng chưa có phương pháp nào chữa trị có hiệu quả, do đó để
nuôi tôm có hiệu quả thì việc phòng bệnh phải được quan tâm hàng đầu. Để phòng
bệnh đốm trắng có hiệu quả thì chúng ta phải phòng bệnh tổng hợp (Trần Thị
Tuyết Hoa, 2004), tức là phải làm tốt các khâu từ việc vệ sinh trại, lựa chọn tôm
bố mẹ, chọn giống tốt, cải tạo ao nuôi, xử lý nước, nuôi với mật độ vừa phải, cho
ăn thức ăn có chất lượng tốt, chăm sóc và quản lý sức khoẻ ao nuôi…




10

2.5 Một số nghiên cứu bệnh đốm trắng
Bệnh đốm trắng được báo cáo đầu tiên ở Nhật Bản vào năm 1993 trên tôm nhập từ
Trung Quốc về nuôi (Trần Thị Tuyết Hoa, 2004), cho đến nay bệnh đã xuất hiện
trên khắp thế giới và gây thiệt hại hàng trăm triệu USD/năm chỉ tính riêng ở Châu
Á (Wongteerasupaya et al. 2003). Vì thế có nhiều nghiên cứu được tiến hành

nhằm xác định sự hiện diện của WSSV nhằm đưa ra phương pháp chẩn đoán chính
xác để có cách phòng ngừa hiệu quả như các nghiên cứu của: Lightner, (1996) đã
đưa ra phương pháp mô học để chẩn đoán bệnh đốm trắng. Với phương pháp này
ta có thể quan sát được thể vùi WSSV phì đại trong nhân của tế bào bị nhiễm nó
bắt màu của thuốc nhuộm Hematoxylin và Eosin. Nguyễn Minh Hậu, (2002) sử
dụng phương pháp PCR để xác định tỷ lệ cảm nhiễm đốm trắng. Kết quả có 23%
tôm giống đến tay người nuôi bị nhiễm WSSV. Phạm Trần Nguyên Thảo, (2003)
đã ứng dụng phương pháp mô học để chẩn đoán bệnh đốm trắng và so sánh với kết
quả PCR. Kết quả cho thấy phương pháp mô học chỉ có thể phát hiện virus khi đã
xâm nhập và gây tổn thương tế bào, do đó không thể phát hiên giai đoạn sớm.
Vaseeharan et al., (2003) sử dụng phương pháp PCR đã nghiên cứu về sự xuất
hiện và phân bố WSSV ở tôm nuôi, tôm tự nhiên và giáp xác. Phương pháp thực
hiện với 630 mẫu tôm trong đó có 280 mẫu tôm post thu từ 9 trại giống và 350
mẫu tôm nuôi ( 40 - 60 ngày tuổi) từ 18 ao khác nhau. Kết quả 53% mẫu dương
tính với WSSV khi thực hiện PCR một bước. Okumura et al., (2004) đã dùng kỹ
thuật RPLA (Reversed passive latex agglutination) để phát hiện WSSV từ mô dạ
dày trên tôm he Nhật bản (Penaeus japonicus). Kỹ thuật này sử dụng hạt tổng hợp
có tỷ trọng cao và kháng thể đa dòng đặc hiệu, WSSV được phát hiện sau 12 giờ ủ
độ chính xác tương đương PCR.
Những nghiên cứu về dịch tể học nhằm tìm hiểu đặc điểm gen của virus gây bệnh
đốm trắng để ứng dụng trong việc xác định con đường lây truyền của WSSV như:
Wongteerasupaya et al., (2003) đã nghiên cứu về dịch bệnh đốm trắng trên 65 mẫu
tôm bệnh từ 55 ao tôm nuôi đã bùng phát bệnh đốm trắng ở Thái Lan bằng phương

11

pháp PCR-genotyping sử dụng đoạn mồi khuyếch đại vùng lặp lại thuộc ORF94
để tìm số vùng lặp lại có kích thước 54 bp. Kết quả cho thấy số lần lặp lại từ 6 đến
20 lần, trong đó 8 lần lặp lại chiếm nhiều nhất 32%. Bui Thi Minh Dieu et al.,
(2004) phân tích mẫu tôm sú nhiễm WSSV từ 8 ao khác nhau ở 7 tỉnh thuộc khu

vực Miền Trung và Miền Nam Việt Nam để so sánh các dòng WSSV ở Việt Nam
với dòng WSSV ở Thái Lan (WSSV – TH), Đài Loan (WSSV – TW) và Trung
Quốc (WSSV – CN). Sử dụng các cặp mồi được thiết kế dựa trên đoạn gen của
WSSV thuộc ORF14/15, ORF24/25, ORF75, ORF94, ORF125. Kết quả chứng
minh các dòng WSSV ở việt Nam có cùng nguồn gốc với WSSV – TW (Đài
Loan) và WSSV – TH (Thái Lan) khi sử dụng 2 cặp mồi ORF23/24 và ORF14/15,
và kết quả này cho thấy ORF75 và ORF125 có ý nghĩa quan trọng trong việc
nghiên cứu dịch tể học của bệnh đốm trắng sau này ở Việt Nam. Tran Thi Tuyet
Hoa et al., (2005) sử dụng phương pháp PCR-genotyping khuyếch đại vùng lặp lại
thuộc ORF94 trên các mẫu tôm nuôi và tôm giống ở Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu đã xác định được số vùng lặp lại thuộc ORF94 của WSSV trên tôm giống từ 4
đến 8 và trên tôm nuôi là 4 đến 9 trong đó kiểu gen của WSSV có 7 vùng lặp lại
chiếm tỷ lệ cao nhất. Lê Vân Hải Yến, (2006) sử dụng phương pháp PCR-
genotyping khuếch đại vùng lặp lại thuộc ORF94 để xác định số vùng lặp lại của
virus gây bệnh đốm trắng trên 130 mẫu tôm sú thu tại Sóc Trăng, Trà Vinh. Kết
quả nghiên cứu cho thấy WSSV có 5, 7, 8, 9, 12 vùng lặp lại thuộc ORF94 trong
đó kiểu gen có 8 vùng lặp lại chiếm tỷ lệ cao nhất trên 50%. Triệu Thanh Tuấn,
(2006) cũng sử dụng phương pháp PCR-genotyping khuếch đại vùng lặp lại thuộc
ORF94 để xác định số vùng lặp lại của virus gây bệnh đốm trắng trên 169 mẫu
tôm sú có dấu hiệu đốm trắng thu ở Cà Mau, Bạc Liêu. Kết quả nghiên cứu đã
nghi nhận được vùng lặp lại thuộc ORF94 của WSSV có từ 4 đến 16 vùng lặp lại,
trong đó kiểu gen có 5 vùng lặp lại chiếm tỷ lệ cao nhất (48,8% ở Bạc liêu, 68,4%
ở Cà Mau). Pradeep et al., (2007), đã sử dụng ADN ly trích từ tôm hậu ấu trùng,
tôm nuôi có nhiễm WSSV, đồng thời sử dụng cả tôm tự nhiên và cua của Ấn Độ.
Nghiên cứu tìm hiểu sự thay đổi trên các vùng lặp lại của WSSV đã tìm ra trước

12

đây, bao gồm ORF94, ORF125 và ORF75. Đối với ORF94, có 13 kiểu gen được
tìm thấy với số lần lặp lại từ 2 đến 16. Trong đó lặp lại 7 lần chiếm 11,3%, không

có mẫu nào có số lần lặp lại 11 lần hoặc 15 lần được tìm thấy. Đối với ORF125,
có 11 kiểu gen khác nhau được tìm thấy với số lần lặp lại từ 2 đến 14. Số lần lặp
lại được tìm thấy nhiều nhất là 7 lần chiếm 47,1%, không tìm thấy mẫu nào có số
lần lặp lại 6 lần hoặc 13 lần. Đối với ORF75 tìm thấy 6 kiểu gen khác nhau của
vùng lặp lại. Trong đó các mẫu có cùng số lần lặp lại trên một ORF thì có số lần
lặp lại không giống nhau trên một hoặc cả hai ORF khác. Từ những kết quả trên
cho thấy cả 3 ORF có thể sử dụng để phân tích sự khác nhau và các dòng đặc
trưng của WSSV. Về dịch tể học, ORF94 có vai trò lớn nhất, sau đó đến ORF125
và ORF75.
Để xác định sự ảnh hưởng của bệnh đốm trắng, và tác hại của WSSV đối với tôm
nuôi thì độc lực của WSSV là điều cần quan tâm. Marks et al., (2005) đã sử dụng
kỹ thuật PCR dựa trên các mồi ORF 14/15 và ORF 23/24 để tiến hành phân lập
định danh các dòng WSSV ở Thái Lan. Kết quả cho thấy dòng WSSV được phân
lập vào năm 2005 (WSSV – TH) giống với dòng WSSV được phân lập từ năm
1996 (TH – 96 – II). Đồng thời, khi tiến hành gây cảm nhiễm trên tôm sú để so
sánh độc lực của hai dòng virút này, cho thấy rằng đối với dòng TH – 96 – II gây
chết 50% khoảng 14 ngày còn đối với dòng WSSV – TH chỉ mất 3,5 ngày. Và
nghiên cứu đã khẳng định rằng độc lực của dòng WSSV – TH cao hơn độc lực của
dòng WSSV TH – 96 – II thông qua thí nghiệm LD50.
Khi xác định được tác nhân gây bệnh, phương thức lây truyền, và những ảnh
hưởng của WSSV thì có nhiều nghiên cứu nhằm khống chế sự phát triển và khả
năng gây hại của WSSV như: Witteveldt et al., (2003) đã sử dụng vacxin chứa vỏ
của WSSV để phòng WSSV. Thí nghiệm đã chỉ ra rằng những tôm sống sót sau
khi bị nhiễm WSSV sẽ có tỉ lệ sống cao hơn khi tái cảm nhiễm. Chúng tôi nghiên
cứu khả năng của vacxin cho tôm thông phương pháp cho ăn, vacxin này chứa
protein vỏ của WSSV. Tôm sú (Penaeus monodon) được cho ăn thức ăn viên áo

13

bên ngòai 1 lớp vi khuẩn không họat động biểu hiện 2 lọai protein vỏ của WSSV

là VP19 và VP28. Vacxin chứa VP28 cho thấy tỉ lệ chết của tôm thấp hơn có ý
nghĩa khi so sánh với lô đối chứng (vi khuẩn chỉ chứa vector rổng) thông qua
phương pháp ngâm (tỉ lệ sống 61%), trong khi đó vacxin chứa VP19 không thể
hiện sự bảo vệ nào. Để xác định sự tấn công và thời gian bảo vệ của vacxin, thí
nghiệm cảm nhiễm được thực hiện sau khi sử dụng vacxin 3, 7 và 21 ngày. Tỉ lệ
sống cao hơn có ý nghĩa được quan sát sau khi tôm sử dụng vacxin 3, 7 ngày (64%
và 77%), nhưng sự bảo vệ đã giảm sau 21 ngày (tỉ lệ sống 29%). Trái với những
hiểu biết hiện tại, động vật không xương sống không có hệ thống đáp ứng miễn
dịch nhưng kết quả này cho thấy đáp ứng miễn dịch đặc hiệu và khả năng bảo vệ
có thể tạo ra ở P. monodon. Các thí nghiệm trên mở ra con đường mới phòng
WSSV mang lợi ích cho công nghiệp nuôi tôm. Hứa Quyết Chiến, (2004) đã
nghiên cứu và sử dụng thành công việc sử dụng chế phẩm SH'99 trong việc phòng
bệnh virut đốm trắng trên tôm sú. Khi cho tôm ăn liên tiếp chế phẩm SH'99 ngay
sau khi thả có thể giúp tôm phòng bệnh đốm trắng. Sarathi et al., (2007) đã sử
dụng vi khuẩn có chứa VP28dsRNA vào trong thức ăn viên cho tôm ăn để làm
giảm khả năng gây hại của WSSV. Có hai phương pháp được thử nghiệm. Phương
pháp thứ nhất là trộn vi khuẩn có chứa VP28dsRNA vào trong thức ăn viên cho
tôm ăn. Phương pháp hai trộn phức hợp mảnh nhỏ VP28dsRNA-chitosan vào
trong thức ăn viên cho tôm ăn. Tôm khoẻ được gây cảm nhiễm bệnh đốm trắng
bằng cách cho ăn tôm bị bệnh đốm trắng. Thí nghiệm được thực hiện trong 30
ngày. Kết quả cho thấy ở những lô tôm nhiễm WSSV có cho ăn dsRNA thì tỉ lệ
sống cao hơn tôm ở lô đối chứng (vi khuẩn chứa véc tơ LITMUS38i không mang
đoạn gen VP28). Tỉ lệ sống của tôm ở nghiệm thức sử dụnh vi khuẩn bất hoạt có
chứa WSSV VP28dsRNA là 68%. Trong khi chỉ có 37% tôm sống sót ở nghiệm
thức sử dụng phức hợp mảnh nhỏ VP28dsRNA-chitosan và 100% tôm chết được
ghi nhận ở nghiệm thức đối chứng. Tôm còn sống cho kết quả xét nghiệm cho âm
tính với WSSV bằng phương pháp PCR và Westnern Blot. Dựa trên kết quả đạt

14


được và những lợi thế của dsRNA cho thấy có thể ngăn chặn sự nhiễm WSSV ở
tôm sú bằng cách cho tôm ăn vi khuẩn bất hoạt có chứa VP28dsRNA.
2.6 Kỹ thuật PCR và các ứng dụng
Kỹ thuật nhân DNA đặc hiệu PCR (Polymerase Chain Reaction) do Kary Mullis
phát minh 1985 đã mở ra cuộc cách mạng trong di truyền học phân tử. Kỹ thuật
này là kỹ thuật hoàn toàn mới trong nghiên cứu và phân tích gen, PCR cho phép
tạo ra một số lượng lớn đoạn DNA cần lựa chọn mà không cần tách và nhân dòng
(
2.6.1 Quy trình
Quy trình PCR gồm 20 đến 30 chu kỳ. Mỗi chu kỳ gồm 3 bước:
Bước 1: Nhiệt độ tăng lên 94-96°C để tách hai sợi DNA ra. Bước này gọi là biến
tính, nó phá vỡ cầu nối hydrogen nối 2 sợi DNA. Trước chu kỳ 1, DNA thường
được biến tính đến thời gian mở chuỗi để đảm bảo mẫu DNA và mồi được phân
tách hoàn toàn và chỉ còn dạng sợi đơn. Thời gian: 1-2 phút
Bước 2: Sau khi 2 sợi DNA tách ra, nhiệt độ được hạ thấp xuống để mồi có thể
gắn vào sợi DNA đơn. Bước này gọi là gắn mồi. Nhiệt độ giai đoạn này phụ thuộc
vào đoạn mồi và thường thấp hơn nhiệt độ biến tính 50°C (45-60°C). Sử dụng sai
nhiệt độ trong giai đoạn này dẫn đến việc đoạn mồi không gắn hoàn toàn vào
DNA mẫu, hay gắn một cách tùy tiện. Thời gian: 1-2 phút.
Bước 3: DNA polymerase gắn tiếp vào sợi trống. Nó bắt đầu bám vào và hoạt động
dọc theo sợi DNA. Bước này gọi là kéo dài. Nhiệt độ kéo dài phụ thuộc DNA-
polymerase. Thời gian của bước này phụ thuộc vào cả DNA-polymerase và chiều
dài mảnh DNA cần khuếch đại. (




15

2.6.2 Những ứng dụng của PCR

Kỹ thuật PCR được áp dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo Trần Thị Tuyết
Hoa (2004), kỹ thuật PCR được ứng dụng vào các lĩnh vực sau
Trong thủy sản: (i) Phát hiện nhanh các tác nhân gây bệnh ở dạng tiềm ẩn giúp cho
quá trình chọn lọc cá thể thủy sản có chất lượng tốt trong chọn giống và ương
nuôi; (ii) Chẩn đoán bệnh: điều tra nguyên nhân bùng nổ bệnh và cách giải quyết
khi dịch bệnh xảy ra, đồng thời đề ra hướng ngăn chặn sự xuất hiện của dịch bệnh;
(iii) Phòng bệnh và kiểm soát bệnh: kiểm tra tôm giống và tôm bố mẹ ở các trại
giống, kiểm tra tôm nhập khẩu trước khi cho thả nuôi ở các địa phương.
Trong các lĩnh vực khác: (i) Nghiên cứu khoa học: xác định trình tự đoạn ADN
cần nghiên cứu, phát hiện đột biến, nghiên cứu quá trình tiến hóa phân tử, phục
hồi gen tồn tại hàng triệu năm; (ii) Chọn giống vật nuôi và cây trồng từ đó lựa
chọn được những cá thể bố mẹ thuần chủng, sạch bệnh trong thời gian ngắn; (iii)
Y học và khoa học hình sự: áp dụng để chẩn đoán chính xác các bệnh nhiễm trùng
từ vi rút, vi khuẩn, nấm, chẩn đoán sớm ung thư và các bệnh do di truyền, xác định
huyết thống, truy tìm dấu vết tội phạm.
2.6.3 Hạn chế
Theo Đặng Thị Hoàng Oanh (2007) phương pháp PCR có những hạn chế sau.
Phương pháp PCR thừơng không hoạt động với những đoạn DNA lớn hơn 3 kb,
điều kiện tối ưu cho phản ứng phải qua thực nghiệm.
Sự ngoại nhiễm là vấn đề cực kỳ quan trọng, nguồn ngoại nhiễm lớn nhất thường
là các sản phẩm khuếch đại của những lần thao tác trước.
Sự sai sót do Taq polymerase, cứ 10.000 nucleic thì enzyme gắn sai 1 nucleic.




16

PHẦN III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ tháng 01 đến tháng 07 năm 2008.
Các mẫu tôm có dấu hiệu đốm trắng đã được thu từ các huyện Đầm Dơi (2 ao),
Phú Tân (1 ao), Thới Bình (2 ao), Trần Văn Thời (3 ao), và Thành Phố Cà Mau
(14 ao), tỉnh Cà Mau.
Quá trình phân tích mẫu được thực hiện tại phòng thí nghiệm thuộc Bộ môn sinh
học và bệnh học Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại Học Cần Thơ.

Bảng đồ hành chính tỉnh Cà Mau

×