Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Các hình thức đối thoại trong quan hệ lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.93 KB, 9 trang )

NHẬN DIỆN CÁC HÌNH THỨC ĐỐI THOẠI
TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG
1. Đặt vấn đê
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ
lao động. Mặc dù tầm quan trọng của đối thoại rất lớn nhưng trên thực tế thời gian qua ở
Việt Nam, đối thoại xã hội chưa được coi trọng đúng và chưa có vai trò đóng góp xứng
đáng trong việc cân bằng lợi ích, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, vì mục tiêu phát
triển ổn định, bền vững. Các quy định về chức năng của các tổ chức công đoàn tại các
doanh nghiệp cũng chưa được phát huy hết hiêu lực. Ngoài ra, khảo sát các cuộc đình
công cho thấy, hầu hết các cuộc đình công xảy ra là do xung đột về tiền lương, tiền
thưởng, tiền ngoài giờ và phụ cấp chiếm đa số. Trong khi đó, công tác thanh tra, kiểm tra
của cơ quan quản lý và hoạt động của các đoàn thể chưa được quan tâm đúng mức. Điều
này làm cho quan hệ lao động ngày càng căng thẳng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh và bất lợi cho cả các bên. Nhằm hiểu rõ hơn về các hình thức đối thoại trong
quan hệ lao động bài viết sau đây sẽ trình bày những vấn đề: quan hệ lao động là gì? Thế
nào là đối thoại xã hội trong quan hệ lao động? Tầm quan trọng của đối thoại trong xã
hội? Nhận diện các hình thức đối thoại trong quan hệ lao động.
2. Cơ sở lý luận vê đối thoại trong quan hệ lao động
Thế nào là quan hệ lao động?
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Quan hệ lao động là những mối quan hệ
cá nhân và tập thể giữa người lao động và người sử dụng lao động tại nơi làm việc, cũng
như các mối quan hệ tại nơi làm việc của họ với nhà nước. Những mối quan hệ như thế
xoay quanh các khía cạnh luật pháp, kinh tế, xã hội học và tâm lý học và bao gồm cả
những vấn đề tuyển mộ, thuê mướn, sắp xếp công việc, đào tạo, kỷ luật, thăng chức, buộc
thôi việc, kết thúc hợp đông, làm ngoài giờ, tiền thưởng, phân chia lợi nhuận, giáo dục, y
1


tế, vệ sinh, giải trí, chỗ ở, giờ làm việc, nghỉ ngơi, nghỉ phép, các vấn đề phúc lợi cho
người thất nghiệp, ốm đau, tai nạn, tuổi cao và tàn tật”.
PGS.TS Nguyễn Tiệp có quản điểm rằng: “Quan hệ lao động là hệ thống các mối


quan hệ giữa các cá nhân hay tổ chức người đại diện của người lao động với các cá nhân
hay tổ chức đại diện của người sử dụng lao động hoặc giữa các tổ chức đại diện của họ
với Nhà nước và các chủ thể khác. Những mối quan hệ này diễn ra xoay quanh quá trình
thuê mướn lao động (Giữa người sử dụng lao động và người lao động) nhằm đảm bảo sự
hài hòa và ổn định về lợi ích của các bên liên quan”.
TS. Nguyễn Duy Phúc đã tổng hợp thành một cách hiểu thống nhất là: “Quan hệ
lao động là hệ thống những mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động
tại nơi làm việc hay giữa những tổ chức đại diện của họ với nhau và với nhà nước. Những
mối quan hệ như vậy bị chi phối bởi lợi ích và xoay quanh các vấn đề phát sinh từ hoạt
động thuê mướn lao động”. Bản chất của quan hệ lao động chính là mối quan hệ mua bán,
các nhóm lợi ích bao gồm: người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước (quốc gia
và cộng đồng xã hội), nếu một trong ba bên không hợp tác thì những bên còn lại sẽ không
đạt được mục tiêu và lợi ích của mình. Người lao động còn gọi là người thuê hay người
bán đi sức lao động của mình, người sử dụng lao động là người đi thuê hay người mua
sức lao động của người bán trên thị thường lao động, đơn giản chỉ là mối quan hệ được
thiết lập giữa người bán và người mua. Khi hai bên vi phạm hợp đồng lao động hoặc xảy
ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dẫn đến nền sản xuất trì trệ, ảnh hưởng lợi ích quốc
gia, lợi ích của cộng đồng xã hội thì bên thứ ba là nhà nước sẽ tham gia can thiệp quản lý
cả hai bên bằng cách: quy định, hướng dẫn, kiểm soát,…nhằm đảm bảo về quyền và lợi
ích của các bên liên quan.
Thế nào là đối thoại xã hội trong quan hệ lao động?
Theo tổ chức lao động quốc tế ILO: “Đối thoại xã hội bao gồm tất cả các hình thức
thương lượng, tham khảo ý kiến hay đơn giản chỉ là sự trao đổi thông tin giữa đại diện
chính phủ, đại diện người sử dụng lao động và đại diện người lao động về những vấn đề
cùng quan tâm liên quan tới chính sách kinh tế xã hội”.
2


Theo TS. Nguyễn Duy Phúc: “Đối thoại xã hội trong quan hệ lao động là sự trao
đổi thông tin giữa các chủ thể quan hệ lao động về những vấn đề cần quan tâm. Đối thoại

xã hội biểu hiện thành các hình thức cụ thể như tiếp xúc, chia sẻ thông tin lẫn nhau, tham
vấn và đặc biệt là thương lượng”. Mục tiêu chính của đối thoại xã hội là thúc đẩy xây
dựng sự đồng thuận và sự tham gia dân chủ giữa các bên liên quan chính. Đối thoại xã hội
có thể thực hiện cụ thể và diễn ra ở các cấp như: cấp quốc gia, cấp khu vực, cấp ngành,
cấp vùng hoặc doanh nghiệp. Trong các định nghĩa của đối thoại xã hội thì Tổ chức Lao
động Quốc tế có thể được dùng trong điều kiện cụ thể của nước ta vì nó phản ánh phù hợp
và đầy đủ thực tiễn đối thoại xã hội trong quan hệ lao động ở nước ta.
Đối thoại xã hội có thể là sự tương tác giữa các chủ thể tham gia là các tổ chức đại
diện, tùy thuộc vào số lượng chủ thể tham gia đối thoại xã hội có thể hai bên, ba bên hoặc
nhiều bên tham gia.
Hai bên, liên quan đến người lao động, công đoàn và người sử dụng lao động;
Ba bên, liên quan đến các cơ quan Chính phủ, người lao động, công đoàn và người sử
dụng lao động;
Đa bên, liên quan đến các cơ quan Chính phủ, người lao động/công đoàn, người sử dụng
lao động với các đại diện của xã hội dân sự.
Tầm quan trọng của đối thoại trong xã hội?
Trong điều kiện kinh tế thị trường, đối thoại chính là hình thức và công cụ để giải
quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các bên quan hệ lao động. Đối thoại xã hội là một
khái niệm có thể được hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp trong những điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể khác nhau, mang lại lợi ích lớn cho chủ thể lao động.
Đối với người sử dụng lao động: làm tăng năng suất, lợi nhuận, chất lượng sản
phẩm lao động lâu dài, phát hiện sớm xung đột trong tập thể lao động từ đó có các biện
pháp ngăn ngừa tranh chấp lao động, nâng cao hiệu quả quản lý, đảm bảo sự phát triển,
nâng cao uy tín và giá trị thương hiệu doanh nghiệp. Lập kế hoạch, thời gian, vị trí làm
việc đối với người lao động hợp lý, nhận biết được ưu điểm, nhược điểm của hoạt động
3


sản xuất kinh doanh, tăng cường chia sẻ lợi ích, thông tin với người lao động, không bị
vướng vào các vấn đề giải quyết quan hệ lao động.

Đối với người lao động: đối thoại giúp tăng tinh thần đoàn kết, sự tương trợ, giúp
đỡ lẫn nhau giữa những người lao động trong tập thể, ổn định việc làm đảm bảo nguồn
thu nhâp ổn định giúp cho người lao động ổn định về đời sống sinh hoạt hằng ngày. Phát
triển được năng lực của cá nhân, được tôn trọng và phát huy sáng kiến, sáng tạo, động
viên, hỗ trợ, không bị ức chế, bức xúc, được nói lên quan điểm cá nhân của mình cho đối
tượng sử dụng lao động hiểu nhằm thay đổi những điều chưa tốt trong cơ chế quản lý của
doanh nghiệp.
Đối với quốc gia: giảm thất nghiệp cho người lao động, đảm bảo sự phát triển, ổn
định hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội, giảm tỷ lệ đói nghèo, thu hút các nhà đầu tư,
nguồn nhân lực từ nước ngoài, hiểu biết hơn về các bên tham gia đối thoại. Dự báo vấn đề
nảy sinh trong thực tiễn và giải quyết vấn đề vướng mắc, tồn tại, nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế nước ta trong khu vực quốc tế, nâng cao khả năng thực thi pháp luật
và quản lý bộ máy nhà nước.
Đối thoại tại nơi làm việc là giải pháp tốt nhất nhằm tháo gỡ những xung đột trong
quan hệ lao động, tránh những hậu quả về tranh chấp lao động trong doanh nghiệp. Các
cuộc tranh chấp, ngừng việc tập thể xảy ra trên địa bàn tỉnh thời gian qua chủ yếu là
người lao động kiến nghị về mức lương, cách ứng xử, điều kiện, môi trường làm việc…
3. Nhận diện các hình thức đối thoại trong quan hệ lao động
Đối thoại chia thành bốn loại hình thức: hình thức tiếp xúc, hình thức trao đổi
thông tin, hình thức tham khảo, hình thức thương lượng.
Hình thức đối thoại tiếp xúc là như thế nào?
Là việc các bên trong quan hệ lao động gặp gỡ để tạo quan hệ hay giao thiệp, trao
đổi những vấn đề mình quan tâm để biết và được làm quen với cái gì đó mới mẻ mà trước
đó chưa có dịp hoặc chưa từng được biết đến. Từ đó, các bên xây dựng hình ảnh thân
thiện từ bên ngoài và xác lập những thái độ tích cực về nhau trong quan hệ lao động,
4


trong quá trình tiếp xúc, các bên không nên nêu ra vấn đề cụ thể và phức tạp và những
vẫn đề mà các bên ẩn chứa sự bất đồng sâu sắc. Ấn tượng ban đầu ảnh hưởng rất quan

trọng tới những lần gặp sau này là cơ sở để dàn xếp thành công những vấn đề lớn về sau.
Vì vậy, trong quá trình tiếp xúc mục tiêu cuối cùng là đạt được sự đồng thuận hóa.
Hình thức đối thoại tiếp xúc giữa Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu
thuộc đơn vị bầu cử số 1 sẽ tiếp xúc cử tri các quận Ba Đình, Tây Hồ, Hoàn Kiếm vào
ngày 12/10/2017 sau kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa 14. Thông qua cuộc tiếp xúc các cử tri
hiểu rõ hơn những vấn đề quan trọng, phức tạp và nhạy cảm, có tác động trực tiếp đến đời
sống của nhân dân, đến đông đảo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động
trong cả nước, được xã hội đặc biệt quan tâm và kỳ vọng.
Ngày 27/11/2017, nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tiếp xúc cử tri tại
một số địa phương để thông báo kết quả kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV và lắng nghe ý
kiến của cử tri. Thông qua buổi tiếp xúc các cử tri đã có những ý kiến, kiến nghị của cử tri
đã thể hiện tâm huyết, trách nhiệm của cử tri đối với các vấn đề quan trọng của đất nước,
của tỉnh. Từ buổi tiếp xúc trên lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã hiểu rõ và nắm bắt các vấn đề
đã và đang thực thi trong năm vừa qua như vấn đề chống tham nhũng, buôn bán ma túy,
xâm hại trẻ em. Tại buổi tiếp xúc, cử tri bày tỏ phấn khởi trước kết quả của kỳ họp vừa
qua, nhất là đổi mới trong công tác chất vấn và trả lời chất vấn, đi sâu giải quyết những
vấn đề cử tri quan tâm hiện nay.
Hình thức đối thoại tiếp xúc là hình thức phổ biến giữa các nhà lãnh đạo Đảng,
Nhà nước với cử tri, nhờ có các buổi tiếp xúc mà hai bên sẽ hiểu rõ hơn về các vấn đề
nóng trong địa phương.
Trao đổi thông tin với nhau trong đối thoại là như thế nào?
Trao đổi thông tin xảy ra khi một bên đối tác đưa ra, thông báo những thông tin
mới có liên quan, tác động đến các đối tượng khác. Trao đổi thông tin mang tính một
chiều vì chỉ có một bên quyết định mà bên thứ hai chỉ được biết chứ không được tham gia
vào quyết định này. Trao đổi thông tin được xem là hình thức đối thoại đơn giản, dễ thực
hiện, phổ biến nhất thông qua việc sử dụng bảng tin, báo cáo, thông báo, trang thông tin
5


nội bộ hay văn bản...Tuy nhiên, đây là hoạt động đơn giản nhựng chính là nền tảng cho

một cuộc đối thoại hiệu quả.
Trong mối quan hệ lao động việc trao đổi thông tin giữa doanh nghiệp và người lao
động là điều rất cần thiết như trong hợp đồng lao động, tiền lương, chế độ phúc lợi xã hội
cho người lao động và chế độ an toàn, vệ sinh lao động. Thông qua trao đổi thông tin, các
tổ chức, doanh nghiệp có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm triển khai các hệ thống quản lý, công
cụ năng suất tiên tiến mà các tổ chức, doanh nghiệp đã áp dụng. Việc cải tiến hoạt động
của tổ chức, doanh nghiệp, các thuận lợi, khó khăn, lợi ích mang lại khi các tổ chức,doanh
nghiệp tham gia các hiệp định thương mại tự do.
Ví dụ điển hình là Kho bạc Nhà nước vừa có buổi làm việc với đoàn công tác của
Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Bhutan do ông Dorji Dhap, Trưởng phòng, Vụ Tài
chính công Bộ Tài chính Bhutan làm trưởng đoàn nhằm trao đổi, tìm hiểu học tập kinh
nghiệm về quản lý tài chính công tại Việt Nam. Bà Đặng Thị Thủy – Phó Tổng Giám đốc
Kho bạc Nhà nước đã chia sẻ các kinh nghiệm quản lý trong lĩnh vực tài chính công,
nghiệp vụ kho bạc, đặc biệt là về hệ thống thanh toán điện tử với hệ thống TABMIS (là
trung tâm gắn liền với quá trình cải cách, hiện đại hóa của Kho bạc Nhà nước Việt Nam)
giúp Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Bhutan có được những kinh nghiệm thực tế
thiết thực nhất, để có những chính sách cũng như định hướng phát triển phù hợp nhất đảm
bảo đúng theo nội dung, lộ trình định hướng và mục tiêu phát triển của Bộ Tài chính và
Ngân hàng Nhà nước Bhutan đặt ra. Hai bên cũng dành nhiều thời gian cùng thảo luận,
làm rõ một số nội dung mà đoàn công tác quan tâm như ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động nghiệp vụ của hệ thống
Hình thức đối thoại tư vấn, tham khảo là gì?
Đây là hình thức đối thoại mang tính chất bình đẳng và dân chủ hơn so với trao đổi
thông tin. Hoạt động có thể được diễn ra khi có sự tham gia của nhiều bên đối tác tham
gia vào cuộc họp, các buổi hội thảo hay thông qua các tài liệu, công văn, phếu điều tra
trước đó.

6



Tham khảo là việc mà một bên đối tác trong quan hệ lao động lấy thêm thông tin
để học hỏi, nghiên cứu, xử lý từ các bên khác để ra quyết định. Hình thức đối thoại tư vấn
tham khảo không phổ biến và khó thực hiện hơn so với trao đổi thông tin với nhau. Nhà
quản lý trước khi đưa ra một quyết định mới thường sử dụng hình thức đối thoại tham
khảo tư vấn để lấy thêm thông tin, học hỏi từ các công trình kết qủa của đối tác, bạn bè
hoặc những người đi trước có liên quan đến vấn đề nhà quản lý tham khảo nhằm đảm bảo
quyết định đó là đúng đắn và có tính khả thi. Việc tham khảo nên làm và phải làm bởi vì
chúng ta chỉ có tham khảo của người đi trước thì chúng ta mới tiến lên phía trước được
thôi. Hiện nay, trong quan hệ lao động, chính phủ và người sử dụng lao động sẽ tham
khảo ý kiến của người lao động trước khi đưa ra các quyết định quản lý.
Tham vấn là quá trình tương tác, mối quan hệ giữa bên yêu cầu đối tác, người có
chuyên môn, phẩm chất, kỹ năng nghề nghiệp và bên còn lại có những khó khăn cần giúp
đỡ trong quan hệ lao động. Thông qua sự chia sẻ, lắng nghe, sử dụng các kỹ năng giao
tiếp nhằm giúp đỡ cho bên yêu cầu hiểu, cải thiện và tìm ra cách giải quyết vấn đề của
chính mình qua tập hợp các thông tin mà họ quan tâm trong mối quan hệ hỗ trợ. Giúp đối
tượng hiểu được các sự kiện trong quá khứ có thể đã góp phần vào các vấn đề hiện tại,
giúp đối tượng suy nghĩ và xử sự theo cách khác nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu
cực của các sự kiện trong quá khứ.
Tư vấn là một bên hỏi ý kiến bên khác về vấn đề mà họ không biết, bên tư vấn là
những người có kinh nghiệm nên họ đưa ra ý kiến đúng đắn và có ảnh hưởng rất lớn đến
quá trình ra quyết định. Trong môi trường lao động người lao động sẽ gặp phải những vấn
đề mà mình không biết, không đúng chuyên môn hoặc các vấn đề khúc mắc thì họ nên
tìm nhà quản lý, cấp trên của mình để đối thoại và tìm cho mình một lời tư vấn chính xác.
Hình thức đối thoại hương lượng là gì?
Thương lượng là hương tiện cơ bản giúp chúng ta đạt được những điều mà chúng
ta mong muốn từ người khác, dùng để giải quyết mâu thuẫn giữa các bên, hình thức đối
thoại khó nhất nhưng mang lại hiệu quả cao, là cơ chế tốt nhất để hạn chế tranh chấp lao
động. Thương lượng là quá trình điều chỉnh nhu cầu của các bên , thương lượng là quá
trình đề ra yêu cầu, chịu nhượng bộ và cuối cùng đạt tới nhất trí. Thương lượng có thành
7



công hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc nhận thức của các bên về xung dột lợi ích,
vào khả năng và thiện chí nhượng bộ và vào trình độ đàm phán của các bên tham gia.
Thương lượng là sự thông nhất giữa hợp tác và xung dột, xung đột thể hiện ở việc trong
quá trình thương lượng các bên đều luôn cố gắng giành được hay đạt được lợi ích tối đa
cho mình. Thương lượng chỉ thỏa mãn lợi ích một cách tương đối, nếu một bên nào đó
không được thỏa mãn lợi ích ở một mức tối thiểu chấp nhận được thì chắc chắn bên đó sẽ
rút khỏi bàn đàm phán và cuộc đàm phán đổ vỡ. Nghĩa là muốn đàm phán thành công thì
các bên phải biết chừng mực, giới hạn nhất định trong quá trình tối đa hóa lợi ích bản
thân, biết điều chỉnh lợi ích đó
Thương lượng lao động tập thể là một quá trình khó khăn, tốn nhiều thời gian và
tiền bạc, thương lượng bao gồm thương lượng cá nhân và thương lượng tập thể nhưng
thương lượng lao động tâp thể chính là hình thức đối thoại đặc biệt của quan hệ lao động.
Thương lượng tập thể là một trong những hình thức biểu hiện của quan hệ lao
động, là công cụ để xác định điều kiện lao động và sử dụng lao động tại doanh nghiệp, tạo
điều kiện cho quan hệ lao động phát triển hài hòa, lành mạnh, bền vững, làm cân bằng lợi
ích của hai bên. Đồng thời góp phần phòng ngừa, hạn chế và giải quyết các tranh chấp lao
động phát sinh trong quan hệ lao động. Việc tập thể lao động thảo luận, đàm phán với
người sử dụng lao động xoay quanh việc cải thiện điều kiện lao động và nguyên tắc xử lý
quan hệ lao động. Việc đàm phán, thảo luận này được thực hiện theo một trình tự, thủ tục
nhất định.
Qua những phân tích trên, đưa ra những biện pháp khắc phục của hình thức
đối thoại trong việc phát triển mối quan hệ lao động trong các Doanh nghiệp Việt
Nam:
Trong mối quan hệ lao động vấn đề như Bộ luật Lao động đã có nhiều quy định về
quyền tiếp cận thông tin của người lao động như quyền đối thoại, quyền được cung cấp
thông tin liên quan đến hợp đồng, quyền thương lượng tập thể… Tuy nhiên, thực tế các
quyền này chưa được phát huy. Việc chia sẻ thông tin, tham vấn ở nơi làm việc tại Việt
Nam còn chưa phát triển. Người lao động chủ yếu được thông tin về các nghĩa vụ mà họ

phải thực hiện. Số doanh nghiệp có thương lượng lao động tập thể còn thấp, chỉ khoảng
8


65% nhưng chất lượng còn mang tính hình thức, chủ yếu sao chép luật. Việc thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở cũng còn mang tính hình thức, chiếu lệ.
Ý kiến người lao động mới chỉ tập trung vào việc giải quyết quyền lợi cho người
lao động mà chưa quan tâm nhiều đến giải pháp nâng cao năng suất lao động. Do vậy, cần
chủ động nắm bắt tình hình, đôn đốc kiểm tra, giám sát việc các doanh nghiệp chấp hành
các quy định của pháp luật, khuyến khích doanh nghiệp chăm lo đời sống cho người lao
động để họ an tâm sản xuất bởi đó cũng chính là yếu tố đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp.
Cùng với việc tăng cường kiểm tra giám sát, nhà nước cũng phải luôn tạo điều kiện cho
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ doanh
nghiệp phát triển bền vững, qua đó có nguồn lực tài chính để hỗ trợ người lao động.
Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò của tập thể trong việc thương lượng với người
lao động về tiền tăng ca, xây dựng thỏa ước lao động ngành nhằm tiến tới việc nhà nước
quy định đơn giá bình quân trong một giờ lao động làm thêm cho những lĩnh vực khác
nhau, từ đó làm căn cứ tính toán cho việc tăng ca có hiệu quả hơn, tránh tình trạng lạm
dụng sức lao động của người lao động mà không trả công xứng đáng. Về phía người lao
động cần thể hiện trách nhiệm của mình đối với doanh nghiệp, phải tuân thủ những quy
định của pháp luật nhằm hạn chế cao nhất những xung đột xảy ra. Đối thoại là cơ chế
ngăn ngừa xung đột, tranh chấp hạn chế tối đa mức độ đình công.
Công đoàn công ty cần chủ động tiếp cận, thu thập thông tin từ phía người lao
động thông qua thùng thư góp ý hoặc sinh hoạt tổ công đoàn. Những ý kiến thắc mắc của
người lao động sẽ được trình lên ban giám đốc xem xét, giải quyết. Khi xây dựng thỏa
ước lao động tập thể, các bên đều phải tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, công
khai và đúng pháp luật. Hơn nữa, những nội dung đưa ra thương lượng đều là nguyện
vọng, tâm huyết của người lao động, công đoàn chỉ là tổ chức đại diện cho người lao
động đứng ra đàm phán bảo đảm dân chủ, đúng pháp luật.


9



×