Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Luận văn thạc sỹ - Pháp luật về Doanh nghiêp tư nhân ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.38 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
Ở VIỆT NAM

PHÙNG ĐỨC DŨNG

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
Ở VIỆT NAM
PHÙNG ĐỨC DŨNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết


quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Sau Đại học Viện Đại Học Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phùng Đức Dũng


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Đào tạo Sau Đại học Viện đại học Mở Hà Nội
và sự đồng ý của giáo viên hướng dẫn PGS. TS. Nguyễn Như Phát, tôi đã thực hiện
đề tài “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam”.
Để hoàn thành luận văn này. Trước hết với tình cảm chân thành và lòng biết
ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu trường Viện Đại học Mở Hà
Nội; các thầy, cô giáo Khoa sau Đại học chuyên ngành Luật kinh tế Viện Đại học
Mở Hà Nội; các thầy, cô giáo các Bộ môn giảng dạy đã tận tình hướng dẫn, giảng
dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi tốt
nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài
Luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo hướng dẫn PGS.
TS. Nguyễn Như Phát đã dành nhiều thời gian tâm huyết, trực tiếp hướng dẫn tận
tình, chỉ bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên
cứu đề tài và hoàn chỉnh Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn
đồng nghiệp đã động viên, khích lệ, sẻ chia, giúp đỡ và đồng hành cùng tôi trong
cuộc sống cũng như trong quá trình học tập, nghiên cứu!
Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu và phân tích Luật để thực hiện đề tài
một cách hoàn chỉnh nhất. Song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu

khoa học cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên chắc chắn đề tài của
Luận văn này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân tôi chưa
thấy được. Tôi rất mong sự đóng góp của quý Thầy, Cô giáo và các bạn để cho đề
tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Học viên thực hiện

Phùng Đức Dũng


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DNTN
DN
TNHH
BLDS
LDN
GDP
XHCN

Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp
Trách nhiệm hữu hạn
Bộ luật dân sự
Luật doanh nghiệp
Tổng sản phẩm nội địa
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1986 là năm mà nước ta tiến tới thực hiện công cuộc đổi mới cải các từ
một nhà nước quản lý toàn diện chuyển sang nhà nước và nhân dân cùng làm. Và lẽ
được nhiên như một quy luật khách quan nhà nước ta sẽ dần tiến đến thể chế dân
làm, nhà nước hỗ trợ. Nhà nước ngày đang dần trở thành cánh tay nâng đỡ, khuyến
khích, tạo điều kiện cho doanh nhân kinh doanh một cách tự do và công bằng. Đây
cũng là thời điểm đánh dấu sự ra đời của Doanh nghiệp tư nhân (sau đây sẽ viết tắt
là DNTN) ở nước ta cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong cộng đồng
doanh nghiệp dân doanh ở Việt Nam.
Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, dần khẳng định
vị thế của mình trên thương trường quốc tế, dần rút ngắn khoảng cách để về phát
triển với các bạn bè năm châu. Đất nước đang bước vào thời kỳ phát triển Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước và hội nhập nền kinh tế thế giới thể hiện rõ nét
tại việc ký kết, gia nhập nhiều hiệp định thương mại lớn như WTO, TPP, FTA….
Do vậy mà nền kinh tế thị trường đa dạng về thành phần kinh tế cùng các hoạt động
kinh doanh ở nước ta đã ngày càng được củng cố và phát triển, các quyền tự do kinh
doanh của các chủ đầu tư càng được nâng cao, ghi nhận trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan.
Quyền tự do kinh doanh là mối quan tâm của Đảng và nhà nước ta kể từ đầu
thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Để thực hiện chủ trương này, ngày 21-12-1990, Quốc hội
khoá VIII đã thông qua hai đạo luật quan trọng là Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp tư nhân. Hai đạo luật này đã tạo cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự phát triển khu
vực kinh tế tư nhân ở nước ta, và là một mốc quan trọng, có ý nghĩa quyết định
trong quá trình đổi mới kinh tế, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật Doanh nghiệp tư nhân và
Luật Công ty quy định ba loại hình doanh nghiệp cho khu vực kinh tế tư nhân trong
đó có DNTN. Đến nay là Luật doanh nghiệp 2014 được ban hành tại kỳ họp Quốc
hội khóa XIII có hiệu lực từ ngày 01/7/2015. Sau nhiều lần bổ sung, chỉnh sửa thì
khung pháp lý quy định về DNTN đã từng bước hoàn thiện hơn, giúp phát huy tính


1


linh hoạt, năng động, nhạy bén và các ưu thế khác mà loại hình doanh nghiệp này.
Và luật doanh nghiệp 2014 được xem là luật có quy định về DNTN hoàn thiện nhất
kể từ 1990 đến hiện nay.
DNTN đã trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều tác giả được khai thác dưới
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, với luật Doanh nghiệp 2014, một văn bản mới
đi vào thực tế nên chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này để đánh giá, nhận
xét các quy định pháp luật từ thực tiễn áp dụng. Chính từ những cơ sở nhận thức
trên nên tôi quyết định chọn đề tài: “Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân ở Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài này đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhà luật học khai thác trên nhiều
góc độ khác nhai. Sơ lược một số thành tựu nghiên cứu như:
Tác giả Nguyễn Trí Tuệ với đề tài “Địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư
nhân”, Luận án Tiến sĩ, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, 2003. Luận án
nghiên cứu hệ thống về địa vị pháp lý của DNTN trong điều kiện kinh tế thị
trường. Lý luận và thực tiễn của quá trình hình thành và phát triển chế định địa vị
pháp lý DNTN, vai trò và vị trí của DNTN trong nền kinh tế thị trường. Thực trạng
pháp luật điều chỉnh hoạt động của DNTN và giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý
của loại hình DN này.
Tác giả Phạm Quý Tú với đề tài “Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với
DNTN và công ty TNHH”, Luận án Tiến sĩ, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp
luật, 2000. Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của việc nhà nước quản lý bằng pháp
luật đối với DNTN, công ty TNHH ở Việt Nam. Thực trạng của việc quản lý này
và các giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước quản
lý bằng pháp luật đối với DNTT và công ty TNHH.
Tác giả Souphana Vongphachanh với đề tài “Địa vị pháp lý của doanh
nghiệp tư nhân theo pháp luật Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh”, luận văn

thạc sĩ Luật học, Đại học luật Hà Nội, 2012. Trình bày một số vấn đề lý luận về
doanh nghiệp tư nhân và địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân. Phân tích điểm
tương đồng và khác biệt trong các quy định pháp luật của Lào và Việt Nam về địa

2


vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, từ đó đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật ở hai nước về vấn đề này.
Tác giả Nhữ Trọng Bách với bài viết “Nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong những năm tới”, tạp chí Cộng sản, Trung
ương Đảng Cộng sản Việt NamSố 124(4/2017), tr. 22 - 26. Bài viết khẳng định vai
trò quan trọng của nền kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, cần phải thống nhất tư tưởng và
hành động trong cả hệ thống chính trị, cũng như xã hội nhằm hoàn thiện cơ chế,
chính sách; khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân.
Trương Công Đắc với bài viết “Bàn về các hình thức đầu tư của doanh
nghiệp tư nhân theo quy định của pháp luật hiện nay”, tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 12/2015, tr. 46 – 50. Bài viết trình
bày và phân tích các hình thức đầu tư của doanh nghiệp tư nhân theo quy định
của pháp luật hiện hành cụ thể dưới các hình thức: thành lập doanh nghiệp;
chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; thành lập hợp tác xã, liên minh hợp tác xã và
thành lập tổ chức khác.
Tác giả Nguyễn Viết Trung với đề tài “Mua bán doanh nghiệp tư nhân ở
Việt Nam dưới góc độ điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp”, khóa luận tốt
nghiệp, 2015. Luận văn đã trình bày những vấn đề lý luận về mua bán doanh
nghiệp tư nhân; nội dung pháp luật mua bán doanh nghiệp tư nhân dưới góc độ
điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp. Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật mua bán doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam.
Như vậy, trong khoa học pháp lý nói chung thì các vấn đề về doanh nghiệp
không còn là những vấn đề nghiên cứu hoàn toàn mới. Tuy nhiên thực tế hiện nay

đã có nhiều thay đổi với một số văn bản pháp luật doanh nghiệp mới được ban
hành cùng sự vận động không ngừng của thực tiễn đòi hỏi cần có một công trình
nghiên cứu trực tiếp về DNTN.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Thứ nhất, luận văn làm rõ những vấn đề lý luận khái quát về Doanh nghiệp
tư nhân; Vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế; luật áp dụng liên quan
tới DNTN.
Thứ hai, luận văn đánh giá thực trạng quy định pháp luật liên quan tới
DNTN tại Việt Nam.
Thứ ba, trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã được nghiên cứu, luận văn đưa ra
định hướng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về DNTN tại Việt Nam.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Xác định nội dung và làm rõ một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm
có liên quan tới giá trị pháp lý con dấu doanh nghiệp; luật áp dụng trong sử dụng
con dấu doanh nghiệp trong giao dịch.
- Phân tích, làm rõ các hạn chế, bất cập, đánh giá thực trạng xác định luật áp
dụng trong sử dụng con dấu doanh nghiệp trong giao dịch ở Việt Nam.
- Từ những vướng mắc, bất cập giữa lý luận và thực trạng đưa ra một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật về giá trị pháp lý của con dấu doanh nghiệp ở Việt Nam
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của luận văn chính là doanh nghiệp tư nhân cùng pháp luật về
doanh nghiệp tư nhân.
Luận văn không đi nghiên cứu mọi vấn đề liên quan đến DNTN mà chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về: doanh nghiệp tư nhân. Trên cơ sở đó,

làm rõ hơn pháp luật nước ta về xác định luật áp dụng liên quan tới DNTN theo
Luật doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Đồng thời phân tích,
so sánh với các quy định về xác định luật về DNTN trong các thời kỳ của nước ta.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu:

4


+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề
liên quan đến DNTN theo quy định của pháp luật và khái quát những nội dung cơ
bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận văn;
+ Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu qui định của pháp
luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như pháp luật của
nước ta các thời kỳ trước đây về DNTN;
+ Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn về
DNTN, với các số liệu cụ thể. Tìm ra mối liên hệ giữa các qui định của pháp luật
với thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa? Các lý do? Từ đó mà xem xét nội dung
qui định của pháp luật về DNTN, với thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh
của pháp luật về vấn đề này.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đâu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp tư nhân
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về doanh
nghiệp tư nhân ở Việt Nam.


5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN

1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển DNTN
Sự phát triển của DNTN cần được nhìn nhận, đánh giá dưới lăng kính tổng

quan của nền kinh tế tư nhân nói chung, của các doanh nghiệp nội khối tư nhân nói
riêng. Vì vậy, trong phạm vi phần lịch sự phát triển này, thuật ngữ DNTN được
dùng để chỉ DNTN nói riêng và chỉ các loại hình doanh nghiệp thuộc khối tư nhân
nói chung.
DNTN ở Việt Nam trước thời kỳ Đổi mới
Trong bản Tuyên ngôn độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án một
trong những tội ác của thực dân khi chúng cai trị nước ta là: “chúng không cho các
nhà tư sản của nước ta ngóc đầu lên”. Do đó, khi Việt Nam bước vào thời kỳ chống
thực dân Pháp với khẩu hiệu “Toàn dân kháng chiến”, Người đã kêu gọi những
người giàu góp vốn để mở công ty kinh doanh công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp, tài chính, giao thông để tịch thu một cách vô điều kiện các cơ sở sản xuất tư
nhân. Hưởng ứng lời kêu gọi đó, nhiều thương nhân Việt Nam giàu lòng yêu nước
đã đóng góp xứng đáng vào cuộc kháng chiến trường kỳ 1945-1954.
Đến năm 1954, hòa bình lập lại ở Miền Bắc Việt Nam và bước vào công
cuộc xây dựng lại đất nước, trong khi Miền Nam Việt Nam vẫn còn dưới chế độ Mỹ
- Diệm. Với khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, tất cả tài sản của các thành
phần kinh tế như: kinh tế cá thể người lao động ở nông thôn, các DNTN, hộ sản
xuất thủ công, hay của các DNTN nhỏ đều bị chuyển đổi thành tài sản của nhà

nước. Cải cách ruộng đất ở nông thôn được nhìn nhận như một sai lầm trong phát
triển kinh tế của Việt Nam.
Vào thời kỳ đó, ở Miền Bắc có 3.065 DNTN với tổng số vốn gần 22 triệu
USD. Hình thức chủ yếu của các DNTN là DNTN một chủ hoặc một số ít là
DNTN hợp danh, các hình thức doanh nghiệp khác như: Công ty TNHH, CTCP
chưa xuất hiện.


Trong vòng 6 năm, toàn bộ sở hữu tư nhân trong các doanh nghiệp bị quy
thành sở hữu nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Nền
kinh tế Việt Nam (Miền Bắc) chỉ có hai thành phần chủ yếu là Kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể, một phần nhỏ là kinh tế cá thể. Hiện trạng này giống như Trung
Quốc trước Cải cách mở cửa.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, chính sách quốc hữu hóa tài sản của khu
vực kinh tế tư nhân lại được áp dụng ở Miền Nam. Gần như toàn bộ tài sản của
22.456 DNTN với giá trị khoảng 800 triệu USD đã trở thành sở hữu nhà nước. Các
DNTN bị liệt vào thành phần phi xã hội chủ nghĩa và không được phép tồn tại.
Cũng như ở Trung Quốc, Doanh nghiệp ở Miền Bắc Việt Nam bị phân biệt đối xử,
thậm chí còn bị coi là thành phần phản cách mạng. Nền kinh tế Việt Nam đến giữa
những năm 1980 ngày càng trì trệ, lạc hậu. Một đất nước nông nghiệp với điều kiện
tự nhiên tương đối thuận lợi và người dân cần cù, sáng tạo nhưng liên tục thiếu đói,
phải trông chờ vào viện trợ lương thực từ các nước XHCN ở châu Âu.
Năm 1986 là năm đánh dấu một thời kỳ mới – thời kỳ Đổi mới – bằng việc
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI lần đầu tiên khẳng định cần xây dựng
một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần cho dù nền kinh tế hàng hóa đó vẫn phải
theo chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất. Thời kỳ này đánh dấu bước ngoặt cho
các DNTN có cơ hội phát triển trở lại.
Sự phát triển của DNTN ở Việt Nam từ 1986 đến 1990
Bước đầu nền kinh tế Việt Nam nổi lên với nền kinh tế hộ cá thể (năm 1990
số hộ kinh doanh cá thể lên đến khoảng 840 hộ), những điều kiện phát triển kinh

tế tư nhân thoát khỏi phạm vi kinh tế hộ cá thể gần như chưa có. Các hộ sản xuất
kinh doanh phi nông nghiệp này vẫn phải hoạt động “ngầm” và chủ hộ vẫn bị kỳ
thị, vẫn bị coi là con buôn. Đây thực sự mới chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời
của DNTN.
Sự phát triển của DNTN ở Việt Nam từ 1991 đến 1999
Kinh tế hộ đứng trước đòi hỏi bức thiết về mở rộng quy mô, ngành nghề sản
xuất kinh doanh, muốn thoát khỏi cảnh hoạt động ngầm cũng như được pháp luật và
xã hội chính thức thừa nhận. Điều này phù hợp với đòi hỏi khách quan. Do đó, Đại


hội Đảng cộng sản Việt Nam toàn quốc lần VII (1991) đã chính thức thừa nhận nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường nhưng có định
hướng XHCN.
Tiếp theo đó, tháng 12/1990, Luật DNTN được Đảng và nhà nước chính thức
thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/4/1991. Đây là bước ngoặt hết sức
quan trọng cho DNTN Việt Nam bởi Luật DNTN 1990 chính thức được đặt nền
tảng pháp lý cho DNTN Việt Nam. DNTN và sở hữu tư nhân được chính thức pháp
luật thừa nhận và bảo hộ. Luật DNTN 1990 có tác dụng như một luồng gió mới, phá
vỡ những rào cản vô hình (từ trong nhận thức) và hữu hình (qua những quy định,
quy phạm) trước đây đã từng trói buộc kinh tế tư nhân. Giai đoạn 10 năm 19901999 có thể coi là giai đoạn khai sinh ra DNTN.
Sự phát triển của DNTN ở Việt Nam từ 2000 đến nay
Sau nhiều lần soạn thảo, tháng 5/1999, Luật doanh nghiệp ra đời và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2000. Sự ra đời của LDN 1999 là bước đột phá cả về tư
duy lẫn kỹ năng quản lý đối với khối kinh tế tư nhân. Do yêu cầu của kinh tế thị
trường, hội nhập kinh tế quốc tế nên các DNTN của nước ta đã gia tăng nhanh
chóng. Trong năm 2000 có 20.548 DNTN được thành lập, năm 2001 tăng lên
22.777 DNTN; năm 2002 tăng tiếp lên 24.794 DNTN; năm 2003 là 25.653 DNTN;
năm 2004 có 29.980 và tới năm 2008 đã tăng lên 46.530 DNTN. 1 Cho đến nay, với
cơ chế mở cửa, chính sách hội nhập quốc tế và sự phát triển đa dạng các loại hình
doanh nghiệp cho thương nhân lựa chọn, loại hình DNTN dù không tiếp tục phát

triển rầm rộ như những năm trước, nhưng xu hướng mua bán DNTN vẫn tồn tại
phát triển. Do đó, cùng với quá trình này, việc bổ sung, sửa đổi và ban hành các quy
định mới về DNTN cũng được dần hoàn chỉnh.
1.2.

Khái niệm chung về doanh nghiệp
Hiện nay trên phương diện lý thuyết có khá nhiều định nghĩa thế nào là một

doanh nghiệp, mỗi định nghĩa đều mang trong nó một nội dung nhất định với một
giá trị nhất định. Điều ấy cũng là đương nhiên, vì rằng mỗi tác giả đứng trên nhiều
1

thống kê do Tổng cục thống kế Việt Nam tổng hợp tại ấn phẩm “Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ
21”, nxb Thống kê, 2010


quan điểm khác nhau khi tiếp cận doanh nghiệp để phát biểu. Chẳng hạn:
Theo quan điểm về chức năng của doanh nghiệp thì doanh nghiệp được định
nghĩa như sau: "Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết
hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do các
nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng
hóa hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá
thành của sản phẩm ấy.2
Theo quan điểm phát triển doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra
những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành công, có
lúc vượt qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi
khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được.3
Theo quan điểm về tính hệ thống doanh nghiệp được xem rằng bao gồm một
tập hợp các bộ phận được tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục
tiêu. Các bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất,

thương mại, tổ chức, nhân sự.
Theo quan điểm pháp lý Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tư cách pháp
nhân, có con dấu, có tài sản, có quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh tế theo
chế độ hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế trong
phạm vi vốn đầu tư do doanh nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nước bằng
các loại luật và chính sách thực thi.
Ngoài ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa khi xem xét
doanh nghiệp dưới những góc nhìn khác nhau. Song giữa các định nghĩa về doanh
nghiệp đều có những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại với một tầm nhìn
bao quát trên phương diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức,
phát triển đến các mối quan hệ với môi trường, các chức năng và nội dung hoạt
động của doanh nghiệp cho thấy đã là một doanh nghiệp nhất thiết phải được cấu
thành bởi những yếu tố sau đây:
* Yếu tố tổ chức: một tập hợp các bộ phận chuyên môn hóa nhằm thực
2
3

(M.Francois Peroux).
Kinh tế doanh nghiệp của D.Larua.A Caillat - Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội 1992


hiện các chức năng quản lý như các bộ phận sản xuất, bộ phận thương mại, bộ
phận hành chính.
* Yếu tố sản xuất: các nguồn lực lao động, vốn, vật tư, thông tin.
* Yếu tố trao đổi: những dịch vụ thương mại - mua các yếu tố đầu vào, bán
sản phẩm sao cho có lợi ở đầu ra.
* Yếu tố phân phối: thanh toán cho các yếu tố sản xuất, làm nghĩa vụ nhà
nước, trích lập quỹ và tính cho hoạt động tương lai của doanh nghiệp bằng khoản
lợi nhuận thu được.
Tuy nhiên nhiều đạo luật của Việt Nam lại thường sử dụng thuật ngữ doanh

nghiệp theo nghĩa là những thực thể kinh doanh nói chung. Điển hình Luật doanh
nghiệp 2005 định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản,
có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.”4. Sự tiến bộ về định nghĩa
doanh nghiệp được thể hiện trong LDN 2014 định nghĩa: Doanh nghiệp là tổ chức
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. 5 Định nghĩa này được sửa đổi một cách
chính xác hơn bao gồm thống kê loại hình các tổ chức kinh tế bao gồm: Doanh
nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật dân sự,
trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó có những tổ chức kinh tế
không phải là doanh nghiệp như hợp tác xã và các tổ chức kinh tế khác. Trong khi
đó tổ chức kinh tế lại không bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Chính vì vậy LDN 2014 đã có những chỉnh sửa một cách hợp lý hơn về khái niệm
doanh nghiệp.
Cho nên, việc lựa chọn một hình thức doanh nghiệp phù hợp với tính chất
kinh doanh, quy mô ngành nghề kinh doanh và khả năng người bỏ vốn thành lập
công ty là vô cùng quan trọng, có tác động tới sự tồn tại và phát triển của doanh
4

Khoản 1 Điều 4 LDN 2005

5

Khoản 7 Điều 4 LDN 2014


nghiệp sau này.
Các loại hình doanh nghiệp cơ bản hiện nay gồm có:
- Doanh nghiệp tư nhân (DNTN): là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ
và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh

nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Doanh
nghiệp tư nhân có chế độ trách nhiệm pháp lý vô hạn.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là doanh nghiệp
mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Chủ sở hữu công ty
do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu. Không được phát hành cổ phần
để huy động vốn trong kinh doanh. Chuyển nhượng vốn góp được thực hiện theo
quy định của pháp luật.
- Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là loại hình công ty, trong đó vốn điều lệ
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần được thành lập và tồn tại độc
lập. Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc
(Tổng giám đốc), đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban
kiểm soát. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, có quyền tự do chuyển nhượng cổ
phần của mình cho người khác, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế
số lượng tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra ngoài theo quy
định của pháp luật về chứng khoán.
- Công ty hợp danh: là công ty trong đó phải có ít nhất hai thành viên hợp
danh là chủ sở hữu chung của công ty, ngoài các thành viên công ty hợp danh có
thể có thành viên góp vốn. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp
danh có tư cách pháp nhân, các thành viên có quyền quản lý công ty và tiến hành
các hoạt động kinh doanh thay công ty, cùng nhau chịu trách nhiệm và nghĩa vụ
của công ty. Thành viên góp vốn được chia lợi nhuận theo tỷ lệ tại quy định điều
lệ công ty, các thành viên hợp danh có quyền lợi ngang nhau khi quyết định các


vấn đề quản lý công ty.
1.3.


Khái niệm DNTN
Ở Việt Nam, sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mới được

pháp luật chính thức thừa nhận từ năm 1990, khi Luật DNTN và Luật Công ty được
thông qua. Cũng từ đó, thuật ngữ “DNTN” được sử dụng và biết đến ngày càng
nhiều. Tuy nhiên, cho đến hôm nay, trong thực tế vẫn có những trường hợp hiểu
nhầm về nội hàm của khái niệm này. Phổ biến nhất là tình trạng sử dụng thuật ngữ
“DNTN” để chỉ một (hoặc các) doanh nghiệp “thuộc thành phần kinh tế tư nhân”.
Và như vậy, những người nhầm lẫn đã dùng thuật ngữ “DNTN” như là một đối
trọng để phân biệt với “Doanh nghiệp Nhà nước” – doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế nhà nước.
Dùng thuật ngữ “DNTN” như là cách gọi vắn tắt của “Doanh nghiệp thuộc
thành phần kinh tế tư nhân” là không chính xác. Chúng ta nên sử dụng một thuật
ngữ khác phù hợp hơn để chỉ những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân,
đó là “Doanh nghiệp dân doanh”, vì thực ra, từ buổi đầu được qui định ở Luật
DNTN 1990, Luật Doanh nghiệp 1999, cho đến Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật
Doanh nghiệp 2014 hiện hành, DNTN luôn là một trong những hình thức đặc trưng
về tổ chức kinh doanh mà cá nhân muốn đầu tư có thể lựa chọn. Về bản chất,
DNTN được pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam qui định tương tự như Doanh
nghiệp cá nhân (Sole Proprietorship) ở các nước khác. Và như vậy, DNTN chỉ là
một loại hình doanh nghiệp đặc thù thuộc thành phần kinh tế tư nhân mà thôi.
Như vậy, dựa vào sự phân loại doanh nghiệp nêu trên ta có thể thấy, DNTN
là một trong các loại hình doanh nghiệp được pháp luật điều chỉnh và quy định
trong Luật doanh nghiệp 2014. Chủ sở hữu của DNTN là một cá nhân với đầy đủ
năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật – chứ không phải là một tổ chức hay
nhiều người đồng sở hữu. Và chủ sở hữu DNTN phải chịu trách nhiệm toàn bộ bằng
tài sản của mình cho hoạt động của doanh nghiệp chứ không phải chỉ chịu trách
nhiệm trong phần vốn góp như các loại hình công ty TNHH hay CTCP hay thành
viên hợp danh của công ty hợp danh. Điều này có nghĩa là tài sản của doanh nghiệp

và của chủ doanh nghiệp không tách rời nhau một cách biệt lập mà gắn kết với nhau


thành một khối thống nhất, mọi nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp cũng thuộc
về chủ sở hữu. Chính điều này vừa làm nên ưu điểm cũng như nhược điểm lớn nhất
của loại hình doanh nghiệp này. Chủ DNTN chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản
nợ trong kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh, nếu doanh
nghiệp làm ăn phát đạt thu về nhiều lợi nhuận, chủ doanh nghiệp sẽ được hưởng
toàn bộ, ngược lại nếu gặp rủi ro hay kinh doanh thua lỗ, họ phải tự chịu trách
nhiệm bằng chính tài sản của doanh nghiệp cũng như tài sản cá nhân về các khoản
nợ đến hạn của doanh nghiệp.
Với những phân tích về định nghĩa của DNTN như nói trên thì ta có thể rút
ra một số đặc điểm pháp lý của DNTN như sau:
- DNTN được thành lập hợp pháp
- DNTN có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
- DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ
- DNTN không có tư cách pháp nhân
- Chủ DNTN chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động
của doanh nghiệp.
1.4.

Đặc điểm của DNTN

1.4.1. DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ
DNTN là loại hình doanh nghiệp một chủ. Giống như Công ty nhà nước và
Công ty TNHH một thành viên, DNTN do một chủ thể đứng ra thành lập. Chủ thể
này dùng tài sản của mình đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
không có sự liên kết và chia sẻ với bất cứ ai khác. Trong DNTN không có sự hùn
vốn, không có sự liên kết của nhiều thành viên. Là người duy nhất đầu tư vốn thành
lập nên chủ DNTN cũng là người duy nhất có quyền định đoạt các vấn đề tổ chức

và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cần phân biệt tính tổ chức liên
kết hợp tác dưới giác độ chủ sở hữu với tính tổ chức trong nội bộ doanh nghiệp. Dù
một chủ, DNTN vẫn là đơn vị kinh doanh mang tính chất một tổ chức, trong đó có
người quản lý điều hành, có người lao động làm công, v.v.. Chính vì vậy DNTN vẫn
thỏa mãn dấu hiệu cơ bản đầu tiên của một doanh nghiệp nói chung: bản thân


DNTN là “một tổ chức kinh tế”.
Tuy nhiên, khác với Doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước thành
lập, Công ty TNHH một thành viên do một tổ chức hoặc một cá nhân thành lập
làm chủ, trong DNTN, chủ sở hữu chỉ có thể là một cá nhân. Cá nhân này vừa là
chủ sở hữu, vừa là người sử dụng tài sản đồng thời cũng là người quản lý hoạt
động của doanh nghiệp. Đối tượng có quyền thành lập DNTN là mọi cá nhân Việt
Nam và cá nhân nước ngoài trừ những trường hợp quy định khoản 2 điều 18 Luật
Doanh nghiệp 2014.
Giữa DNTN và cá nhân người chủ sở hữu có mối quan hệ lệ thuộc và gắn bó
rất chặt chẽ. DNTN chỉ có duy nhất một cá nhân cụ thể là chủ sở hữu, nếu có sự
thay đổi từ cá nhân này sang cá nhân khác thì DNTN đó về bản chất phải chấm dứt
sự tồn tại, như trong trường hợp bán DNTN, người mua doanh nghiệp phải đăng ký
kinh doanh lại. Nếu có sự thay đổi về số lượng chủ sở hữu thì DNTN đó cũng phải
chấm dứt sự tồn tại. Trường hợp cá nhân chủ DNTN mà chết, mất tích hoặc rơi vào
các trường hợp bị cấm thành lập quản lý doanh nghiệp (không còn chủ sở hữu đủ
điều kiện) thì DNTN phải giải thể. Trường hợp chủ DNTN chết, người thừa kế (nếu
có) chỉ được hưởng thừa kế về tài sản chứ không được thừa kế tư cách chủ sở hữu
DNTN. Nếu chỉ có một người thừa kế và người này muốn tiếp tục duy trì khai thác
khối tài sản trong doanh nghiệp bằng hoạt động kinh doanh dưới hình thức DNTN
thì phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh lại. Nếu số lượng chủ sở hữu tăng lên hơn
một, thì phải làm thủ tục chuyển đổi DNTN sang hình thức Công ty TNHH 2 thành
viên trở lên. Ngược lại, một cá nhân chỉ được thành lập một DNTN. Theo quan
điểm truyền thống về loại hình DNTN thì không có sự phân biệt về quyền, quyền

lợi và nghĩa vụ giữa cá nhân người chủ và doanh nghiệp. DNTN là đại diện trực tiếp
không thể tách rời cho cá nhân chủ sở hữu với tư cách một chủ thể kinh doanh. Do
đó, ở bất cứ thời điểm nào, mỗi cá nhân chỉ có thể làm chủ một DNTN. Khi nào
DNTN đó chưa chấm dứt sự tồn tại về mặt pháp lý thì cá nhân không thể đăng ký
làm chủ một DNTN khác.


1.4.2. Chủ DNTN chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt
động của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động đều phải chịu những trách
nhiệm pháp lý nhất định về hoạt động kinh doanh của mình. Đây cũng là một điểm
rất đáng lưu ý với các chủ thể đang có ý định thành lập doanh nghiệp. Chế độ chịu
trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp được quy định trong luật doanh nghiệp 2014
gồm chế độ trách nhiệm tài sản vô hạn và chế độ trách nhiệm tài sản hữu hạn. Và
đặc điểm về chế độ chịu trách nhiệm tài sản trong kinh doanh của DNTN chính là
chế độ chịu trách nhiệm tài sản vô hạn.
Chế độ chịu trách nhiệm tài sản vô hạn trong kinh doanh là chế độ chịu
trách nhiệm không giới hạn trong bất kì phạm vi giá trị tài sản nào, nợ bao
nhiêu phải trả bấy nhiêu cho đến khi thanh toán được hết các khoản nợ. Chủ
doanh nghiệp đó phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa
vụ của doanh nghiệp.
Đối với chủ DNTN, do tính chất độc lập về tài sản của doanh nghiệp không
có nên chủ DNTN – người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi hoạt động của
doanh nghiệp sẽ phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn. Theo đó chủ DNTN không
chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần
vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình, trong trường hợp phần vốn đã đăng ký đầu tư không
đủ để trang trải các khoản nợ của DNTN.
Ưu điểm của chế độ chịu trách nhiệm này gồm có:
– Đối với chủ sở hữu thì có khả năng huy động vốn vay lớn hơn số vốn đầu

tư vào kinh doanh, tạo được sự tin tưởng với đối tác, khách hàng.
– Đối với người cho vay có khả năng thu hồi vượt quá tài sản còn lại đầu tư
vào kinh doanh của chủ sở hữu vì chủ sở hữu chịu trách nhiệm bằng cả tài sản
không đầu tư vào kinh doanh.
Tuy nhiên, nhược điểm cũng phải kể đến là:
- Đối với chủ sở hữu: không có sự phân tán rủi ro từ chủ sở hữu này sang chủ
nợ, không khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn trực tiếp vào kinh doanh… nhiều


người sẽ không dám đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm dẫn tới mất cân
đối nền kinh tế.
– Đối với người cho vay thì khó có khả năng kiểm soát, xác định tài sản bảo
đảm tiền vay.
1.4.3. DNTN không có tư cách pháp nhân
Pháp nhân là thuật ngữ pháp lý chỉ một thực thể mang tính hội đoàn. Có rất
nhiều quan điểm và học thuyết giải thích cho khái niệm pháp nhân như: có thuyết
cho pháp nhân là một chủ thể giả tạo, có thuyết cho nó là một chủ thể thực sự...vv
Song theo quy định của pháp luật Việt Nam thì pháp nhân là những tổ chức (khác
với thể nhân – chỉ con người) có tư cách pháp lý độc lập để tham gia các hoạt động
pháp lý khác như kinh tế, xã hội.
Theo Khoản 1 Điều 74 BLDS 2015 thì một tổ chức được công nhận là pháp
nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Được thành lập hợp pháp tức là phải được tồn tại dưới một hình thái xác
định và phải được cơ quan có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký
hoặc công nhận;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ bao gồm các cơ quan lãnh đạo, bộ phận chuyên
môn của tổ chức, đảm bảo cho tổ chức có khả năng thực tế để hoạt động và điều
hành đảm bảo tính nhất quán trong hoạt động pháp nhân;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó tức pháp nhân tự chịu trách nhiệm tài sản của mình và trong giới hạn tài sản

của mình
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Như vậy, tư cách pháp nhân là tư cách để xác định trách nhiệm tài sản (vô
hạn hay hữu hạn) của tổ chức, doanh nghiệp tức là nếu có tư cách pháp nhân sẽ tách
bạch tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp với pháp nhân là doanh nghiệp đó (chịu
trách nhiệm hữu hạn), còn doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân thì không có
sự tách bạch này (chịu trách nhiệm vô hạn).
DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Người thành lập


DNTN là chủ sở hữu duy nhất của DNTN là một cá nhân. Chủ DNTN là người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Chủ DNTN có toàn quyền quyết định đối với
tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử
dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo
quy định của pháp luật. Chủ DNTN có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản
lý doanh nghiệp, thì chủ DNTN vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Điều thứ ba của định nghĩa pháp nhân đã không được thỏa mãn khi chủ
DNTN chịu trách nhiệm vô hạn trước quyền và nghĩa vụ về hoạt động kinh doanh
của mình, nghĩa là tài sản của chủ doanh nghiệp không tách bạch với khối tài sản
của doanh nghiệp. Do đó đây là lý do vì sao doanh nghiệp tư nhân không có tư cách
pháp nhân và cũng là loại hình doanh nghiệp dễ gặp rủi ro nhất.
1.4.4. DNTN không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể
hiện bằng hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Chứng khoán
bao gồm các loại: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái
sinh. Thực chất chứng khoán là một loại hàng hóa đặc biệt.

Chứng khoán là một phương tiện hàng hóa trừu tượng có thể thỏa thuận và
có thể thay thế được, đại diện cho một giá trị tài chính. Chứng khoán gồm các
loại: chứng khoán cổ phần (ví dụ cổ phiếu phổ thông của một công ty), chứng
khoán nợ (như trái phiếu nhà nước, trái phiếu công ty...) và các chứng khoán phái
sinh (như các quyền chọn, hợp đồng quy đổi - Swap, hợp đồng tương lai, Hợp đồng
kỳ hạn). Ở các nền kinh tế phát triển, loại chứng khoán nợ là thứ có tỷ trọng giao
dịch áp đảo trên các thị trường chứng khoán. Còn ở những nền kinh tế nơi mà thị
trường chứng khoán mới được thành lập, thì loại chứng khoán cổ phần (chứng
khoán vốn) lại chiếm tỷ trọng giao dịch lớn hơn. Trong tiếng Việt, chứng khoán còn
được hiểu theo nghĩa hẹp là chứng khoán cổ phần và các chứng khoán phái sinh, ví
dụ như trong từ "sàn giao dịch chứng khoán".6
Theo Luật Doanh nghiệp thì doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một
6

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt
động của doanh nghiệp; doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại
chứng khoán nào; mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Vì chứng khoán cũng là một loại tài sản cho nên chứng khoán có giá và có
thể dễ dàng mua đi bán lại chúng được. Một doanh nghiệp hay một tổ chức khi phát
hành chứng khoán là doanh nghiệp, tổ chức đó muốn thu hút thêm vốn cho doanh
nghiệp, tổ chức mình để có thể tăng nguồn lực hoạt động. Khi cá nhân, tổ chức thực
hiện hoạt động mua chứng khoán là chủ thể đó thực hiện hoạt động đầu tư, góp vốn
với mong muốn tìm kiếm lợi nhuận. Người đầu tư có thể lựa chọn rất nhiều các loại
chứng khoán khác nhau như: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng
khoán phái sinh.
Trong các loại hình doanh nghiệp quy định trong Luật doanh nghiệp 2014 thì
doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh không có quyền phát hành bất cứ một

loại chứng khoán nào. Sở dĩ pháp luật không cho phép doanh nghiệp tư nhân được
phát hành chứng khoán bởi loại hình doanh nghiệp này thường có sự hạn chế về vốn
điều lệ, quy mô hoạt động, số lượng thành viên. Hơn nữa chủ doanh nghiệp tư nhân
là cá nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động của công ty.
Nói một cách khác, giữa tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân với doanh
nghiệp không có sự phân định rõ ràng cho nên nếu doanh nghiệp tư nhân phát hành
chứng khoán thì không phân định được tỉ lệ gánh chịu rủi ro giữa chủ doanh nghiệp
tư nhân với những nhà đầu tư chứng khoán.
Như vậy, việc pháp luật không cho phép doanh nghiệp tư nhân được phát
hành chứng khoán xuất phát từ việc đây thường là loại hình doanh nghiệp nhỏ về
quy mô hoạt động và vốn cũng như không phân định rõ ràng giữa vốn của chủ sở
hữu và vốn của công ty.
1.5.

Đánh giá chung về DNTN
Mỗi một loại hình doanh nghiệp xuất phát từ những đặc trưng riêng sẽ đem

lại cho chủ sở hữu những ưu thế cũng như hạn chế riêng. Đối với loại hình DNTN,
ưu điểm khi trở thành chủ sở hữu loại hình doanh nghiệp này gồm có:
Thứ nhất, chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả


hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc
giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng
hoặc giảm vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp phải được ghi chép vào sổ kế toán.
Trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký thì chủ doanh
nghiệp tư nhân chỉ được giảm vốn sau khi đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh
doanh (Khoản 3, Điều 164, LDN 2014).

Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với việc sử dụng lợi
nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định
của pháp luật (Khoản 1, Điều 185, LDN 2014).
Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản
lý doanh nghiệp thì vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp (Khoản 2, Điều 185, LDN 2014).
Đối với những loại hình doanh nghiệp góp vốn khác, khi cần đưa ra những
quyết định về mọi hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động quản trị nội bộ của
doanh nghiệp thì thông thường doanh nghiệp sẽ phải ban hành những quyết định
hoặc tổ chức một cuộc họp nhằm phê duyệt quyết định có liên quan với nhiều bên
có thẩm quyền trong doanh nghiệp xét duyệt, thông qua quyết định đó trước khi áp
dụng trên thực tế. Còn đối với DNTN hoạt động này chỉ cần thông qua một chủ thể
duy nhất đó chính là chủ sở hữu doanh nghiệp. Điều này giúp tinh giản rất nhiều
phần nào các thủ tục tồn tại trong nội bộ doanh nghiệp.
Thứ hai, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn đối
với các khoản nợ của công ty. Chế độ trách nhiệm vô hạn tạo điều kiện cho khách
hàng, đối tác tin tưởng đối với doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
Thứ ba, lợi nhuận của doanh nghiệp tư nhân thuộc về chủ doanh nghiệp tư
nhân sau khi đã tiến hành toàn bộ nghĩa vụ đối với bên thứ ba.
Bên cạnh những ưu điểm đối với doanh nghiệp tư nhân, thì luật Doanh
nghiệp cũng hạn chế rất nhiều đối với loại hình doanh nghiệp như về cách thức huy


động vốn, quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời làm chủ hộ kinh doanh,
thành viên công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn
thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp doanh.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu chế độ trách nhiệm vô hạn đối với các

khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty. Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân
sẽ chịu rủi ro rất lớn khi doanh nghiệp phá sản.
- Doanh nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ
phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công
ty cổ phần.
- Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Quy định này đã hạn chế quyền huy động vốn của doanh nghiệp tư nhân so với các
loại hình doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần có quyền phát
hành cổ phiếu và trái phiếu; công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền phát hành trái
phiếu để huy động vốn, phát triển mở rộng kinh doanh.
Như vậy, việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp là vô cùng quan trọng bởi vì
nó ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển và hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi loại
hình đều có ưu nhược điểm riêng vì vậy các nhà đầu tư cần xem xét lựa chọn loại
hình kinh doanh phù hợp.
1.6.

Vai trò của DNTN
Kinh tế tư nhân, hiểu cách khái quát chung, là khu vực kinh tế nằm ngoài

quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong và
ngoài nước, trong đó DNTN nắm trên 50% vốn đầu tư. DNTN là tất cả các cơ sở
sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản
xuất. Hiểu ở cấp độ hẹp, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở
hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vị trí, vai trò
của DNTN trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Nhờ vậy,
DNTN không ngừng lớn mạnh, trở thành một trong những nhân tố chính tạo nên sự



×