Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

(Luận văn thạc sĩ) pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.49 KB, 108 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VÂN HOÀI

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2004


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VÂN HOÀI

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT
NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số:
601.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS Luật học Lê Thị Thu Thủy

Hà Nội - 2004



1

MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

4

LỜI NÓI ĐẦU

5

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI

10

1.1.Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm tiền gửi

10

trên thế giới và các mơ hình bảo hiểm tiền gửi
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm tiền gửi trên

10

thế giới
1.1.2. Các mô hình bảo hiểm tiền gửi

12


1.2. Khái niệm và mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi

15

1.2.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi

15

1.2.2. Mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi

20

1.3. Vai trò và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi

21

1.3.1. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi

21

1.3.2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi

26

1.3.3. Phân biệt bảo hiểm tiền gửi với các loại hình bảo hiểm khác

27

1.4. Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi


28

1.4.1. Sự cần thiết và yêu cầu của pháp luật bảo hiểm tiền gửi

28

1.4.2. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi

29


2

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT

31

NAM

2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hiểm tiền

31

gửi ở Việt Nam
2.2. Các quy định pháp lý cơ bản về chủ thể trong quan hệ bảo

35

hiểm tiền gửi

2.2.1. Các quy định về tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

35

2.2.2. Các quy định về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi

49

2.2.3. Các quy định về chủ thể được hưởng quyền lợi bảo hiểm

53

2.3. Các quy định về loại tiền gửi và hạn mức tiền gửi tối đa

59

đƣợc bảo hiểm, mức phí bảo hiểm tiền gửi
2.3.1. Các loại tiền gửi được bảo hiểm

59

2.3.2. Hạn mức tiền gửi tối đa được bảo hiểm

63

2.3.3. Mức phí bảo hiểm tiền gửi

66

2.4. Sự kiện bảo hiểm tiền gửi và thủ tục chi trả tiền bảo hiểm


69

2.4.1. Sự kiện bảo hiểm tiền gửi

69

2.4.2.Thủ tục chi trả tiền bảo hiểm

70

CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM

76

TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM

3.1. Cơ sở hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

76


3

3.2. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở

78

Việt Nam
3.2.1. Nâng cao hiệu lực pháp lý của văn bản pháp luật điều chỉnh


78

về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
3.2.2. Về chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm tiền gửi

79

3.2.3. Về loại tiền gửi được bảo hiểm và hạn mức tiền gửi tối đa

86

được bảo hiểm, mức phí bảo hiểm tiền gửi
3.2.4. Về sự kiện bảo hiểm bảo hiểm tiền gửi và thủ tục chi trả tiền bảo

89

hiểm
3.2.5. Về cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh

93

trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi
3.3. Định hƣớng hoàn thiện các quy định pháp luật khác có liên

94

quan
KẾT LUẬN


95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

97


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

BHTGVN

Bảo hiểm tiền gửi

BHTG

Ngân hàng Nhà nước

NHNN

Ngân hàng Thương mại

NHTM

Tổ chức tín dụng

TCTD



5

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX về Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001 - 2010 đã nhấn mạnh: "Phải đảm bảo sự phát triển an toàn,
lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ trong tồn bộ nền kinh tế", theo đó
nhiệm vụ trước mắt là "Hình thành đồng bộ khn khổ pháp lý, áp dụng đầy
đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền
tệ- ngân hàng" 1,tr.197 . Để thực hiện nhiệm vụ này, việc nghiên cứu và
hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi - một thiết chế mới hình thành ở
Việt Nam về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng là một việc làm hết
sức cần thiết.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động của ngân hàng đều phải
tuân thủ theo quy luật thị trường, những rủi ro trong hoạt động ngân hàng là
điều khó tránh khỏi, khơng chỉ đối với các nước chậm phát triển mà còn đối
với tất cả các quốc gia trên thế giới. Để đối phó lại vấn đề này, Chính phủ ở
nhiều quốc gia đã thực hiện các biện pháp hoặc hành động can thiệp nhằm
đưa hệ thống ngân hàng hoạt động trở lại trạng thái ổn định và phát triển lành
mạnh thông qua việc tăng cường các cơ chế phòng ngừa hữu hiệu. Một trong
những cơ chế phịng ngừa thơng dụng trên thế giới hiện nay là bảo hiểm tiền gửi.
Đối với những rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, nếu
khơng có các cơ chế phịng ngừa từ chính tổ chức tín dụng và trong chính
sách vĩ mơ của Nhà nước thì những rủi ro trong hoạt động ngân hàng đưa tới
là khơng thể lường hết được. Do tính đặc thù của hoạt động kinh doanh tiền tệ
- ngân hàng là kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác, tức là bằng tiền
đi vay để cho vay nên hậu quả của việc sụp đổ một ngân hàng không chỉ bó
gọn trong một ngân hàng riêng lẻ mà nó cịn có thể tạo ra phản ứng dây
chuyền dẫn tới sụp đổ cả hệ thống ngân hàng và chính điều này lại tác động



6

tiêu cực tới toàn bộ nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, việc đảm bảo an tồn cho
hoạt động kinh doanh của các TCTD ở mọi quốc gia là vô cùng quan trọng.
Và bảo hiểm tiền gửi được coi là biện pháp bảo đảm an tồn hữu hiệu, nó
được coi như chiếc lá chắn cuối cùng đối với những tình huống khó khăn nhất
của hoạt động ngân hàng, nhằm tạo tâm lý ổn định cho người gửi tiền và tránh
được nguy cơ dổ vỡ ngân hàng do việc rút tiền ồ ạt tại các ngân hàng.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế chậm phát triển và đang từng
bước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước xu thế mở
cửa và hội nhập kinh tế quốc tế trên phạm vi toàn cầu, đây sẽ là một thách
thức to lớn đối với nền kinh tế chậm phát triển như Việt Nam. Hoạt động
ngân hàng tại Việt Nam và hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng đang đứng
trước những thách thức của quy luật thị trường đầy nghiệt ngã, rủi ro và phá
sản trong hoạt động kinh doanh luôn đe dọa sự ổn định của từng ngân hàng
nói riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung. Do vậy, vấn đề bảo đảm an
toàn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ - ngân hàng cũng là an toàn của cả
nền kinh tế luôn luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng trên cả góc độ kinh
doanh lẫn góc độ quản lý nhà nước.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn lành mạnh cho
hoạt động kinh doanh tiền tệ - ngân hàng, ngăn ngừa sự đổ vỡ hàng loạt
TCTD, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
ngày 01/09/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về bảo
hiểm tiền gửi, là cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi đầu tiên ở
Việt Nam ra đời, bảo hiểm tiền gửi được coi là một thiết chế, một công cụ
mới trong việc đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng ở Việt Nam. Tiếp
theo đó, ngày 9/11/1999 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định

218/1999/QĐ-TTg về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Sau văn


7

bản này là hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm tiền gửi đã
được ban hành để điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tiền gửi.
Như vậy, cùng với sự ra đời của hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt
nam thì pháp luật về bảo hiểm tiền gửi cũng được hình thành nhằm điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi .
Tuy nhiên, vì đây là lĩnh vực hồn tồn mới nên pháp luật về bảo hiểm
tiền gửi trong giai đoạn hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập: các quy định
của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi chưa thống nhất, đồng bộ, chưa đầy đủ và
không rõ ràng nên đã gây khó khăn cho việc áp dụng các quy định về bảo
hiểm tiền gửi vào thực tiễn. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu
và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm tiền gửi cho thống nhất và đồng
bộ, tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam đạt được hiệu quả, thực hiện được mục tiêu trọng tâm là đảm bảo sự ổn
định cho cả hệ thống tài chính.
Với những lý do trên đây, chúng tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến bảo hiểm tiền gửi đến nay đã có một số cơng trình
nghiên cứu, báo cáo khoa học và một số bài báo tìm hiểu về hoạt động bảo
hiểm tiền gửi như: Luận án thạc sĩ kinh tế "Những giải pháp nhằm hồn
thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam" của tác giả Đào Văn Tuấn;
Luận án tiến sĩ kinh tế "Các giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi
ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh; Đề tài khoa học cấp ngành
"Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam"
của Viện Khoa học nghiên cứu Ngân hàng; một số khóa luận cử nhân luật

học... Tuy nhiên, các cơng trình trên đây chưa đi sâu nghiên cứu một cách
tổng thể cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền


8

gửi. Chính điều này đã tạo nên sự cần thiết và thôi thúc chúng tôi thực hiện đề
tài "Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam".
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận về bảo hiểm
tiền gửi, đồng thời xem xét, đánh giá về thực trạng pháp luật, chúng tôi mong
muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và bản chất của pháp luật về bảo hiểm tiền
gửi, làm tiền đề cho việc bổ sung, hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi; nghiên cứu
bản chất, đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi và các yếu tố ảnh hưởng tới bản
chất, đặc điểm đó để làm rõ vai trị của bảo hiểm tiền gửi.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa bảo hiểm tiền gửi với hoạt động kinh
doanh tiền tệ - tín dụng ngân hàng để làm rõ sự cần thiết của việc ban hành
các quy định bảo hiểm tiền gửi trong hệ thống pháp luật về tài chính ngân hàng.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi trong hệ thống
pháp luật về tài chính ngân hàng. Đồng thời, tham khảo các quy định của các
nước về bảo hiểm tiền gửi để xem xét, phân tích những mâu thuẫn, bất cập
trong thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
cho phù hợp với yêu cầu của thực tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định hiện hành của pháp
luật điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, mối quan hệ của các

quy định này trong tổng thể hệ thống pháp luật về tài chính ngân hàng và sự
tác động của hệ thống pháp luật đối với thực tiễn hoạt động bảo hiểm tiền gửi.


9

Trong khuôn khổ Luận văn này, chúng tôi không đi sâu vào tìm hiểu tất
cả các vấn đề về bảo hiểm tiền gửi mà chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh
pháp lý, cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung pháp luật về bảo hiểm tiền gửi,
đồng thời có tham khảo quy định của một số nước trên thế giới về bảo hiểm
tiền gửi, chẳng hạn như pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của Mỹ, Đài Loan...
Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra những khuyến nghị c ụ
thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu và thực hiện đề tài này.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong việc nghiên cứu và thực
hiện Luận án gồm: phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm
làm sáng tỏ vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu đề tài.
6. Những đóng góp của đề tài
Với việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam", chúng tơi hy vọng góp phần vào việc nghiên cứu và tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, cụ thể:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về bản chất, đặc điểm, vai
trò của bảo hiểm tiền gửi cũng như sự cần thiết và yêu cầu của pháp luật về
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể thực trạng pháp luật về bảo
hiểm tiền gửi ở Việt nam. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tìm ra những điểm
tích cực và hạn chế của thực trạng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
- Đưa ra những khuyến nghị nhằm góp phần hồn thiện pháp luật về

bảo hiểm tiền gửi nói riêng và pháp luật về tài chính ngân hàng nói chung.
7. Bố cục của Luận văn:


10

Ngồi lời nói đầu, Kết luận , Mục lục, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham
khảo, Luận văn gồm ba chương, được bố cục như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam


11

Chƣơng 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN
GỬI
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm tiền gửi trên thế
giới và các mô hình bảo hiểm tiền gửi
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm tiền gửi trên
thế giới
An toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối với hoạt động của
các tổ chức tín dụng. Để đảm bảo an tồn trong kinh doanh của các tổ chức
tín dụng, mỗi nhà nước đều đưa ra những quy định pháp luật về an toàn trong
kinh doanh của các tổ chức tín dụng, ví dụ như giới hạn cho vay đối với một
khách hàng; tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn... qua đó nhằm bảo đảm hơn độ an
tồn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Trên thực tế, các biện pháp này
cũng đã hạn chế được phần nào những rủi ro, tạo ra môi trường ổn định cho
hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, dường như những biện pháp

đó vẫn chưa đủ tạo niềm tin cho người gửi tiền cũng như đảm bảo an toàn đến
mức cao nhất cho các tổ chức tín dụng. Bởi vì, trên thực tế mặc dù các tổ
chức tín dụng đã thực hiện những biện pháp bảo đảm an toàn mà pháp luật
đưa ra nhưng vẫn có rất nhiều tổ chức tín dụng bị phá sản và người gửi tiền có
nguy cơ mất trắng số tiền họ đã gửi vào tổ chức tín dụng hoặc chỉ thu lại
được một số tiền rất nhỏ. Những biện pháp bảo đảm đó vẫn chưa đủ tạo niềm
tin cho người gửi tiền - số đơng là những người gửi tiền với mục đích tiết
kiệm, có những người số tiền họ gửi vào ngân hàng là cả một gia tài đối với
họ. Chính vì vậy, cho dù đã đưa tiền gửi vào ngân hàng nhưng họ vẫn chưa
n tâm vì khơng biết liệu số tiền mình gửi đó được sử dụng như thế nào, nếu
ngân hàng phá sản thì có được trả lại tiền gửi hay khơng? Đó là nỗi lo lắng,
băn khoăn của hầu hết người gửi tiền, do tâm lý như vậy, chỉ cần một tác


12

động nhỏ hay một thông tin về biểu hiện bất thường của bất kỳ một tổ chức
tín dụng nào cũng có thể tạo ra một cuộc chạy đua đến ngân hàng để rút tiền
của những người gửi tiền. Người ta khơng chỉ rút tiền ra khỏi "ngân hàng có
vấn đề", mà sự nghi ngờ còn lan nhanh sang các ngân hàng khác đang hoạt
động lành mạnh và họ sẽ tìm cách rút tiền ra khỏi các ngân hàng khiến cho
các ngân hàng đó sẽ nhanh chóng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán,
nguy cơ đổ vỡ dây chuyền là khó tránh khỏi. Hơn nữa, với mong muốn cứu
vãn số tiền mà mình dành dụm được, những người gửi tiền có khả năng gây ra
những hành động q khích, có thể đẩy một quốc gia rơi vào tình trạng hỗn
loạn về kinh tế, an ninh xã hội và chính trị.
Nhận thức được rằng ổn định tài chính khơng những là lợi ích của
cơng chúng mà cịn có ý nghĩa quan trọng đối với cả nền kinh tế quốc gia nên
việc bảo vệ tiền gửi từ lâu đã được nhiều quốc gia quan tâm. Khi hoạt động
bảo hiểm tiền gửi cơng khai chưa ra đời thì bảo vệ tiền gửi đã được nhiều

quốc gia thực hiện dưới các hình thức “bảo vệ ngầm”. Hình thức bảo vệ ngầm
là việc Ngân hàng Trung ương hay Chính phủ có cam kết khơng cơng khai
rằng sẽ đảm bảo hồn trả tiền gửi cho người gửi tiền nếu có hiện tượng đóng
cửa ngân hàng xảy ra hay một ngân hàng khơng có khả năng thanh tốn cho
người gửi tiền. Vì đây là cam kết khơng cơng khai nên khơng hình thành hợp
đồng bảo hiểm giữa người gửi tiền, ngân hàng và Ngân hàng Trung ương hay
Chính phủ và cũng khơng có những quy định pháp luật cụ thể rõ ràng để điều
chỉnh vấn đề này.
Tuy nhiên, qua thực tế thì nhiều quốc gia nhận thấy việc đưa ra một lời
đảm bảo chính thức đối với người gửi tiền rằng số tiền mà họ gửi tại ngân
hàng sẽ được hoàn trả ngay khi cả ngân hàng mà họ gửi tiền bị phá sản sẽ là
một biện pháp hữu hiệu để ổn định hệ thống ngân hàng và bảo vệ người gửi


13

tiền khỏi những thiệt hại. Đây là tiền đề cho việc hình thành cơ chế chính sách
cơng khai trong việc bảo vệ tiền gửi và từ yêu cầu này bảo hiểm tiền gửi đã ra đời.
Bảo hiểm tiền gửi được xem như một lời đảm bảo công khai và hữu
hiệu để củng cố lịng tin của cơng chúng, góp phần làm giảm khả năng của
những người gửi tiền tại một ngân hàng nào đó về tình trạng tài chính kém
lành mạnh của ngân hàng nào đó cho dù có cơ sở thực tế hay không, làm hạn
chế khả năng người gửi tiền đổ xô đi rút tiền hàng loạt tại ngân hàng và ngay
cả khi thực sự có đổ vỡ ngân hàng xảy ra thì sự đổ vỡ này cũng khó lây lan
sang tổ chức tín dụng đang hoạt động lành mạnh khác.
Mơ hình bảo hiểm tiền gửi được xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm
1934 sau những vụ vỡ nợ ngân hàng hàng loạt vào những năm 1930 - 1933,
đó là Bảo hiểm tiền gửi liên bang của Mỹ (FDIC), FDIC là cơ quan thực hiện
việc bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ
đã tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng vào ngành ngân hàng thông qua

việc bảo hiểm có mức đối với tiền gửi của cơng chúng trong hệ thống ngân hàng.
Tiếp theo FDIC, trong những năm 1960, trên thế giới có thêm 6 quốc
gia thành lập bảo hiểm tiền gửi, những năm 1970 có thêm 4 quốc gia thành
lập bảo hiểm tiền gửi. Đến thập kỷ 90, có tới 30 hệ thống bảo hiểm tiền gửi
được thành lập. Việc tu chỉnh các hệ thống bảo hiểm tiền gửi được thực hiện
phổ biến hơn kể từ khi có Chỉ thị Liên Minh Châu Âu năm 1994. Tính đến
đầu năm 2002, trên thế giới đã có 74 hệ thống bảo hiểm tiền gửi 45 , 46 .
Đặc biệt, ngày 6/5/2002 Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi Quốc tế được thành lập,
có trụ sở tại Thụy Sỹ với sự tham gia của nhiều hệ thống bảo hiểm trên thế
giới. Điều đó, đánh dấu tầm quan trọng của bảo hiểm tiền gửi đã được các
quốc gia cùng quan tâm và cùng phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi trên
tồn thế giới.
1.1.2. Các mơ hình bảo hiểm tiền gửi


14

Hiện nay, trên thế giới có nhiều mơ hình bảo hiểm tiền gửi, phù hợp với
nền tảng pháp luật và đặc điểm kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Song tựu
chung, có thể phân thành hai loại chính, bao gồm:
- Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tài chính Nhà nước, ví dụ như ở
Mỹ, Canada...;
- Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tương hỗ nghề nghiệp tư, ví dụ như
ở Đức, Thụy Sỹ... ;
Ngồi hai mơ hình chủ yếu trên, có thể có những mơ hình khác được
kết hợp giữa hai loại này áp dụng theo nhiều mức độ ở nhiều nước khác nhau.
1.1.2.1. Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tài chính Nhà nước
*Đặc trưng chủ yếu:
- Được Nhà nước cấp vốn ban đầu khi thành lập.
- Thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước chịu trách nhiệm giám sát,

thanh tra. Sự can thiệp của Nhà nước vào loại hình tổ chức này là trực tiếp,
mang tính chất hành chính - kinh tế, và thể hiện sự quan tâm của Nhà nước
đối với những người gửi tiền nhỏ.
- Việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm hay áp dụng các biện pháp hỗ trợ
tài chính cho các tổ chức tham gia bảo hiểm hồn toàn do cơ quan bảo hiểm
tiền gửi quyết định.
- Tuy nhiên, quy mô can thiệp của cơ quan bảo hiểm tiền gửi là có giới
hạn, tùy thuộc vào thực lực tài chính của bảo hiểm tiền gửi và chi phí giới hạn
theo luật định.
- Việc hỗ trợ, giám sát, xử lý của cơ quan bảo hiểm tiền gửi được thực
hiện với tư cách Nhà nước.
*Ưu điểm:
Với mơ hình này, việc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bắt buộc theo luật
định nhằm bảo vệ những người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ


15

một cách trực tiếp. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi thuộc loại này có quyền hạn
như một cơ quan trực thuộc Chính phủ, được ban hành các quy định mang
tính pháp lý, vì vậy hoạt động của nó tn thủ các quy tắc luật định, ít hoặc
khơng tùy thuộc vào người quản lý, mang tính ổn định đối với những người
được bảo hiểm. Với sự tham gia trực tiếp của Nhà nước, bảo hiểm tiền gửi tạo
ra một cơ chế giám sát, đánh giá, phân loại các tổ chức tín dụng, xử lý những
khó khăn của các tổ chức tín dụng, đồng thời có thể nhận được sự hỗ trợ về tài
chính của Chính phủ khi cần thiết.
*Nhược điểm:
Mơ hình bảo hiểm tiền gửi Nhà nước thường dựa trên cơ chế cấp vốn
trước nên pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của các quốc gia đều có quy định về
hạn mức bồi thường tối đa đối với mỗi khách hàng gửi tiền sau khi một tổ

chức tín dụng thành viên thực sự bị phá sản. Quá trình giải quyết khi có vụ
phá sản ngân hàng xảy ra thường phải tuân theo các thủ tục rườm rà, nghiêm
ngặt nên mất nhiều thời gian.
1.1.2.2. Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tương hỗ nghề nghiệp tư
*Đặc trưng chủ yếu:
- Khơng có sự hỗ trợ về vốn của Nhà nước khi thành lập mà vốn hoạt
động ban đầu chủ yếu do các thành viên góp vốn và bằng cách thu phí của các
thành viên như mơ hình bảo hiểm tiền gửi tư nhân của Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Sỹ...
- Nhà nước không can thiệp trực tiếp mà chỉ định ra các điều kiện pháp
lý cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi thành lập và hoạt động. Tổ chức này thuộc
sở hữu của các ngân hàng thành viên trong một Hiệp hội, hoạt động mang
tính tương hỗ vì lợi ích chung của các thành viên khơng vì mục tiêu kinh
doanh chia lợi nhuận. Sự can thiệp này thể hiện quan tâm của từng thành viên
hiệp hội đến những người gửi tiền.


16

- Hiệp hội có thể quyết định một cách chủ động để cứu vãn tình hình
hoặc chủ động can thiệp trước khi một thành viên xảy ra tình trạng mất khả năng
trả nợ.
- Quy mơ can thiệp có giới hạn tùy theo mức độ phát triển của tổ chức
nhận bảo hiểm, song có cơ hội mở rộng tùy thuộc vào sự chủ động của Hiệp
hội và khả năng phát triển của hội viên.
- Hỗ trợ, giám sát mang tính tự quản với mục tiêu để tự cứu mình của
các ngân hàng thành viên.
*Ưu điểm:
Mơ hình này phát huy được quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của
các tổ chức tín dụng thành viên, khơng dựa vào Nhà nước, vì vậy các tổ chức
tín dụng thành viên tự mình có ý thức giữ cho hoạt động của tổ chức mình lành

mạnh.
*Nhược điểm:
Mơ hình này là tổ chức do các tổ chức thành viên tự quản nên các tổ
chức bảo hiểm thuộc loại này khơng có quyền hạn của một cơ quan trực thuộc
Chính phủ ban hành các quy định mang tính pháp quy. Do vậy, về cơ bản hệ
thống này không dễ dàng xác định được trách nhiệm của các thành viên trong
việc chia xẻ chi phí bồi thường cho người gửi tiền. Mơ hình này cũng thiếu sự
hỗ trợ về vốn khi cần thiết của Chính phủ bởi đây là loại hình thuộc sở hữu và
quản lý của các tổ chức tín dụng thành viên. Việc thanh tốn tiền bảo hiểm,
ngoại trừ một số ít quốc gia trả bảo hiểm ở mức cao, đa số còn lại thường trả
bảo hiểm ở mức thấp, ví dụ như Áo, Luxembuorg, Hà Lan, Thụy Sỹ đều đưa
ra mức thanh toán tiền bảo hiểm thấp hơn GDP bình qn đầu người. Chỉ có
Ý là đưa ra mức thanh toán bảo hiểm cao hơn 5 lần so với bình qn GDP/đầu
người và Đức có mức thanh toán bảo hiểm cao là gấp 2 lần so với bình qn
GDP/đầu người 37 . Ngồi ra, thơng tin về tình trạng tài chính của tổ chức


17

tín dụng thành viên từ Ngân hàng Trung ương hoặc tổ chức giám sát thuộc
Chính phủ đến hệ thống bảo hiểm tiền gửi thường khó khăn hoặc chậm trễ.
1.2. Khái niệm và mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi
1.2.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
1.2.1.1.Khái niệm chung về tiền gửi
Một trong những hoạt động cơ bản của các tổ chức tín dụng là thu thập
những đồng tiền có sẵn, nhàn rỗi từ dân chúng bằng nhiều cách như nhận tiền
gửi, nhận tiền tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, phát hành chứng chỉ tiền gửi …
và đem số tiền huy động được cho những người có nhu cầu vay tiền để sử
dụng cho mục đích sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt và đời sống. Do vậy, các
tổ chức tín dụng đã trở thành người trung gian giữa người gửi tiền và người

vay tiền. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý, người gửi tiền và người vay tiền
khơng có mối liên hệ pháp lý nào. Họ chỉ biết có tổ chức tín dụng là "người
đối thoại" duy nhất, nên tổ chức tín dụng phải có trách nhiệm trả tiền cho
người gửi tiền và được tự mình sử dụng số tiền đó, muốn cho ai vay là tự
mình quyết định và tự chịu trách nhiệm đối với khoản vay đó.
Tiền gửi là thuật ngữ đã được sử dụng từ rất lâu, và việc nhận tiền gửi
được coi là một trong những nghiệp vụ đầu tiên của ngân hàng, nó gắn liền
với sự hình thành và phát triển của hoạt động Ngân hàng. Trước đây, thuật
ngữ tiền gửi chỉ được hiểu một cách đơn giản là các khoản tiền nhàn rỗi của
dân chúng nhưng không biết đầu tư vào đâu nên đem gửi vào ngân hàng để
tiết kiệm cũng như để đảm bảo an toàn tài sản. Sau này khi các nghiệp vụ
ngân hàng càng phát triển kéo theo sự phát triển của hàng loạt nghiệp vụ khác
như cho vay, thanh tốn thì những khoản tiền của dân chúng gửi tại Ngân
hàng đã được hưởng lãi.
Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội thì hoạt động ngân
hàng cũng phát triển đa dạng, phong phú hơn về hình thức huy động các


18

nguồn vốn nhàn rỗi, dư thừa trong xã hội và đồng thời để động viên khuyến
khích việc gửi tiền vào ngân hàng thì các ngân hàng phải quy định mức lãi
suất phù hợp và hình thức trả lãi thỏa đáng phù hợp với từng hình thức huy
động, cung cấp các dịch vụ thanh tốn có chất lượng, hạch tốn nhanh chóng
chính xác kịp thời, đảm bảo nhu cầu thanh tốn bằng mọi hình thức khi khách
hàng có nhu cầu. Do đó, thuật ngữ tiền gửi cũng được hiểu rộng hơn và được
ghi nhận trong các văn bản pháp luật về tài chính ngân hàng của mỗi quốc gia
và ở mỗi quốc gia khác nhau lại có sự phân loại và định nghĩa khác nhau về
tiền gửi.
Chẳng hạn, Đạo luật 372 Luật về các tổ chức tài chính ngân hàng năm

1989 của Malayxia, tại Điều 2 đã định nghĩa tiền gửi như sau: “Tiền gửi có
nghĩa là một khoản tiền đã nhận hay được hoàn trả theo các điều kiện: a) mà
theo đó khoản tiền sẽ được hồn trả, có hoặc khơng có lãi hoặc có cộng thêm
phí hoặc chiết khấu đi; hoặc b) mà theo đó khoản tiền phải hồn trả, tồn bộ
hoặc một phần, với bất kỳ tính tốn nào về tiền tệ hoặc trị giá tiền tệ, và
khoản được hồn trả như vậy khơng kỳ hạn hoặc có kỳ hạn hoặc trong những
hoàn cảnh được thỏa thuận bởi hoặc thay mặt cho người thực hiện thanh toán
và người nhận thanh toán, bất kỳ là giao dịch được coi như là một khoản cho
vay, một khoản ứng trước, một khoản đầu tư, khoản tiết kiệm, mua hoặc mua
và bán, nhưng khơng tính yếu tố xác thực của khoản tiền được trả”. Theo
định nghĩa này thì khái niệm về tiền gửi được hiểu rất rộng, nó khơng đơn
thuần chỉ là các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng gửi tại ngân hàng để tiết
kiệm hay nhằm hưởng lãi, mà các khoản tiền của khách hàng gửi tại Ngân
hàng nhằm vào các mục đích khác nhau như để đầu tư, tiết kiệm hay đó là
một khoản ứng trước hay để đặt cọc, ký quỹ cho một giao dịch mua bán hay
để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng đều được pháp luật Malayxia thừa nhận
là tiền gửi 46 .


19

Tại Việt Nam, pháp luật cũng đã có quy định về khái niệm tiền gửi.
Theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 thì “tiền gửi là số tiền của khách
hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi
có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi
hoặc không hưởng lãi và phải được hoản trả cho người gửi tiền” (Điều 20
khoản 9). Định nghĩa này đã đưa ra được một cách nhìn tổng quan về những
khoản tiền nào của khách hàng sẽ được coi là tiền gửi nhưng đây chỉ là các
khoản tiền được gửi tại tổ chức tín dụng cịn những khoản tiền gửi tại các tổ
chức khác có hoạt động ngân hàng nhưng khơng phải là tổ chức tín dụng sẽ

khơng được coi là tiền gửi. Tuy nhiên, theo Luật sửa đổi và bổ sung một số
điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2004 thì định nghĩa về tiền gửi đã có
sự thay đổi lớn về phạm vi gửi tiền và chủ thể gửi tiền, cụ thể “tiền gửi là số
tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác có
hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc
không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền” (Điều 2 khoản 3).
Ngồi định nghĩa tại Luật các TCTD nói trên thì tại Nghị định số
70/2000/NĐ-CP ngày 21/11/2000 của Chính phủ về giữ bí mật thơng tin liên
quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng gửi tại các TCTD cũng có
quy định về tiền gửi như sau: "Tiền gửi của khách hàng bao gồm tiền đồng
Việt Nam và các loại ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân dưới hình thức tiền
gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn (kể cả tiền gửi tiết kiệm và các hình thức
tiền gửi khác)". Như vậy, cả hai định nghĩa nêu trên về tiền gửi theo các quy
định pháp luật hiện hành của Việt Nam đều không nêu được bản chất thế nào
là tiền gửi mà chỉ là định nghĩa mang tính liệt kê các loại tiền gửi mà thơi.
Qua phần dẫn chiếu ở trên có thể thấy pháp luật của mỗi quốc gia khác
nhau sẽ có các khái niệm khác nhau về tiền gửi. Tuy nhiên, có thể khái quát


20

khái niệm về tiền gửi một cách ngắn gọn như sau: Tiền gửi là các khoản tiền
của khách hàng gửi tại TCTD hoặc tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới
các hình thức được pháp luật cơng nhận.
Một trong những thông tin quan trọng mà công chúng cần là phải có
một định nghĩa khả thi, rõ ràng về tiền gửi để từ đó họ xác định khoản tiền
của họ có được bảo hiểm hay khơng. Do vậy, định nghĩa về tiền gửi cần phải
quy định rõ ràng trong văn bản pháp luật, chính sự định nghĩa rõ ràng, chính
xác và khả năng thực thi pháp luật có vai trị rất quan trọng để tạo ra sự ổn

định về việc thanh toán tiền bảo hiểm và tạo điều kiện cho việc xử lý các
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi. Việc định nghĩa rõ ràng
còn giúp tránh được sự bất ổn và sự kiện tụng có thể xảy ra sau khi một tổ
chức tín dụng bị phá sản hoặc mất khả năng thanh toán. Bên cạnh đó, việc này
là rất cần thiết giúp cho cơ quan bảo hiểm tiền gửi có thể tính tốn được chi
phí bảo hiểm mà các tổ chức thành viên "bị đóng cửa" phải trả, đồng thời
cũng xác định được rõ những khoản tiền mà cơ quan bảo hiểm phải thanh
toán khi tổ chức tín dụng "bị đóng cửa". Cả cơ quan bảo hiểm tiền gửi và tổ
chức tín dụng thuộc diện được thanh toán của cơ quan bảo hiểm tiền gửi đều
phải có trách nhiệm cơng bố cho cơng chúng biết loại tiền gửi nào được bảo
hiểm và loại nào không được bảo hiểm và cơng chúng có quyền biết điều này
để bảo vệ lợi ích của họ.
1.2.1.2..Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi
Do nhu cầu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ngày càng gia tăng,
cũng như để ổn định nền kinh tế quốc gia, các nhà quản lý về tài chính - ngân
hàng trên thế giới đã kêu gọi mỗi quốc gia cần có một định nghĩa mang tính
chất rõ ràng về bảo hiểm tiền gửi, thơng qua đó nhằm bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền. Tuy nhiên đến nay, chúng tơi chưa tìm thấy một định nghĩa
độc lập và chính thống về bảo hiểm tiền gửi trong các văn bản pháp luật ở


21

Việt Nam. Để tìm hiểu khái niệm bảo hiểm tiền gửi, có thể xem xét quan
điểm của một số chuyên gia hay trong pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của một
số nước.
Theo tài liệu chuyên khảo “Bảo hiểm tiền gửi và quản lý khủng hoảng"
do Quỹ tiền tệ quốc tế phát hành của tác giả Carl Johan Lindgren và Gilian
Garcia thì “Bảo hiểm tiền gửi được định nghĩa như một cơ chế có giới hạn
nhưng chính thức cung cấp sự bảo đảm mang tính pháp lý cho các khoản gốc

(và thường là cả lãi) của các khoản tiền gửi" 38, tr3 .
Theo tài liệu của tác giả Choi J.B (2000) "Cơ cấu của những hệ thống
bảo hiểm tiền gửi ở Châu Á" thì "bảo hiểm tiền gửi là chính sách bảo đảm tất
cả hoặc một phần tiền gửi cùng lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ được
thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng nhận tiền gửi bị phá sản hay mất
khả năng thanh toán, theo cơ chế hợp đồng hoặc cam kết công khai" 39 .
Theo Pháp lệnh Bảo hiểm tiền gửi năm 1985 của Đài Loan thì thuật
ngữ bảo hiểm tiền gửi được định nghĩa như sau: “Thuật ngữ bảo hiểm tiền gửi
được sử dụng trong Pháp lệnh này, có nghĩa là một loại hình bảo hiểm áp
dụng cho các loại tiền gửi và quỹ tín thác được liệt kê cụ thể tại điều 4 của Pháp
lệnh này”.
Như vậy, có thể khái quát bảo hiểm tiền gửi là việc đảm bảo nghĩa vụ
chi trả trong tương lai của tổ chức bảo hiểm tiền gửi cho các khoản tiền
gửi khi các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi gặp rủi ro dẫn đến
mất khả năng thanh tốn.
Hay nói cụ thể hơn, bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức
bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về việc tổ chức
bảo hiểm tiền gửi sẽ trả tiền gửi bao gồm phần gốc và lãi cho người gửi tiền
khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động và không có
khả năng thanh tốn cho người gửi tiền. Cam kết công khai này được thể hiện


22

dưới hình thức hợp đồng bảo hiểm giữa ba chủ thể: tổ chức bảo hiểm tiền gửi,
tổ chức huy động tiền gửi (tổ chức tham gia bảo hiểm) và người gửi tiền.
1.2.2. Mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi
Trên thực tế, mục tiêu cụ thể của mỗi mơ hình bảo hiểm tiền gửi có
khác nhau nhưng tựu chung lại đều nhằm đạt được 4 mục tiêu sau:
- Bảo vệ quyền lợi của người gửi đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ,

đối tượng có hạn chế nhất định trong tiếp cận thơng tin về điều hành và tình hình
hoạt động của các tổ chức tài chính 46, tr.1 ;
- Góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính ổn định và tạo điều kiện
cho các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng tránh đổ vỡ ngân
hàng;
- Góp phần xây dựng một thị trường bảo hiểm tiền gửi có tính cạnh
tranh và bình đẳng cho các tổ chức tài chính có quy mơ và trình độ phát triển
khác nhau;
- Xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức bảo
hiểm tiền gửi, Chính phủ và giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế trong trường hợp có
ngân hàng đổ bể.
Hay nói cách khác, mục đích của bảo hiểm tiền gửi là nhằm cơ lập các
hoạt động xấu, các đổ vỡ trong hoạt động tài chính và ngân hàng; nhằm bảo
vệ người đóng thuế; và nhằm loại bỏ tình trạng thiếu minh bạch trong hoạt
động kinh doanh tài chính và ngân hàng 42,tr.10 . Theo chuyên gia Kuritzkes
và các nhà nghiên cứu khác thì bảo hiểm tiền gửi được thiết kế nhằm ngặn
chặn người gửi tiền khỏi các "phản ứng quá đỗi" đối với các thông tin thất thiệt về
ngân hàng 44, tr.5 .
Người gửi tiền nhỏ mà bảo hiểm tiền gửi đề cập và "giành" quan tâm
nhất ở đây là tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Tầng lớp dân cư này có những
hạn chế nhất định trong việc tiếp cận và phân tích thơng tin về hoạt động của


23

tổ chức huy động tiền gửi. Đời sống của những người gửi tiền thuộc tầng lớp
dân cư có thu nhập thấp thường bị tác động nhiều hơn các khách hàng gửi tiền
khác khi có đổ bể ngân hàng xảy ra. Mặc dù, tiền gửi tại ngân hàng của những
nguời có thu nhập thấp thường ít hơn số tiền gửi của các đối tượng khác
nhưng có thể tiền lãi trên số tiền gửi ít ỏi đó lại là nguồn sống hàng ngày của

người dân nghèo. Vì lo lắng sẽ bị ảnh hưởng khi có đổ bể ngân hàng và vì bị
hạn chế về khả năng có được thơng tin chính xác về hoạt động của các tổ
chức tín dụng nên tầng lớp người gửi tiền có thu nhập thấp thường hay có các
"ứng xử q đỗi" khi có thơng tin đồn đại thất thiệt về ngân hàng. Chẳng hạn,
khi có một thơng tin đồn đại xấu về ngân hàng nào đó thì họ có thể ồ ạt rút tất
cả tiền gửi tại ngân hàng khi mà nhu cầu chi tiêu chủ quan chưa nhất thiết
phải làm như vậy. Hiện tượng rút tiền ồ ạt vì một thơng tin thất thiệt ở Ngân
hàng Thương mại cổ phần Á Châu tại Việt Nam trong tháng 10/2003 là một
minh chứng cụ thể. Các hiện tượng đó nếu khơng được xử lý kịp thời có thể là
nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ ngân hàng hàng loạt và đây là một trong các
nhiệm vụ chính mà hoạt động bảo hiểm tiền gửi cần ngăn chặn.
1.3. Vai trò và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
1.3.1. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi
Vai trò của bảo hiểm tiền gửi đối với quốc gia được thể hiện trên nhiều
góc độ. Nếu xuất phát từ bản chất của bảo hiểm tiền gửi là bảo hiểm rủi ro về
tiền gửi tại các ngân hàng thì vai trị nổi bật của bảo hiểm tiền gửi là có tác
dụng thúc đẩy sự kết hợp hài hòa giữa nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động
ngân hàng hướng tới thu hút được tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong
cộng đồng và sự cộng tác tích cực của các thành viên trong xã hội trên cơ sở
các bên cùng có lợi, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Với ý nghĩa đó, bảo hiểm tiền gửi có các vai trị sau:


×