Tải bản đầy đủ (.docx) (182 trang)

Đánh giá chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở đảng bộ thành phố hà nội giai đoạn hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.44 KB, 182 trang )

LUẬN VĂN:

Đánh giá chất lượng các đảng bộ xã,
phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà
Nội giai đoạn hiện nay


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn cách mạng Việt Nam 79 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố chủ yếu, quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng. Để xứng đáng với vai trò đó, Đảng đã luôn coi trọng và đề ra các chủ trương, giải
pháp đúng đắn về xây dựng Đảng với mục đích làm cho Đảng ngày càng vững mạnh từ
Trung ương đến cơ sở và ở các ngành, các cấp. Trong đó, Đảng đã rất quan tâm đến việc
xây dựng, củng cố nâng cao chất lượng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ
làm cho các TCCSĐ xứng đáng với vị trí, vai trò là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính
trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng và nhân dân, nơi biến những quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực sinh động.
Hiện nay, toàn Đảng có hơn 52.000 TCCSĐ, trong đó TCCSĐ ở xã, phường, thị
trấn chiếm phần lớn trong tổng số TCCSĐ, nằm ở khắp các vùng miền của đất nước. Các
đảng bộ xã, phường, thị trấn trực tiếp lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội, các tổ
chức trong hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp. Các đảng bộ xã,
phường, thị trấn lãnh đạo và quyết định trên thực tế việc thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyết định sự phát triển lành mạnh, đúng
định hướng XHCN của các hoạt động trên địa bàn quận, huyện, thị.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm
cho nên trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong những năm gần đây Đảng ta
luôn coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo sát đối với công tác này. Nhờ đó mà Đảng đã có các
biện pháp phù hợp để ngày càng củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của


các TCCSĐ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đánh giá chất lượng


TCCSĐ hằng năm cũng còn không ít những hạn chế, khuyết điểm được Đảng chỉ rõ trong
báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X:
Không ít cơ sở đảng yếu kém, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp;
sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn; tự
phê bình và phê bình yếu. Việc đánh giá tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không
ít trường hợp chưa đúng thực chất, còn hình thức [16, tr.271].


Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu BCHTW Đảng (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn tiếp tục chỉ rõ: “Việc
đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm còn hình thức, kết quả chưa
phản ánh đúng thực chất” [18, tr.93].
Trong quá trình xây dựng và phát triển Thủ đô, Thành ủy Hà Nội luôn xác định
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ, chất lượng đội ngũ đảng viên được xác định là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu. Đánh giá đúng chất lượng TCCSĐ và đảng viên hàng năm lại
luôn được coi là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Quán triệt quan
điểm này, trong thời gian qua, Thành ủy Hà Nội đã triển khai thực hiện nghiêm túc, đúng
quy định của Đảng về công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm. Chính vì vậy, công
tác đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm ở Đảng bộ Hà Nội nhìn chung bước đầu đã đạt
được kết quả nhất định, góp phần xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, có tác dụng
tích cực đến việc phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô. Tuy vậy, công tác đánh giá chất
lượng TCCSĐ hằng năm trong thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế được chỉ ra
trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2006 2010): “Không ít nơi, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên
chưa ngang tầm nhiệm vụ, vai trò lãnh đạo còn mờ nhạt … việc đánh giá, phân loại tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên ở nhiều nơi chưa phản ánh đúng thực chất” [7, tr.48].
Giai đoạn hiện nay, từ khi thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính thành

phố Hà Nội theo Kết luận của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá X)
và Nghị quyết 15/NQ-QH ngày 29/5/2008 của Quốc hội khoá XII, trong Báo cáo số 14-


BC/TU ngày 06/11/2008 của Thành ủy Hà Nội về phương hướng, nhiệm vụ công tác xây
dựng Đảng từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội XIV (2005 - 2010) đã đề ra phải “tiếp tục đổi
mới công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên bảo đảm tiêu chuẩn, quy trình chặt
chẽ, khách quan, phản ánh đúng thực chất” [41, tr.6].
Như vậy, cùng với tình hình chung của cả nước, đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng
năm ở Đảng bộ thành phố Hà Nội cũng là công tác yếu, chậm được khắc phục. Đây là một


trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc chưa kịp thời đưa ra các giải pháp nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ sát với thực tế.
Hiện nay, số TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội là 577
TCCSĐ, 8.096 chi bộ với tổng số 204.495 đảng viên (chiếm 65% tổng số đảng viên của
toàn Đảng bộ thành phố Hà Nội). Có thể khẳng định, chất lượng hiệu quả hoạt động, lãnh
đạo của các TCCSĐ xã, phường, thị trấn là phần không thể xem nhẹ ảnh hưởng đến chất
lượng hiệu quả hoạt động của toàn Đảng bộ. Tuy nhiên thời gian qua, năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên của không ít tổ chức đảng ở
xã, phường, thị trấn ở Hà Nội vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm, chưa đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của Thành phố trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay. Chính vì vậy, việc
đánh giá đúng chất lượng TCCSĐ và đảng viên hằng năm là một vấn đề quan trọng, là yêu
cầu vừa cấp bách vừa lâu dài. Đánh giá đúng là căn cứ để đề ra chủ trương, giải pháp nhằm
củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và giáo dục, rèn luyện nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Điều này có ý nghĩa sống còn đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta. Vì vậy, phải nghiên cứu một cách căn bản, khoa học và đưa ra các giải
pháp có tính khả thi cao nhằm đánh giá đúng thực chất chất lượng TCCSĐ hằng năm, đáp ứng
mục tiêu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng

viên ở cơ sở.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của thời kỳ đổi mới đất nước và thực trạng
của Đảng bộ thành phố Hà Nội, tác giả chọn đề tài: “Đánh giá chất lượng các đảng bộ
xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc


sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng, quan điểm về đánh giá chất lượng TCCSĐ cũng đã được C.Mác Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đề cập. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nêu lên những
tư tưởng, quan điểm về chất lượng TCCSĐ và công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ trong
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, chúng ta
thấy rằng, việc nghiên cứu một cách khoa học về đánh giá chất lượng TCCSĐ trên cơ sở tư


tưởng, quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cũng như của Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh một cách chuyên sâu nhìn chung chưa có nhiều. Trong những tác phẩm khoa
học, qua những bài viết, bài báo thì có một số vấn đề liên quan đến công tác đánh giá chất
lượng TCCSĐ đã được nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy đảng và các nhà khoa học quan tâm
như:
* Một số báo cáo, tài liệu liên quan:
- Các báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng tại các kỳ Đại hội, nhất là tại các kỳ
Đại hội gần đây.
- Các báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng hằng năm của Đảng bộ Thành phố
Hà Nội.
- Các báo cáo kết quả đánh giá chất lượng TCCSĐ và đảng viên hằng năm của
Trung ương và Thành ủy Hà Nội.
- Các tài liệu hướng dẫn đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên của Ban
Tổ chức Trung ương và Thành ủy Hà Nội từ năm 1993 đến nay.
* Một số bài báo, bài viết liên quan:
- “Bốn kinh nghiệm thực hiện đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng

viên” (số 9-2006) của tác giả Phúc Sơn, đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. Bài báo đưa ra
một số kinh nghiệm chung trong công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ.
- “Để đánh giá đúng thực chất tổ chức cơ sở đảng và đảng viên ở Bình Phước” (số
9-2008) của tác giả Phạm Hùng Sơn, đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. Bài báo đưa ra
một số giải pháp cho công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ trên cơ sở tình hình thực tế ở
Đảng bộ tỉnh Bình Phước.


- “Cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Trung ương về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” (số 5-2008)
của tác giả Nguyễn Đức Hà, đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng.
- “Khó khăn và giải pháp trong nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên” (số 11-2007) của tác giả Phúc Sơn, đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng.
- “Hằng tháng đánh giá chất lượng tổ chức đảng ở Đảng bộ Công an tỉnh Phú
Thọ” (số 12-2007) của Đại tá Đỗ Đức Kính đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng.


- “Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở Hà Nội” (số 5-2008) của
tác giả Nguyễn Công Soái đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng. Bài báo đánh giá thực trạng
các TCCSĐ ở Đảng bộ Hà Nội và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ trong giai đoạn hiện nay.
* Một số luận văn Thạc sĩ liên quan:
- “Đánh giá cán bộ xã diện Ban Thường vụ huyện ủy quản lý ở tỉnh Hải Dương
trong giai đoạn hiện nay” (2008) của Phạm Thùy Dương, Luận văn thạc sĩ khoa học chính
trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã ở tỉnh Hà Tây
hiện nay - thực trạng và giải pháp” (2004) của Tạ Thị Minh Phú, Luận văn thạc sĩ khoa
học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn

- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đánh giá chất lượng các đảng
bộ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đánh giá đúng thực chất
chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ quan niệm, nội dung, quy trình, phương pháp đánh giá chất lượng các
đảng bộ xã, phường, thị trấn thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác đánh giá chất lượng hàng năm ở các đảng bộ


xã, phường, thị trấn thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2008.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm đánh giá
đúng thực chất và nâng cao chất lượng công tác đánh giá các đảng bộ xã, phường, thị trấn thuộc
Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu


Công tác đánh giá chất lượng các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ thành phố
Hà Nội. (Trong phạm vi đề tài này thuật ngữ đảng bộ xã, phường, thị trấn được tác giả diễn
đạt bằng thuật ngữ TCCSĐ xã, phường, thị trấn).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu công tác đánh giá chất lượng của các đảng bộ xã, phường, thị trấn
ở Đảng bộ thành phố Hà Nội từ năm 2004 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về TCCSĐ và đánh giá chất
lượng TCCSĐ. Đồng thời có sự kế thừa kết quả nghiên cứu được rút ra từ các báo cáo tổng

kết, các bài báo, bài viết của các nhà khoa học về những vấn đề luận văn quan tâm.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn là công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở
đảng ở các xã, phường, thị trấn thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội từ năm 2004 đến năm
2008. Có sử dụng kết hợp các kết quả khảo sát trực tiếp và các báo cáo về công tác xây
dựng Đảng, tình hình TCCSĐ và đội ngũ đảng viên ở cơ sở, các số liệu thống kê về kết
quả đánh giá chất lượng TCCSĐ hằng năm của Đảng bộ thành phố Hà Nội.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận Mác xít (duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử), kết hợp với các phương pháp khác như: lịch sử, lôgic, phân tích,
tổng hợp, điều tra, khảo sát, so sánh, tổng kết thực tiễn…


6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học của công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ
sở đảng ở các xã, phường, thị trấn thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở
Đảng bộ thành phố Hà Nội hiện nay.


- Tìm ra nguyên nhân của thực trạng, những kinh nghiệm thực tiễn và đề xuất một
số giải pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm đánh giá đúng chất lượng TCCSĐ xã, phường,
thị trấn ở Đảng bộ thành phố Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho công tác đánh giá
chất lượng TCCSĐ nói chung, công tác đánh giá chất lượng TCCSĐ xã, phường, thị trấn ở
Đảng bộ thành phố Hà Nội nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể gợi mở cho các cấp uỷ quan tâm hơn về mục
đích, yêu cầu, nội dung, quy trình, phương pháp đánh giá chất lượng TCCSĐ ở xã,
phường, thị trấn. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác đánh giá

chất lượng TCCSĐ ở địa phương, đặc biệt là ở các xã, phường, thị trấn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


Chương 1
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. CÁC ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1.1. Khái quát về các xã, phường, thị trấn ở thành phố Hà Nội hiện nay
Trong hệ thống chính trị ở nước ta, xã, phường, thị trấn là một thiết chế xã hội, có
đầy đủ các tổ chức, bao gồm: Tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị,
các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước. Do đó xã, phường, thị trấn được xác định là nền tảng cơ sở của hệ
thống tổ chức hành chính 4 cấp của Nhà nước ta.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, xã, phường, thị trấn có vị trí đặc biệt quan trọng
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
Thực hiện chủ trương điều chỉnh, mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội
theo theo Kết luận Hội nghịz lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng (khoá X) và Nghị quyết số
15/NQ-QH ngày 29/5/2008 của Quốc hội khóa XII về điều chỉnh, mở rộng địa giới hành
chính Thủ đô Hà Nội kể từ ngày 01/8/2008, Thủ đô Hà Nội đã được mở rộng với diện tích
tự nhiên 3.344 km2, dân số hơn 6,32 triệu người với điều kiện tự nhiên phong phú hơn, các
nguồn lực dồi dào hơn.
Đến nay, thành phố Hà Nội có 29 đơn vị hành chính quận, huyện, thị xã với 408 xã,
148 phường và 21 thị trấn (Phụ lục số 1).
Xã, là nơi cộng đồng dân cư làm ăn sinh sống, liên kết chặt chẽ với nhau trong các



quan hệ anh em, họ tộc, xóm làng, tín ngưỡng, tôn giáo, nghề nghiệp và quan hệ kinh tế… Xã
được hình thành từ các làng, mỗi làng, xã đều có các đặc điểm chung về cấu trúc văn hoá,
phong tục, tập quán… nhưng cũng có nhiều nét riêng biệt, riêng có. Là nơi tập trung một lực
lượng lớn lao động, đất đai, nơi sản xuất ra lương thực, thực phẩm nuôi sống toàn xã hội, là
nơi cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy, xí nghiệp và các sản phẩm xuất khẩu…
Xã, thị trấn là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện, biến mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,


quốc phòng ở nông thôn thành hiện thực trong cuộc sống. Xã, thị trấn cũng là nơi phản ánh
trực tiếp tâm tư, tình cảm, yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là nơi kiểm
nghiệm trên thực tế sự đúng đắn của các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước; là nơi cung cấp các kinh nghiệm thực tiễn để Đảng, Nhà nước và lãnh đạo
thành phố điều chỉnh bổ sung, hoàn chỉnh các chủ trương, đường lối về phát triển nông
nghiệp nông thôn và với toàn thể nông dân. Là nơi cư trú và hoạt động của người nông
dân, nên mọi biến động tích cực hay tiêu cực của nông thôn đều tác động trực tiếp đến sự
phát triển chung của toàn thành phố nói riêng cũng như của cả nước nói chung: như các
vấn đề về dân số, dân cư, dân chủ… Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự ổn
định chính trị, xã hội và sự phát triển.
Phường là đơn vị hành chính cơ sở ở nội thành, nội thị, tổ chức theo khu vực dân cư
đô thị, có vị trí rất quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trước hết là
địa bàn nội thị, nội thành. Phường là đơn vị tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước; nơi trực tiếp phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động; là nơi cư trú của nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội và là nơi có tiểm năng lớn về lao
động, tay nghề, chất xám, cơ sở vật chất kỹ thuật, tiền vốn…
Các phường được hình thành sau xã, chậm ổn định. Cộng đồng dân cư ở đây không
cố kết bền vững như ở xã. Số dân tăng cơ học nhanh và số người nghỉ hưu, mất sức ngày
càng nhiều. Đây là địa bàn vốn đã phức tạp, sôi động, trong nền kinh tế thị trường, mở cửa,
hội nhập quốc tế và quá trình đô thị hoá, tính chất phức tạp, sôi động đó càng tăng lên. Tại
đây, hằng ngày hằng giờ diễn ra cuộc đấu tranh rất quyết liệt giữa cái mới với cái cũ, cái

tiến bộ với cái lạc hậu; giữa tư tưởng đổi mới, năng động với tư tưởng bảo thủ, trì trệ.


Cũng tại đây, kẻ địch và những phần tử xấu thường xuyên lén lút hoạt động phá hoại, kể cả
âm mưu gây bạo loạn lật đổ; lợi dụng những sơ hở của cơ chế, chính sách để làm ăn phi
pháp, gây rối loạn nền kinh tế - xã hội.
Thủ đô Hà nội - đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa,
khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Hà Nội đã được Nhà nước ta
hai lần tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, là thành phố được phong tặng danh hiệu cao


quý “Thủ đô anh hùng”, cũng là thành phố đầu tiên ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương
được nhận danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”.
Vốn là vùng đất nghìn năm văn hiến, với những nét tinh hoa của người Hà Nội, xã,
phường, thị trấn của Thủ đô Hà Nội là một trong những nơi lưu giữ nhiều nhất những giá
trị lịch sử - văn hóa truyền thống hết sức quý báu của nhân dân ta. Những di tích lịch sử văn hóa, di tích cách mạng, những phong tục tập quán, truyền thống, tập tục tốt đẹp của
địa phương, những giá trị, những nét đẹp văn hóa qua các câu vè, làn điệu dân ca… đều có
giá trị thẩm mỹ và giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, văn hóa sâu sắc, góp phần
quan trọng vào việc giữ gìn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc.
Hiện nay, ở cơ sở nói chung, ở xã, phường, thị trấn nói riêng của Thủ đô thật sự là
nền tảng, nơi bắt đầu và là hạt nhân cơ bản hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cuộc vận động này
có ý nghĩa rất quan trọng, mang tính chất toàn dân, toàn diện và sâu sắc, góp phần tạo ra
động lực mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Chính quyền và nhân dân các địa
phương trong toàn Thành phố đã phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng địa
phương giàu đẹp, an ninh và đảm bảo công bằng xã hội. Tuy vậy, một bộ phận nhân dân ở
các địa phương vẫn chưa nêu cao ý thức làm chủ, còn mang nặng tư tưởng ỷ lại, ngại họp
hành, đấu tranh… Về phía cán bộ xã, phường, thị trấn, một số người quen với phong cách
lãnh đạo, quản lý, làm việc theo kiểu quan liêu, giấy tờ, sự vụ, không sâu sát dân, làm việc
cầm chừng, sợ mất lòng… Đó là những lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa

phương. Do đó, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng chính quyền cơ sở vững
mạnh, thực sự là của dân, do dân và vì dân, có đầy đủ khả năng, hiệu lực xem xét, xử lý


kịp thời những ý kiến, kiến nghị, yêu cầu hằng ngày của nhân dân.
1.1.2. Vị trí, vai trò và đặc điểm của các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở thành
phố Hà Nội
1.1.2.1. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên nói chung
Học thuyết về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân đã khẳng định: các tổ
chức cơ sở của đảng cộng sản dù quy mô như thế nào, thuộc loại hình nào đều là một khâu
quan trọng trong hệ thống tổ chức và hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng. TCCSĐ là


tổ chức của Đảng ở cơ sở, các TCCSĐ lập thành nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị
lãnh đạo các nhiệm vụ và mọi hoạt động ở cơ sở, là cầu nối liền giữa Đảng với nhân dân,
là đơn vị chiến đấu trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước vào cuộc sống.
Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, C.Mác và
Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đưa ra tư tưởng, quan điểm về vị trí, vai trò của
TCCSĐ. Tư tưởng đó được thể hiện trong quá trình xây dựng và lãnh đạo “Liên đoàn
những người cộng sản”. Tại Điều 5 của “Liên đoàn những người cộng sản” đã xác định:
“về cơ cấu, Liên đoàn gồm chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban chấp hành trung ương và Đại
hội” [28, tr.733]. Sau đó, từ kinh nghiệm của cuộc cách mạng 1848 - 1849, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định: giai cấp công nhân phải xây dựng một chính đảng có tổ chức
thống nhất, độc lập và hai ông đi đến kết luận: Để khỏi tụt xuống làm vai trò của kẻ vỗ tay
bọn dân chủ tư sản, công nhân mà trước hết là Liên đoàn phải cố gắng thành lập song song
với phái dân chủ chính thức một đảng riêng biệt, bí mật và công khai của công nhân và
biến mỗi chi bộ của mình thành trung tâm và hạt nhân của các hội liên hiệp công nhân.
Những tư tưởng của hai ông tuy chưa đầy đủ nhưng cũng là cơ sở của cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa cơ hội trên lĩnh vực tổ chức, để tiến hành xây dựng chính đảng cách

mạng kiểu mới của giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng dó trong nhiều tác
phẩm viết trước Cách mạng Tháng Mười Nga. Với sự phát triển của cách mạng và đặc biệt
sau khi Đảng Cộng sản (b) Nga trở thành đảng cầm quyền, với vai trò là lãnh tụ chính trị của
toàn xã hội, các tổ chức cơ sở của Đảng được thành lập không chỉ trong các nhà máy, công
xưởng mà còn ở tất cả các đơn vị cơ sở trong hệ thống tổ chức xã hội.


Thuật ngữ TCCSĐ được V.I.Lênin chính thức dùng trong bài báo viết về “Cải tổ
Đảng” [23, tr.108], Người chỉ rõ các chi bộ lúc ấy là các TCCSĐ. V.I.Lênin luôn coi trọng
và đặt vấn đề phải “tìm cách làm cho TCCSĐ, trên thực tế chứ không phải trên lời nói, trở
thành hạt nhân tổ chức cơ bản của Đảng” [24, tr.77]. Những luận điểm của V.I.Lênin được
lý giải và phát triển cả về mặt xây dựng tổ chức và toàn bộ hoạt động lãnh đạo của TCCSĐ
trong hai thời kỳ: thời kỳ đầu, đấu tranh xây dựng chính Đảng kiểu mới và thời kỳ đất
nước Nga chuyển sang nhiệm vụ xây dựng CNXH. V.I.Lênin viết:


Những chi bộ ấy phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công
tác cổ động, tuyên truyền, công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động, những
chi bộ ấy phải thông qua công tác muôn hình muôn vẻ đó mà rèn luyện mình và
rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống [25, tr.232-233].
và nhấn mạnh các chi bộ của đảng phải “đem hết sức lực, đem hết chú ý để tạo ra, để phát
huy một tính chủ động lớn hơn ở cơ sở” [26, tr.279]. Người còn cho rằng bằng nhiều biện
pháp nâng cao vai trò của TCCSĐ, phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở thì những
nhiệm vụ, mục tiêu của chính sách kinh tế của Nhà nước Xô - viết mới thành hiện thực.
Vị trí, vai trò của TCCSĐ không chỉ tìm thấy trong các di sản lý luận của các nhà
kinh điển chủ nghĩa xã hội khoa học mà còn được minh chứng bằng những kết quả hoạt
động thực tiễn xây dựng Đảng Cộng sản và hoạt động lãnh đạo cách mạng vô sản của các
ông. Những chỉ dẫn đó trở thành định hướng cho việc xây dựng TCCSĐ của các đảng
cộng sản trên thế giới.

Nghiên cứu những luận điểm của V.I.Lênin về vị trí, vai trò của TCCSĐ có thể rút
ra bốn điểm có tính nguyên tắc:
Một là, hình thức tổ chức cơ sở đảng được phát triển, V.I.Lênin chỉ rõ: “Hình thức
mới của tổ chức cơ sở đảng công nhân phải tuyệt đối rộng rãi hơn so với những tiểu tổ cũ”
[21, tr.107-108]. Những hình thức đó thích ứng với đòi hỏi mới, từ xây dựng các mắt xích
phía dưới của Đảng (1902) đến nhóm, tiểu tổ (1919). Nhưng mãi đến năm 1924 mới tiến hành
thí nghiệm việc lập các chi bộ đảng và đến năm 1934 mới quyết định chuyển các chi bộ thành
các TCCSĐ.


Hai là, chức năng, nhiệm vụ của TCCSĐ cũng luôn luôn phát triển, từ công tác
tuyên truyền, giáo dục trở thành tổ chức chiến đấu chủ yếu trong công tác kinh tế của
Đảng.
Ba là, từ chỗ lấy nguyên tắc sản xuất làm cơ sở để xây dựng các TCCSĐ, dần dần
các TCCSĐ còn được thành lập ở nơi cư trú (nguyên tắc sản xuất và lãnh thổ). Như vậy
việc hình thành các TCCSĐ là do yêu cầu tất yếu khách quan của nhiệm vụ chính trị chứ
không phải tùy tiện theo sở thích như một số phần tử lầm tưởng, xuyên tạc.


×