Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

DƯỜNG lối PHÂN TÍCH QĐ CỦA ĐẢNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ LÀ QUỐC SÁCH HÀNG ĐẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.92 KB, 17 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING

BÀI THUYẾT TRÌNH
MÔN HỌC: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài: Phân tích quan điểm của Đảng: “Giáo dục và đào tạo, cùng với

khoa học và công nghệ được coi là quốc sách là hàng đầu”. Liên hệ
thực tiễn nước ta trong thời kỳ đổi mới?

• GVHD: GV.Ths. Trần Hạ Long
• Nhóm thực hiện: Nhóm 9
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Lê Đặng Lan Anh
Trần Thị Hồng Hạnh
Dương Nguyễn Phương Thảo
Đặng Hoàng Anh Tuyền
Huỳnh Tú Uyên
Nguyễn Trần Thảo Vy
Hoàng Thị Ánh Xuân

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 3 năm 2018




Phân tích quan điểm của Đảng: “Giáo dục và đào tạo, cùng với khoa
học và công nghệ được coi là quốc sách là hàng đầu”. Liên hệ thực
tiễn nước ta trong thời kỳ đổi mới?

Với tư cách là những thành tố cơ bản của nền văn hoá, giáo dục - đào tạo và khoa
học công nghệ có một vị trí đặc biệt trong chiến lược phát triển đất nước. Nhận
thức toàn diện và sâu sắc về vai trò, nhiệm vụ, nội dung, qui luật vận động của giáo
dục - đào tạo và khoa học công nghệ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết, nhằm phát huy vai trò là
nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của giáo
dục - đào tạo và KHCN ở nước ta hiện nay. Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng
và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011)
được thông qua tại Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá
và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
phát triển”.
1. Vị trí, tầm quan trọng của giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ:
- Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập
theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay
nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác,
nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh
hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động
đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được chia

thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục
trung học, và giáo dục đại học.


- Chính sách giáo dục: Là các chính sách do Đảng đặt ra nhằm điều chỉnh
lĩnh vực giáo dục và thực hiện những mục tiêu yêu cầu của giáo dục.
- Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển
của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc
không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành
sản phẩm.
- Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng
công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt
động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.
- Quốc sách hàng đầu: Là những chính sách trọng tâm có vai trò chính yếu
của đất nước, luôn dành được sự ưu tiên hàng đầu, quan tâm đặc biệt của
Đảng, của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các chính sách, các biện
pháp, phạm vi thực hiện và nguồn ngân sách chi cho chính sách đó.
Đảng ta xác định: Phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, vì:
- Phát triển giáo dục đào tạo tạo ra những con người có nhiều tri thức,
trình độ dân trí cao và làm được trong nhiều ngành nghề. Trong các
yếu tố của quá trình sản xuất thì sức lao động giữ vai trò quan trọng
hàng đầu. Sức lao động mang tính sáng tạo và là nguồn lực không cạn
kiệt. Xét về thực chất sự phát triển của tư liệu sản xuất do sức lao động
tạo nên. Giáo dục và đào tạo là quá trình tái tạo, mở rộng sức lao động.
Vì vậy giáo dục và đào tạo sẽ bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao sức
lao động làm cho đất nước ngày càng phát triển.
- Phát triển khoa học và công nghệ giúp hiện đại hóa đất nước và theo

kịp các nước tiên tiến khác, kinh tế đất nước phát triển, đời sống nhân
dân ấm no. Cách mạng khoa học kỹ thuật là một trong 3 cuộc cách
mạng quan trọng (cách mạng dân chủ nhân dân, cách mạng khoa học
kỹ thuật, cách mạng văn hóa), cách mạng khoa học kỹ thuật chuyển
đổi từ một nước kinh tế nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu sang một nước
công nghiệp phát triển. Muốn thành công cuộc cách mạng ấy thì phải
phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ đó là quốc sách
hàng đầu để đào tạo con người vì yếu tố con người lúc nào cũng là yếu
tố quyết định có thành công hay không.


2. Một số bối cảnh mới tác động đến sự phát triển giáo dục – đạo tạo và
khoa học – công nghệ nước ta:
2.1. Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ trong bối cảnh
đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi yêu cầu rất cao về nguồn nhân lực
có năng lực về thị trường, về kinh doanh, về đổi mới và sáng tạo khoa học công nghệ, sản phẩm mới. Đồng thời đặt ra nhiều vấn đề mới trong phát
triển giáo dục – đào tạo và khoa học - công nghệ nhằm phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đối với giáo dục, giải quyết
vấn đề cạnh tranh trong giáo dục, thương mại hoá giáo dục, công bằng giáo
dục, phúc lợi xã hội trong giáo dục và dịch vụ giáo dục cũng như sở hữu trí
tuệ, thị trường khoa học – công nghệ, đào tạo và sử dụng nhân tài.
2.2. Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ trong bối cảnh
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghị quyết Trung ương khoá VIII nêu rõ: "Muốn tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo, phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững". Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát triển
mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế trí thức, góp phần tăng nhanh năng suất,
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Sự phát triển nhanh,
bền vững của đất nước; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp
và tăng trưởng”. Như vậy, phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học – công
nghệ phải được coi là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá thắng lợi.
2.3. Phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ trong bối cảnh
cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hoá diễn ra
mạnh mẽ.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hoá đã và
đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Tốc độ phát
minh khoa học ngày càng gia tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng


rút ngắn. Sự cạnh tranh về công nghệ cao diễn ra quyết liệt. Truyền thông về
khoa học - công nghệ diễn ra sôi động. Nhiều tri thức và công nghệ mới ra
đời đòi hỏi quá trình giáo dục phải được tiến hành thường xuyên, liên tục,
suốt đời để người lao động có thể thích nghi được với những biến đổi mới
của khoa học - công nghệ. Giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ phải
được "chuẩn hoá", "hiện đại hoá", và hội nhập quốc tế.
3. Quan điểm: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” qua các kì đại hội và
thực tiễn thực hiện quan điểm
- Quan điểm chỉ đạo: “giáo dục là quốc sách hàng đầu” của Đảng ta
được thể hiện qua hai nội dung cơ bản, một là chính sách về giáo dục
qua các kì Đại hội và hai là nguồn chi ngân sách nhà nước cho giáo
dục.
- Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã luôn khẳng
định giáo dục và đào tạo đóng vai trò then chốt, là những chính sách
trọng tâm, có vai trò chính yếu của Nhà nước, được ưu tiên trước nhất,
thậm chí đi trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế xã hội khác. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã có nhiều quan

điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục và đào tạo.Ngày 3/9/1945, trong
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trình bày với các Bộ trưởng 6 nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy
giờ, trong đó có nhiệm vụ về giáo dục: Diệt giặc dốt.
- Nghị Quyết Trung ương Đảng lần thứ 3, khoá VII năm 1993 khẳng
định: “Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”.
- Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 2, khoá VIII, năm 1996 khẳng
định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Quan
điểm này tiếp tục được khẳng định thông qua các chủ trương phát triển
và giải pháp cải thiện giáo dục trong các văn kiện của Đảng Công sản
Việt Nam sau này.
- Tại đại hội Đảng lần VIII, Đảng ta đưa ra mục tiêu: “Nâng cao mặt
bằng dân trí, bảo đảm những tri thức cần thiết để mọi người gia nhập
cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển đất
nước. Đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá... Phát hiện,
bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, chú trọng các lĩnh vực khoa học và
công nghệ, văn hoá - nghệ thuật, quản lý kinh tế, xã hội và quản trị sản
xuất kinh doanh”


- Để đạt được mục tiêu đề ra, về cơ bản, chúng ta cần thực hiện:
 Thanh toán nạn mù chữ cho những người lao động ở độ tuổi 15
- 35 và thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác. Tích cực xoá
mù chữ cho nhân dân ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa và những
vùng còn khó khăn.
 Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy ngoại ngữ, tin học từ cấp
phổ thông. Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, trang
bị đủ kiến thức cần thiết đi đôi với tạo ra năng lực tự học, sáng

tạo của học sinh, khắc phục tình trạng phải dạy thêm quá nhiều
ngoài giờ học chính khoá.
 Cụ thể hoá và thể chế hoá chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đào tạo, trước hết là
về đầu tư phát triển và bảo đảm kinh phí hoạt động. Ngoài việc
ngân sách dành một tỷ lệ thích đáng cho sự nghiệp phát triển
giáo dục đào tạo, cần thu hút thêm các nguồn đầu tư từ các cộng
đồng, các thành phần kinh tế, các giới kinh doanh trong và
ngoài nước đi đôi với việc sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư
cho giáo dục đào tạo. Những doanh nghiệp sử dụng người lao
động được đào tạo có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách giáo
dục, đào tạo. Đổi mới chế độ học phí phù hợp với sự phân tầng
thu nhập trong xã hội, loại bỏ những đóng góp không hợp lý,
nhằm bảo đảm tốt hơn kinh phí giáo dục, đồng thời cải thiện
điều kiện học tập cho học sinh nghèo.
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định
quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” thông qua 1 loạt các chủ
trương cụ thể như:
 Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp.
 Xây dựng hoàn chỉnh, phát triển các trường đại học và cao
đẳng theo mạng lưới hợp lý để hình thành một số trường đại học
có chất lượng đào tạo ngang tầm với những trường đại học có
chất lượng cao trong khu vực.
 Số học sinh tuyển mới vào đại học và cao đẳng tăng 5%/năm.
Đặc biệt chú trọng đào tạo chất lượng cao một số ngành công
nghệ, kinh tế và quản lý nhà nước để đáp ứng nhu cầu nhân lực
và nhân tài của đất nước.
 Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng
dạy và phương thức đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao,



-

-

-

-

đặc biệt là trong các ngành kinh tế, kỹ thuật mũi nhọn, công
nghệ cao. Gắn việc hình thành các khu công nghiệp, khu công
nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo nghề. Phát triển nhanh
và phân bố hợp lý hệ thống trường dạy nghề trên địa bàn cả
nước; mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt,
năng động.
 Đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức giáo dục; xây dựng
hệ thống giáo dục nhằm tạo điều kiện cho mọi người có thể học
tập suốt đời theo hướng thiết thực, hiện đại, gắn chặt với yêu
cầu của xã hội. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và luật pháp để
bảo đảm sự nghiệp giáo dục phát triển ổn định, chất lượng, hiệu
quả đáp ứng nhu cầu về con người và nguồn nhân lực cho đất
nước phát triển nhanh và bền vững. Ngăn chặn và đẩy lùi những
hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục, xây dựng một nền
giáo dục lành mạnh.
 Nhà nước dành tỷ lệ ngân sách thích đáng, kết hợp đẩy mạnh
xã hội hoá phát triển giáo dục và đào tạo. Huy động và sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực cho giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh
hợp tác quốc tế về phát triển giáo dục và đào tạo. Chủ động
dành một lượng kinh phí thích đáng của ngân sách để tăng
nhanh số học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh được đào tạo ở

một số nước phát triển.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: Giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ
chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục,
liên thông giữa các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ
thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành
linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng,
cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong
giáo dục.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: “Giáo dục và đào tạo


-

-

-

có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn
hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với
phát triển khoa học là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là đầu tư phát triển” .
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá,

dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ
khoa học, công nghệ, văn hoá đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao
động lành nghề. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên
tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở
giáo dục, đào tạo.
Nội dung thứ 2 thể hiện quan điểm này là nguồn ngân sách chi cho
giáo dục đào tạo
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, nên giáo dục luôn được ưu tiên đi
trước một bước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội… Nhà nước ta đã chi một ngân khoản không nhỏ cho giáo dục,
bình quân khoảng 10% đến 20% ngân sách, thuộc diện lớn nhất thế
giới. Và con số này không ngừng tăng qua các năm. Chẳng hạn: Năm
2000, chúng ta chi 61823 tỉ cho sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó
chi cho giáo dục là 12677 tỉ, chiếm 11,63%. Năm 2001 chúng ta chi
129773 tỉ cho sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó chi cho giáo dục là
15432 tỉ, chiếm 11,89%. Năm 2002 chúng ta chi 148208 tỉ cho sự phát
triển kinh tế xã hội, trong đó chi cho giáo dục là 17844 tỉ, chiếm
12,03%. Năm 2003 chúng ta chi 6181183 tỉ cho sự phát triển kinh tế
xã hội, trong đó chi cho giáo dục là 22881 tỉ, chiếm 12,62%. Đến năm
2008, cả thế giới gặp khó khăn về kinh tế, Việt Nam cũng bị ảnh
hưởng nghiêm trọng, nhưng số tiền chi cho giáo dục vẫn tăng, chúng
ta chi 494600 tỉ cho sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó chi cho giáo
dục là 63547 tỉ, chiếm 12,85% .
Tuy nhiên, do ngân sách còn hạn hẹp nên mặc dù phần trăm (%) đầu
tư cho giáo dục rất cao, nhưng số tiền chi cho giáo dục thực chất còn
rất ít, mức chi bình quân cho một học sinh, sinh viên còn rất thấp so
với các nước trong khu vực và thế giới. Mặc dù vậy, cũng đã thấy
được sự nỗ lực, cố gắng của Đảng và Nhà nước ta trong việc đầu tư



cho giáo dục, minh chứng cụ thể cho quan điểm chỉ đạo: “giáo dục là
quốc sách hàng đầu” của Đảng ta.
4. Quan điểm: “khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu” qua các kì đại
hội và thực tiễn thực hiện quan điểm
- Khoa học và công nghệ (KH&CN) là động lực của sự phát triển.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn luôn xác định KH&CN có vai trò đặc biệt trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua
Cương lĩnh, trong đó có đoạn: "Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Cuộc
cách mạng KH&CN hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả
các nước ở những mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời
sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn
tới nhịp độ phát triển, lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế
đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những
thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước lạc hậu về kinh tế".
- Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị (1991) về KH&CN đã nêu
rõ những mặt yếu kém của KH&CN ở nước ta, đề ra những nhiệm vụ
quan trọng của KH&CN trong giai đoạn cách mạng mới, những biện
pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển KH&CN, đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, cải tiến sự quản lý của Nhà nước đối với
KH&CN. Đảng ta cho rằng: Phát triển KH&CN là nhu cầu của nước
ta nhằm đuổi kịp các nước trên thế giới bằng thực lực kinh tế.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã xác định
đưa nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại... Tập trung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông
nghiệp - dịch vụ, tận dụng lợi thế của nước đi sau, tranh thủ công nghệ

mới. Về công nghiệp, đi vào xây dựng những khu công nghệ cao, coi
trọng phát triển một số ngành công nghiệp nặng; lấy ứng dụng, chuyển
giao công nghệ là chính.
- Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (1996) đã ra Nghị quyết về Định
hướng chiến lược phát triển KH&CN trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, khẳng định vai trò động lực
của KH&CN đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất


nước... Nghị quyết còn đặt ra yêu cầu phải sớm có luật pháp về
KH&CN để thể chế hóa mọi mặt hoạt động KH&CN, phải nhanh
chóng đổi mới cơ chế quản lý khoa học, phải đầu tư thỏa đáng, bước
đầu dành tối thiểu 2% chi ngân sách cho KH&CN. Năm 2000, Luật
KH&CN được ban hành.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng
định, phát triển KH&CN vừa là nền tảng, vừa là động lực đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội đã nhận định: "Thế kỷ XXI sẽ tiếp
tục có nhiều biến đổi, KH&CN sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri
thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng
sản xuất". Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phải nắm bắt, khai thác, sử dụng các thành tựu KH&CN hiện đại và
những yếu tố của nền kinh tế tri thức. Phát triển KH&CN phải hướng
vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, xây dựng
năng lực cạnh tranh của hàng hóa, xây dựng năng lực công nghệ quốc
gia đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại,
công nghệ cao (tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa)... Tăng
đầu tư từ ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho KH&CN...
- Hội nghị Trung ương 6 Khóa IX (7- 2002) đã kiểm điểm việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VIII và xác định nhiệm vụ của
KH&CN trong thời gian tới là: Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng

kết thực tiễn; đổi mới nâng cao trình độ công nghệ trong nền kinh tế
quốc dân; xây dựng và phát triển có trọng điểm các ngành công nghệ
cao đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng tiếp tục khẳng
định: "Phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động KH&CN... Kết
hợp chặt chẽ hoạt động KH&CN với giáo dục và đào tạo để thực sự
phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức... Đẩy mạnh
nghiên cứu và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, tạo bước đột
phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong từng ngành, từng lĩnh
vực của nền kinh tế... Cùng với việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động
khoa học - công nghệ, Nhà nước tập trung đầu tư vào các chương trình
nghiên cứu quốc gia, phấn đấu đạt trình độ khu vực và thế giới; xây
dựng tiềm lực KH&CN cho một số lĩnh vực trọng điểm, công nghệ
cao... Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu


-

-

-

-

ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và
công nhân kỹ thuật có tay nghề cao...".
Hội nghị Trung ương 9 Khóa X (2009) đã ra Nghị quyết 31-NQ/TW
"Về một số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng", về KH&CN, Nghị quyết ghi:

"Tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý và chính sách phát triển
KH&CN; nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển KH&CN quốc gia và các ngành, các
sản phẩm quan trọng. Phát triểrr thị trường KH&CN. Nâng cao chất
lượng nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất
kinh doanh, giáo dục và đào tạo. Có chính sách, chế độ đãi ngộ và điều
kiện làm việc tốt hơn cho cán bộ nghiên cứu khoa học, nhất là cán bộ
đầu ngành, có trình độ cao".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã khẳng định:
“Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được
đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý khoa
học, công nghệ có đổi mới, thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự
nghiệp khoa học, công nghệ. Thị trường khoa học, công nghệ bước
đầu hình thành. Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng lên”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã vạch rõ những định hướng lớn
về phát triển KH&CN trong thời kỳ mới với những quan điểm cơ bản
dưới đây: “KH&CN giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Phát triển KH&CN nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình
độ tiên tiến của thế giới. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực KH&CN gắn
với phát triển văn hóa và nâng cao dân trí. Tăng nhanh và sử dụng có
hiệu quả tiềm lực KH&CN của đất nước, nghiên cứu và ứng dụng có
hiệu quả các thành tựu KH&CN hiện đại trên thế giới. Hình thành
đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài
và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”.
Hội nghị Trung ương 6 khóa XI đã ra Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày
31/10/2012 về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế đã chỉ rõ: Phát triển và ứng dụng KH&CN


là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất
để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một nội dung cần
được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các
ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước
và tài năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ KH&CN đóng vai trò quyết
định thành công của sự nghiệp phát triển KH&CN. Chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức KH&CN tiên tiến của thế giới,
thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án KH&CN của Việt Nam.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh,
thực tập sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc.
- Quan điểm Đại hội XII của Đảng về phát triển khoa học và công nghệ
có nhiều điểm mới đáng chú ý:
 Một là, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định “Phát
triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và
công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”.
Khoa học và công nghệ “thực sự” là quốc sách hàng đầu, có
nghĩa, mọi chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội,
tăng cường quốc phòng – an ninh, bảo vệ Tổ quốc đều phải dựa
vào khoa học và công nghệ, được thực hiện bằng khoa học và
công nghệ. Bởi vậy, phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ,
làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu
là quan điểm mới, thể hiện sự phát triển nhận thức lý luận của
Đảng, khẳng định vị trí, tầm quan trọng của việc phát triển khoa
học và công nghệ trong giai đoạn mới, nhằm thực hiện mục tiêu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng

hiện đại.
Thực tế cho thấy, mặc dù nhiều lần được khẳng định là quốc
sách hàng đầu, nhưng khoa học và công nghệ vẫn chưa nhận
được sự quan tâm đúng mức của các cấp lãnh đạo, các cơ quan
quản lý nhà nước và các địa phương. Quá trình phát triển khoa
học và công nghệ ở nước ta còn nhiều nút thắt cần tập trung
tháo gỡ. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng chỉ rõ: “Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa
học, công nghệ chưa được chú trọng. Không hoàn thành mục
tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có trọng
tâm, trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế – xã


hội. Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng
chưa cao. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới.
Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm. Công tác
quy hoạch, phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ
với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định
hướng chiến lược, hiệu quả thấp.”
 Hai là, để làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách
hàng đầu, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập
trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các
cấp.”
Đây là “điểm nhấn” của Đảng so với các kỳ đại hội trước, là
giải pháp có tính chất “đột phá” thúc đẩy sự phát triển khoa học
và công nghệ trong điều kiện mới. Thực tiễn cho thấy, sự phát
triển khoa học và công nghệ ở nước ta thời gian qua, bên cạnh
những thành tựu, đã bộc lộ những hạn chế lớn: “Khoa học, công

nghệ chưa thực sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh
tế – xã hội.” Một trong những nguyên nhân của những hạn chế
đó là do khoa học và công nghệ chưa nhận được sự đầu tư thích
đáng từ các ngành, các cấp, chưa được ưu tiên đầu tư “trước
một bước”. Hoạt động khoa học và công nghệ thời gian qua, chủ
yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Chi dành cho khoa học và
công nghệ hiện chiếm 2% ngân sách nhà nước, tương đương với
mức trung bình các nước trên thế giới, nhưng do GDP còn thấp,
nên nguồn đầu tư cho khoa học và công nghệ của Việt Nam
hàng năm còn rất khiêm tốn. Nếu tính bình quân theo đầu
người, vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ ở nước
ta chỉ đạt 12-13 USD/người, thuộc diện thấp nhất thế giới, thấp
hơn cả một số nước trong khu vực như Philippines, Indonesia…
Việc huy động các nguồn đầu tư xã hội, nhất là từ phía các
doanh nghiệp còn thấp.
Hiện nay, đầu tư cho khoa học và công nghệ của khối doanh
nghiệp chỉ bằng 50% đầu tư từ ngân sách nhà nước. Các doanh
nghiệp ở nước ta chưa thực sự quan tâm đầu tư phát triển khoa
học và công nghệ. Nguyên nhân là do, cơ chế chính sách
khuyến khích doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển khoa học


và công nghệ, cũng như dành một phần lợi nhuận để đầu tư cho
khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập. Hơn nữa, doanh
nghiệp Việt Nam quy mô nhỏ nên với 10% lợi nhuận sẽ không
đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ hoặc tạo ra sản phẩm
mới.
Từ thực tế đó, với quan điểm nhấn mạnh “ưu tiên tập trung đầu
tư trước một bước” để phát triển khoa học và công nghệ của
Đảng, sẽ tạo tiền đề quan trọng cho việc “huy động mạnh mẽ

nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát
triển khoa học và công nghệ”.
 Ba là, cùng với hệ thống giải pháp đồng bộ đẩy mạnh phát triển
khoa học và công nghệ, Đại hội XII của Đảng xác định, phải tập
trung: “Xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia”.
Đây là quan điểm, giải pháp mới về phát triển khoa học và công
nghệ, lần đầu tiên được đưa vào văn kiện của Đảng. Đồng thời,
là giải pháp cơ bản, cấp bách thúc đẩy khoa học và công nghệ
phát triển, thực sự “là động lực quan trọng nhất để phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ
môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh” trong điều kiện hiện
nay.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy, bên cạnh việc gia tăng nguồn
vốn đầu tư, “chìa khoá” để thúc đẩy đổi mới sáng tạo là phải gia
tăng sự lưu thông, liên kết ý tưởng, và phối hợp thực hiện giữa
các phần tử trong xã hội. Tuy nhiên, đây là điểm yếu cơ bản của
Việt Nam, khi chưa tạo ra sự phối hợp hiệu quả giữa ba đối
tượng chính, cần tham gia vào những nỗ lực đổi mới sáng tạo
quốc gia, là: doanh nghiệp; trường đại học cùng các tổ chức
nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ và Nhà nước. Đặc
biệt là, sự phối hợp liên kết giữa doanh nghiệp và các trường đại
học, các tổ chức nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ
còn rất mờ nhạt.
Để tạo bước đột phá phát triển khoa học và công nghệ, Đại hội
XII của Đảng chủ trương tập trung xây dựng hệ thống đổi mới
sáng tạo quốc gia, bằng hệ thống giải pháp đồng bộ: “Phát huy
năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức. Thực
hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do sáng tạo trong hoạt



động nghiên cứu, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.
Khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ. Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học trong
các trường đại học. Đổi mới cơ chế quản lý, nhất là cơ chế tự
chủ về tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ chức khoa học,
công nghệ công lập. Hoàn thiện thể chế định giá tài sản trí tuệ,
tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý nghiêm các vi
phạm. Hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao và
kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu công nghệ.”
Những quan điểm mới về phát triển khoa học và công nghệ
được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định,
đã thể hiện sự trung thành và vận dụng đúng đắn sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của khoa
học và công nghệ đối với sự phát triển của đất nước. Đồng thời,
thể hiện bản lĩnh trí tuệ, nhạy bén, tự chủ, sáng tạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Những quan điểm trên là một hệ thống
đồng bộ, vừa “nâng tầm” của khoa học và công nghệ, vừa đề ra
những giải pháp đột phá, cơ bản, lâu dài thúc đẩy khoa học và
công nghệ phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững trong giai đoạn
mới.



×