Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

CƠ sở lý LUẬN và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu THỰC TIỄN về PHÁT TRIỂN THƯƠNG mại BIÊN GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.8 KB, 63 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN THƯƠNG
MẠI BIÊN GIỚI


Cơ sở lý luận
Các nghiên cứu có tính chất lý luận về Thương mại
biên giới
Lý thuyết về liên kết kinh tế khu vực đã được Hass and
Richard Capella (2006) thảo luận và cho rằng liên kết kinh tế
khu vực có thể giúp xây dựng các mơ hình phát triển vùng
kinh tế trọng điểm, đặc khu kinh tế và khu chế xuất nhằm thúc
đẩy thương mại giữa các nước trong khu vực. Nghiên cứu
phân tích các tính chất tăng trưởng kinh tế của các vùng biên
giới, các đầu mối giao thông giữa các nước láng giềng có lợi
thế so sánh có thể tiến hành cơng nghiệp hóa nhanh, làm nền
tảng cho q trình cơng nghiệp hóa trên tồn bộ nền kinh tế.
Boudeville, J. (1966) đã phân tích các vấn đề quy hoạch phát
triển vùng dựa trên nguyên lý phân tích các lợi thế phát triển
và cực tăng trưởng trong các vùng cụ thể. Ngồi ra, nghiên
cứu này cịn phân tích về các nguồn lực phát triển, năng lực
thương mại và chỉ ra được những lợi thế so sánh trong việc
định hình phát triển vùng là cần thiết trong việc hoạch định kế
hoạch phát triển vùng để từ đó hình thành các đặc khu kinh tế.
Báo cáo “Cross-border trade within the Central Asia:


Regional Economic Cooperation” của World Bank, 2007 đã
phân tích thương mại biên giới ở Trung Á và cho rằng thương


mại biên giới ở khu vực này có một số các đặc thù. Thứ nhất,
thương mại biên giới được thực hiện chủ yếu bởi các thương
nhân, cá nhân và các hộ gia đình nhỏ lẻ, thường là thương
nhân và cá nhân ở các địa phương biên giới. Thứ hai, khối
lượng hàng hố bn bán thơng qua thương mại biên giới
thường nhỏ. Thứ ba, các loại hàng hố thường được bn bán
là hàng nông sản và hàng tiêu dùng. Thứ tư, các thương nhân
nhỏ thường sử dụng xe đạp, ô tô nhỏ hoặc đi bộ trong thương
mại biên giới; các thương nhân thường khơng cần có các xe
tải lớn do khối lượng buôn bán nhỏ và khoảng cách thương
mại gần. Thứ năm, tồn tại chêch lệch về giá cả ở vùng biên
giới của các quốc gia do khối lượng buôn bán quá nhỏ, không
đủ để làm giá cả cân bằng giữa các biên giới. Bên cạnh đó cịn
có các lý do khác như hàng rào thương mại, các chính sách
của chính phủ ở các vùng biên giới, các hình thức thanh tốn
khơng chính thức ở vùng biên giới, chi phí vận chuyển.
Nghiên cứu “Integration Strategies and Barriers to CoOperation in Cross-Border Regions:

Case Study of the

Oresund Region”, Journal of Borderlands Studies của Povlot


và Goren, 2007 chỉ ra rằng các hình thức hợp tác kinh tế biên
giới đã được phát triển và khá phổ biến trên thế giới, thông
qua nghiên cứu về mô hình hợp tác khu vực cửa khẩu giữa
Đan Mạch và Thụy Điển của vùng Oresund. Khu vực xuyên
quốc gia này có dân số 3,6 triệu người, trong đó có 2,4 triệu
người ở phía Đan Mạch trên diện tích 9.782 km 2, và phía
Thụy Điển có diện tích 10.914 km 2. Động lực của sự hợp tác

này là cuộc khủng hoảng kinh tế và sự cần thiết phải xây dựng
một chiến lược tăng trưởng kinh tế khu vực để giúp cho cả hai
phía cùng nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên
thế giới. Cả hai chính quyền trung ương đều ủng hộ quá trình
hợp tác này và hỗ trợ đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thơng.
Chính quyền địa phương của cả hai bên đều có các đại diện và
các tổ chức tương đương. Bên cạnh đó, một số tổ chức phi
chính thức như Hội đồng kinh doanh, Phòng thương mại…
tạo nên diễn đàn hợp tác và cung cấp các tư vấn về luật và
chính sách cho các cơ quan chức năng.
Đề tài nghiên cứu cấp bộ của Nguyễn Thị Kim Dung,
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương : “Những vấn đề
lý luận và thực tiễn trong xây dựng cơ chế chính sách và các
biện pháp quản lý kinh tế đặc thù đối với khu vực cửa khẩu


trên bộ phía Bắc Việt Nam”, 1999 đã khẳng định giao lưu
kinh tế qua biên giới là sự thể hiện xu thế hội nhập kinh tế
giữa các nước gần nhau về vị trí địa lý, thực hiện mục tiêu mở
rộng hợp tác kinh tế giữa các nước láng giềng. Đồng thời
trong đề tài cũng nêu lên rằng, hoạt động giao lưu kinh tế qua
cửa khẩu cũng là một yếu tố cấu thành của các hoạt động kinh
tế đối ngoại. Việc phát triển giao lưu đó mang lại lợi ích kinh
tế đáng kể thông qua đẩy mạnh các hoạt động thương mại qua
biên giới đồng thời cũng để thực hiện chủ trương cải cách
kinh tế của Đảng là khẳng định nguyên tắc độc lập, chủ
quyền, bình đẳng và cùng có lợi trong phát triển kinh tế đối
ngoại; đa phương hóa, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối
ngoại; khai thác có hiệu quả lợi thế trong phân cơng lao động
quốc tế.

Nguyễn Văn Lịch, 2002. Một số giải pháp nhằm phát
triển thương mại hàng hóa Việt Nam-Lào qua biên giới trên
bộ thời kỳ đến 2005. Viện Nghiên cứu thương mại, Đề tài
nghiên cứu cấp Bộ đã phân tích một số đặc điểm của hoạt
động thương mại hàng hoá qua biên giới nói chung. Tác giả
cho rằng thương mại biên giới có những đặc điểm sau. Thứ
nhất, thương mại biên giới mang tính địa phương, khu vực.


Thứ hai, thương mại biên giới mang tính bổ sung lẫn nhau.
Thứ ba, thương mại hàng hoá là phương thức chủ yếu của
thương mại biên giới. Thứ tư, thương mại biên giới mang tính
lựa chọn song hướng. Thứ năm, thương mại biên giới có tính
phân tán, quy mơ nhỏ nhưng linh hoạt.
- Các nghiên cứu liên quan đến phát triển thương mại
biên giới của Canada và Mexico
Cuốn sách “Quan hệ Canada - Mỹ: Những bài học kinh
nghiệm” (Học viện Quan hệ quốc tế, 2006) của Vụ châu Mỹ,
Bộ ngoại giao. Cuốn sách này khẳng định giữa hai nước có
nhiều điểm tương đồng về lịch sử, chính trị và văn hóa, nhưng
tương quan so sánh lực lượng giữa hai nước rất chênh lệch,
Mỹ luôn mạnh hơn Canada nhiều lần. Những đặc điểm địa lý,
lịch sử, chính trị, kinh tế và văn hóa này có tác động sâu sắc
đến quan hệ giữa Canada và Mỹ. Các tác giả cũng đề cập rất
cụ thể các bài học kinh nghiệm của Canada trong ứng xử quan
hệ với Mỹ, đó là: tìm đối trọng với Mỹ để giữa vững độc lập,
chủ quyền và đảm bảo an ninh quốc gia; xây dựng khn khổ
quan hệ hịa bình, hợp tác, ổn định với Mỹ và tạo ra lợi ích
đan xen giữa hai nước; vừa hợp tác vừa đấu tranh hịa bình



với Mỹ. Cuốn sách này có thể tham khảo để hiểu rõ hơn về
quan hệ Canada - Mỹ, trong đó có quan hệ thương mại.
Trong bài viết “Quan hệ năng lượng Canada - Mỹ” của
Nguyễn Khánh Vân đăng tải trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay
số 7 năm 2008, tác giả nhận định thương mại năng lượng
đóng vai trị quan trọng trong hoạt động trao đổi buôn bán
giữa hai quốc gia. Kim ngạch buôn bán năng lượng với Mỹ
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng xuất khẩu của Canada, và
ngược lại, Canada cũng là đối tác quan trọng của Mỹ trong
hoạt động trao đổi năng lượng. Tác giả cũng có đánh giá tổng
thể triển vọng mối quan hệ năng lượng Canada - Mỹ giai đoạn
2010 - 2020, trong đó quan hệ năng lượng giữa hai nước dựa
trên những cơ sở vững chắc giữa một quốc gia có nguồn cung
ứng năng lượng dồi dào và một quốc gia có nhu cầu sử dụng
năng lượng lớn nhất thế giới. Nguyễn Thiết Sơn trong bài
viết “Canada: Một nền kinh tế phát triển cao” (Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay, Số 5/1998) đã khái quát về nền kinh tế Canada,
quan hệ kinh tế Canada - Mỹ và vai trò của kinh tế Canada
trên thế giới. Trong đó, tác giả có đề cập: phần lớn xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ của Canada được thực hiện với Mỹ: Mỹ
chiếm trên 80% giá trị xuất khẩu hàng hoá của Canada, và


cung cấp khoảng 75% giá trị hàng hoá nhập khẩu của Canada.
Tuy nhiên, cho đến nay, tỷ lệ này có xu hướng giảm do cả hai
nước đều thực hiện chính sách đa dạng hóa đối tác thương
mại. Có nhiều vấn đề nổi lên trong mọi lĩnh vực như tranh cãi
về thương mại, làn sóng nhập cư và hợp tác quân sự. Đặc biệt,
điều luật “Mua hàng Mỹ” của Tổng thống Barack Obama đã

bị Canada và Mexico phản đối kịch liệt và cho rằng đó thực
chất là chủ nghĩa bảo hộ. Việc công khai yêu cầu các dự án
xây dựng phải mua sản phẩm công ty Mỹ là sự vi phạm
nghiêm trọng NAFTA. Trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu,
chủ nghĩa bảo hộ nổi lên ở tất cả các nước; dự luật này là điển
hình của chủ nghĩa bảo hộ, quy định chỉ được mua hàng sản
xuất trong nước đối với các cơng trình phục hồi kinh tế sử
dụng các gói kích thích của chính phủ. Dự luật này tác động
mạnh nhất đến Canada. Nhiều xung đột khác còn liên quan
đến tình trạng nhập cư và vận tải hàng hố giữa ba nước Bắc
Mỹ. Bài viết “Một số nhân tố tác động đến quan hệ thương
mại Canada - Mỹ trong thập kỷ qua” của nghiên cứu sinh,
đăng tải trên Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 3 năm 2012 phân
tích các nhân tố khách quan cũng như chủ quan tác động đến
quan hệ thương mại hai nước. Đặc biệt tương đồng, khác biệt


giữa kinh tế Canada và Mỹ, khả năng bổ sung lẫn nhau giữa
hai nền kinh tế tác động mạnh đến quan hệ thương mại giữa
hai nước. Bài viết này mới chỉ dừng lại ở phân tích các nhân
tố chủ yếu tác động đến quan hệ thương mại Canada - Mỹ mà
chưa đề cập đến thực trạng và triển vọng quan hệ.
Thực trạng quan hệ thương mại Canada - Mỹ được thể
hiện trong bài tạp chí “Thực trạng quan hệ thương mại
Canada - Mỹ trong thập kỷ qua” của nghiên cứu sinh đăng tải
trên Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 9/2012. Quan hệ trong lĩnh
vực kinh tế thương mại giữa Canada và Mỹ là thể hiện rõ nét
nhất của quy mô hội nhập sâu rộng giữa hai nước. Mối quan
hệ thương mại song phương giữa Canada và Mỹ ngày càng
phát triển dựa trên cả lịch sử quan hệ lâu dài giữa hai nước,

địa lý có chung đường biên giới thuận lợi cho giao thương
kinh tế hai nước cùng phát triển mạnh mẽ. Tác giả Nguyễn
Tuấn Minh (2013) trong bài viết “Quan hệ kinh tế xuyên biên
giới Hoa Kỳ - Canada” (Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 11) đề
cập đến thực trạng hợp tác kinh tế xuyên biên giới giữa hai
nước và việc hai nước quản lý hợp tác xuyên biên giới như
thế nào để phát huy được tối đa lợi ích mang lại từ mối quan
hệ kinh tế này. Các bài viết về quan hệ đầu tư của Mỹ tại


Canada và đầu tư của Canada tại Mỹ của tác giả Bùi Thành
Nam trên Tạp chí châu Mỹ ngày nay số 8/2014 (tr 9-17), và
số 3/2015 (tr3-11) đã cho thấy bức tranh tổng thể về quan hệ
đầu tư song phương trong thập kỷ qua. Tác giả cũng đề cập
đến cơ sở hội nhập và pháp lý của quan hệ kinh tế Canada Mỹ. Đây được xem là cơ sở tốt đẹp cho quan hệ thương mại
giữa hai nước phát triển.
Trong bài viết “Tự do thương mại và môi trường,
Mexico, hiệp định NAFRA và hơn thế nữa” của Kevin
P.Gallagher, người dịch Nguyễn Lan Hương viện nghiên cứu
châu Mỹ đăng tải trên Tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 10 năm
2004, Tác giả nhận định việc Mexico ban hành những quy
định luật pháp nghiêm ngặt về môi trường và cưỡng chế thức
hiện chúng đã mang lại những hiệu quả cao và không làm
nguy hại đến việc tiếp cận những nguồn vốn đầu tư từ nước
ngồi.
Trong bài viết “Vai trị vốn đầu tư nước ngoài ở Mexico”
của PGS.TS. Phan Huy Đường được đăng trên Tạp chí Châu
Mỹ ngày nay, số 132 năm 2009 đã phân tích những kinh
nghiệm của Mexico trong việc sử dụng vốn đầu tư và huy động



vốn đầu tư từ Mỹ trong việc xây dựng và phát triển kinh tế đất
nước.
Trong bài viết “Mexico sau 10 năm khủng hoảng tài
chính Tequila” của tác giả Trịnh trọng Nghĩa được đăng trên
tạp trí Châu Mỹ ngày nay số 1 năm 2006. Tác giả đã phân tích
việc Mexico khai thác triệt để mối quan hệ thương mại với Mỹ
đã mang lại những thành tưu to lớn cho Mexico, đưa nước này
trở thành nước có nền kinh tế phát triển và thu nhập bình qn
đầu người thuộc nhóm đầu của thế giới.
Trong bài tham luận “Chính sách quản lý thương mại
biên giới Canada-Mỹ và hàm ý cho Việt Nam” của nhóm tác
giả Vũ Thanh Hương, Vũ Văn Tú, Trường Đại học Kinh tế
Đại học quốc gia Hà Nội và bài tham luận “Các chính sách và
sáng kiến thúc đẩy thương mại biên giới Mỹ-Mexico và bài
học kinh nghiệm đối với Việt Nam” của nhóm tác giả Nguyễn
Anh Thu, Nguyễn thị Minh Phương, Trường Đại học Kinh tế
Đại học quốc gia Hà Nội đã phân tích chính sách quản lý
thương mại biên giới nổi bật của Mỹ tại biên giới với Canada
và Mexico theo thời gian và trên cơ sở đó rút ra một số bài
học kinh nghiệm trong phát triển thương mại biên giới đối với
Việt Nam.


-Các nghiên cứu liên quan đến phát triển thương mại
biên giới của Việt Nam.
Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc, 2007 thực hiện
nghiên cứu về Hội nhập kinh tế ASEAN – Trung Quốc, trong đó
nhấn mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới
Việt – Trung đóng vai trị trung chuyển hàng hóa giữa ASEAN

và Trung Quốc. Ngân hàng Phát triển Châu Á, 2009 thực hiện
nghiên cứu về Phát triển các Khu hợp tác kinh tế qua biên giới
Việt – Trung cho rằng cần phải phát triển hơn nữa dịch vụ hỗ trợ
tại các khu vực cửa khẩu nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hóa qua biên giới Việt – Trung.
Đề tài khoa học cấp Bộ “Hồn thiện chính sách thương
mại biên giới của Việt Nam” do Viện Nghiên cứu Thương mại
chủ trì năm 2009. Trong đó, đi sâu nghiên cứu về chính sách
TMBG của Việt Nam, cụ thể là chính sách TMBG của Việt
Nam với TQ, chưa đi sâu nghiên cứu hoạt động TMBG của
các tỉnh biên giới.
Ngồi ra, Bộ Cơng Thương, 2012 đã tổng kết tình hình
hoạt động thương mại biên giới của 7 tỉnh phía Bắc giáp
Trung Quốc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang,


Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu) trong giai đoạn 2006-2010. Bộ
Công Thương cho rằng hoạt động thương mại biên giới không
ngừng gia tăng về giá trị với tốc độ tăng trưởng nhanh
(26,6%). Bộ Công Thương cũng đã đề cập và phân tích các
khó khăn và thách thức trong hoạt động thương mại biên giới
Việt - Trung. Mất cân bằng cán cân thương mại là vấn đề nổi
cộm trong thương mại 7 tỉnh biên giới phía Bắc giáp với Trung
Quốc. Cơ cấu mặt hàng XNK qua các cửa khẩu của 7 tỉnh này
vẫn chủ yếu là mặt hàng nguyên liệu thô chưa qua chế biến,
giá trị hàng hóa xuất khẩu chưa cao, sức cạnh tranh kém, dễ bị
đối tác ép giá. Hệ thống hạ tầng thương mại phục vụ phát triển
thương mại biên giới ở khu vực cửa khẩu phía Việt Nam thiếu
đồng bộ. Đường giao thông ở một số nơi chật hẹp, xuống cấp,
chưa đáp ứng yêu cầu vận chuyển hàng hóa. Cịn xảy ra tình

trạng ùn tắc tại các cửa khẩu (tỉnh Lạng Sơn là một ví dụ).
Chính sách thương mại biên giới của Trung Quốc thường
xuyên thay đổi và áp dụng linh hoạt cho từng cửa khẩu, khu
vực, địa phương trong khi việc quản lý cửa khẩu giữa Việt
Nam và Trung Quốc chưa đồng nhất nên trao đổi hàng hóa phụ
thuộc rất nhiều vào phía Trung Quốc, gây bị động cho các
doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam.


Hoạt động thương mại biên giới Việt -Trung 6 tháng đầu
năm cũng đã được phân tích khá chi tiết trong báo cáo của Bộ
Công Thương (2014). Theo Bộ Công Thương (2014), trong
bối cảnh gần đây có nhiều diễn biến phức tạp nhưng hoạt
động thương mại biên giới Việt – Trung vẫn duy trì được đà
phát triển với mức tăng trưởng bình qn 4%/tháng. Quy mơ
của thương mại biên giới Việt - Trung chiếm trên 24% trong
tổng kim ngạch thương mại hai chiều. Tuy nhiên, hoạt động
thương mại qua biên giới vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, xuất
khẩu nơng sản qua biên giới còn nhiều vướng mắc, chưa xây
dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng bến bãi phù hợp để thúc
đẩy phát triển thương mại vùng biên… Để tháo gỡ khó khăn,
Bộ Cơng thương (2014) cho rằng cần tiếp tục hoàn thiện cơ
chế về hoạt động thương mại biên giới, xây dựng các phương
án xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi qua biên giới một số mặt
hàng nông sản theo hướng linh hoạt và tạo điều kiện cho xuất
khẩu; xem xét thành lập Ban quản lý cửa khẩu mang tính đặc
thù tại địa phương; tăng cường xúc tiến thương mại ở khu vực
biên giới Việt – Trung.
"Đề án phát triển biên mậu Việt Nam - Trung Quốc thời
kỳ 2006 - 2010" của Bộ Thương mại nhận định: Trung Quốc



là một nước đang phát triển có dân số lớn nhất thế giới, kinh
tế phát triển thuộc nhóm nhanh nhất thế giới. Ngay từ những
ngày đầu cải cách mở cửa, Trung Quốc đã có một chiến lược
khá tồn diện trong việc phát triển thương mại biên giới, cho
đến ngày nay đang tham gia sâu vào thể chế kinh tế thế giới
nhưng về cơ bản vẫn duy trì những chính sách đó. Các chính
sách thương mại biên giới của Trung Quốc đã trở thành một
bộ phận quan trọng trong chính sách thương mại, và là một
động lực thúc đẩy kinh tế vùng biên giới, miền núi phát triển,
góp phần xóa đói giảm nghèo; đồng thời Trung Quốc luôn
nắm thế chủ động trong thương mại với các nước có chung
biên giới. Đối với Việt Nam, mặc dù Nhà nước ta vẫn có
những văn bản điều chỉnh chính sách về thương mại biên giới,
nhưng nhìn chung do chưa có một cơ quan chun trách về
thương mại biên giới nên những chính sách về thương mại
biên giới thường không đồng bộ. Mặt khác, việc Việt Nam
chưa có một chiến lược thương mại lâu dài với Trung Quốc sẽ
dẫn đến tình trạng quan hệ thương mại biên giới ln bị động,
khơng có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của
nền kinh tế Trung Quốc để có thể khai thác tối đa lợi thế so
sánh và hạn chế rủi ro.


Ngày 20/03/2015, tại Hà Giang, Ban Kinh tế Trung
ương, Bộ Công thương phối hợp với UBND tỉnh Hà Giang tổ
chức Hội thảo “Phát triển thương mại biên giới tạo động lực
cho phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới đất liền của tỉnh
Hà Giang”. Hà Giang là tỉnh miền núi biên giới có lợi thế về

địa chính trị - kinh tế, hoạt động thương mại biên giới được
tỉnh Hà Giang xác định là một trong các tiềm năng, thế mạnh
của địa phương. Để phát huy, khai thác lợi thế, tỉnh Hà Giang
đã ban hành các Nghị quyết, Chương trình hành động về phát
triển thương mại biên giới trên cơ sở vận dụng linh hoạt các
cơ chế, chính sách và quy định của Nhà nước về thương mại.
Ban chỉ đạo Thương mại biên giới – Bộ Công Thương,
2014. Báo cáo đánh giá tình hình hoạt động thương mại biên
giới Việt – Trung giai đoạn 2006-2014. Báo cáo đã đánh giá
vai trò địa – kinh tế quan trọng của tuyến biên giới đất liền
Việt – Trung khi triển khai các giải pháp đẩy mạnh hoạt động
thương mại biên giới, đặc biệt là đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu sang Trung Quốc. Thương mại biên giới Việt – Trung
được chỉ ra trong các nghiên cứu có liên quan đến hợp tác
kinh tế - thương mại nói chung giữa ASEAN với Trung Quốc
cũng như giữa Việt Nam với Trung Quốc.


Hoạt động thương mại biên giới Việt – Trung đã được đề
cập tại nhiều cơng trình nghiên cứu có liên quan ở Việt Nam.
Do gần gũi về địa lý và có những nét tương đồng trong phong
tục tập quán, truyền thống văn hóa và xã hội, các hoạt động
giao lưu thương mại biên giới là một tất yếu khách quan không
thể thiếu trong lịch sử phát triển của Việt Nam và Trung Quốc.
Trung Quốc không chỉ là nước láng giềng mà còn là một thị
trường lớn, đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Chính vì
vậy, ngồi những cơng trình nghiên cứu của Bộ Cơng thương
như đã nêu trên có nhiều nghiên cứu của các cá nhân khác có
liên quan đến thương mại biên giới Việt- Trung, điển hình như:
Phạm Thị Cải, 2003. Một số giải pháp nhằm phát triển

thương mại hàng hóa Việt Nam – Trung Quốc qua biên giới
trên bộ thời kỳ đến 2005. Đề tài cấp bộ. Nghiên cứu cho thấy:
Phát triển thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc qua
biên giới trên bộ là chủ trương của cả Chính phủ Trung Quốc
và Chính phủ Việt Nam. Chủ trương mở cửa thị trường khu
vực biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc của các
Chính phủ đã được khơng chỉ các tỉnh có chung biên giới Việt
- Trung mà cả các tỉnh khác của hai nước rất quan tâm. Thực
hiện định hướng phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa biên


giới, phát triển thị trường khu vực biên giới trên bộ giữa hai
nước của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc, các
doanh nghiệp của cả hai nước đang từng bước tăng cường
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới trên bộ với
mục tiêu phát triển kinh tế thương mại của các địa phương có
biên giới, đồng thời phát triển kinh tế thương mại của các tỉnh
khác trong cả nước Việt Nam và Trung Quốc cũng như đẩy
mạnh thương mại hàng hóa để phát triển quan hệ kinh tế
thương mại giữa hai nước.
Nguyễn Đăng Ninh, 2004. Đổi mới quản lý nhà nước về
hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn các tỉnh biên giới Việt
Nam – Trung Quốc. Hà Nội: NXB Khoa học – Xã hội. Tác giả
đã khẳng định, cùng với quá trình cải cách và mở cửa, trên cơ
sở nhận thức vai trò của hoạt động kinh tế biên giới mà trọng
tâm là việc thúc đẩy giao lưu kinh tế qua các cửa khẩu trên
bộ, Chính phủ Việt Nam đã ban hành hàng loạt các chính sách
có liên quan để hỗ trợ cho q trình này. Các chính sách thúc
đẩy thương mại biên giới đã có tác động tích cực tới sự phát
triển kinh tế của các tỉnh biên giới; trong đó các khu kinh tế

cửa khẩu có vai trị nổi bật đối với việc thúc đẩy các hoạt
động thương mại, dịch vụ, du lịch; do đó đã có những đóng


góp to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế của các khu vực này.
Nguyễn Văn Lịch có các cơng trình: “Phát triển thương
mại trên hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội –
Hải Phòng” (2005), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
“Định hướng chiến lược phát triển quan hệ thương mại Việt
Nam – Trung Quốc giai đoạn đến 2015” (2007) và Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu xây dựng các giải
pháp khai thác chiến lược “phát triển một trục hai cánh”
nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam với Trung
Quốc” (2008). Các cơng trình này đều tập trung phân tích
xuất khẩu hàng hóa qua cá cửa khẩu biên giới Việt –Trung là
nội dung chủ yếu và quan trọng trong các chương trình hợp
tác kinh tế - thương mại biên giới giữa Việt Nam và Trung
Quốc; và giá trị chiến lược của hai hành lang một vành đai
kinh tế Việt – Trung trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
qua các cửa khẩu biên giới Việt – Trung.
Đỗ Tiến Sâm và Hà Thị Hồng Vân trong “Nghiên cứu về
tình hình bn bán biên giới ở vùng Tây Bắc Việt Nam”, Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2007 đã nghiên cứu về
tình hình bn bán biên giới ở vùng Tây Bắc, phân tích thực
trạng phát triển kinh tế xã hội nói chung và hoạt động thương


mại qua biên giới nói riêng, sau đó nêu lên một số quan điểm
và giải pháp nhằm phát triển kinh tế xã hội ở 04 tỉnh thuộc
vùng Tây Bắc bao gồm Điện Biên, Lào Cai, Sơn La, Hồ

Bình. Đồng thời nhấn mạnh các địa phương biên giới cần hợp
tác với nhau như thế nào, doanh nghiệp cần nâng cao sức
cạnh tranh ra sao; cũng như các địa phương, các vùng sản
xuất trong nội địa của hai nước làm thế nào để đưa sản phẩm
hàng hóa ra biên giới góp phần tăng trưởng đầu tư và quan hệ
thương mại hai nước.
“Quan hệ kinh tế - Thương mại cửa khẩu biên giới Việt –
Trung với việc phát triển kinh tế hàng hóa ở các tỉnh vùng núi
phía Bắc” do PTS. Phạm Văn Linh chủ biên – Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội năm 1999. Tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò và
tiềm năng kinh tế của các cửa khẩu biên giới Việt Trung, phân
tích sự tác động qua lại giữa các nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ
thương mại ở các cửa khẩu đối với việc phát triển kinh tế hàng
hố, tìm ra giải pháp thích hợp nhằm mở rộng thị trường, tăng
cường trao đổi hàng hoá qua các cửa khẩu biên giới, tạo đà cho
việc đẩy mạnh công cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa ở
khu vực này.


Luận án Tiến sĩ kinh tế “Đổi mới quản lý Nhà nước về
hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn các tỉnh biên giới Việt
Nam - Trung Quốc” của Lương Đăng Ninh thực hiện tại Viện
Nghiên cứu Thương mại năm 2002. Trong đó, nghiên cứu sâu
về QLNN đối với hoạt động XNK hàng hóa trên địa bàn các
tỉnh biên giới phía Bắc, chưa đề cập đến QLNN đối với hoạt
động thương mại nói chung trên địa bàn các tỉnh biên giới.
Đề tài khoa học cấp Bộ “Chiến lược một trục hai cánh
trong chính sách hướng Nam của Trung Quốc, gợi ý một số
đối sách với Việt Nam” do Trường Đại học Ngoại Thương
chủ trì thực hiện năm 2009.

Ngồi ra, cịn có nhiều đề tài khoa học, cuốn sách, bài
viết nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các bài tham luận tại hội
thảo trong nước và quốc tế đề cập đến sự phát triển kinh tế - xã
hội các tỉnh miền núi phía Bắc, hợp tác “Hai hành lang, một
vành đai kinh tế” Việt Nam - TQ, ACFTA, nghiên cứu mô hình
Khu hợp tác kinh tế biên giới Việt Nam - TQ,… với nhiều nội
dung khác nhau.
Chu Chấn Minh - Viện nghiên cứu Đông Nam Á - Viện
Khoa học Xã hội Vân Nam - TQ có cơng trình nghiên cứu


“Đáp ứng tình hình mới cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự
án “Hai hành lang, một vành đai” (năm 2007).
Đổng Chí Vân - Phó trưởng phịng Phịng Nghiên cứu,
Chính phủ nhân dân tỉnh Vân Nam - TQ có cơng trình nghiên
cứu “Tích cực thúc đẩy xây dựng Hai hành lang, một vành đai
Trung - Việt cùng tạo ưu thế trong hợp tác giữa Vân Nam và
Việt Nam” (năm 2007).
Lưu Kiến Văn, Viện Khoa học xã hội Quảng Tây – TQ
có cơng trình nghiên cứu “Nhanh chóng thúc đẩy tiến trình
xây dựng Khu hợp tác kinh tế xuyên quốc gia Trung - Việt”
(năm 2007), phân tích ý nghĩa của việc xây dựng các khu hợp
tác kinh tế biên giới Trung - Việt, trường hợp Khu kinh tế biên
giới Đông Hưng - Móng Cái.
Dự án RETA 7356 “Phát triển các Khu Hợp tác kinh tế
biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” do Ngân hàng phát
triển Châu Á (ADB) thực hiện năm 2011, đã nghiên cứu, đánh
giá hiện trạng các khu kinh tế biên giới Việt - Trung, trong đó
có Lào Cai - Hà Khẩu (TQ) và đề xuất các định hướng phát
triển các khu hợp tác kinh tế biên giới Việt - Trung trong

tương lai.


- Kết luận
Dù tiếp cận dưới góc độ lý luận hay thực tiễn, các cơng
trình nghiên cứu trên đã đề cập và phản ánh được nhiều góc
cạnh về phát triển thương mại biên giới của Canada và
Mexico. Một là, một số nghiên cứu đã cho thấy bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế toàn cầu đã làm cho thương mại quốc tế
nói chung và quan hệ thương mại biên giới giữa các quốc gia
nói riêng có những biến đổi nhất định. Hai là, một số cơng
trình đã cho thấy thực trạng và thách thức trong việc phát
triển thương mại biên giới của Mexico và Canada. Ba là,
nhiều cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa nền kinh tế và tác động của quan hệ thương mại
đến phát triển kinh tế của của Mexico và Canada với Mỹ. Bốn
là, một số nghiên cứu đã phân tích cơ chế giải quyết tranh
chấp giữa hai nước, cho thấy mặc dù Canada, Mexico và Mỹ
có hệ thống luật và thể chế giải quyết bất đồng hiệu quả, bên
cạnh đó vẫn cịn tồn tại nhiều hạn chế.
Cho đến nay, có nhiều cơng trình nghiên cứu về phát
triển quan hệ thương mại Việt - Trung cũng như phát triển
quan hệ thương mại biên giới hai nước Việt - Trung. Tuy


nhiên, các nghiên cứu về phát triển thương mại biên giới Việt
- Trung còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc phân
tích cơ sở lý luận và thực tiễn, thực trạng và đề xuất các giải
pháp quản lý đối với hoạt động phát triển thương mại biên

giới tiểu ngạch hay dưới hình thức mua bán, trao đổi hàng hóa
của cư dân biên giới, hoạt động tại chợ biên giới, chợ cửa
khẩu, chợ trong Khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt - Trung.
Thứ hai, hoạt động thương mại biên giới Việt - Trung
được nghiên cứu chung với hoạt động xuất khẩu hàng hóa
sang Trung Quốc hoặc trong khn khổ các chương trình hợp
tác kinh tế như “ Hai hành lang, một vành đai kinh tế” hoặc
“Một trụ hai cánh”. Các nghiên cứu này chưa nghiên cứu về
lợi thế cạnh tranh của Việt Nam với những điều kiện địa kinh tế đặc thù của tuyến biên giới đất liền Việt - Trung.
Thứ ba, các nghiên cứu đều cho rằng trong quan hệ
thương mại biên giới Việt - Trung, Việt Nam luôn luôn ở thế
yếu, lúng túng bị động từ những điều chỉnh chính sách “biên
mậu linh hoạt” của Trung Quốc, Việt Nam không có nhiều lợi
thế trong xuất khẩu hàng hóa qua biên giới Việt -Trung. Do


vậy, các giải pháp đưa ra thường mang tính tình thế, đối phó,
nhanh chóng khơng cịn phù hợp với q trình phát triển
thương mại qua biên giới Việt - Trung. Chưa có nghiên cứu
sâu và tồn diện về lợi thế và tiềm năng của các tỉnh biên giới
Việt Nam nói chung và lợi thế của các tỉnh Tây Bắc nói riêng
đối với việc phát triển thương mại biên giới.
Nhìn chung, các cơng trình trên đây là những tư liệu
tham khảo rất có giá trị mà Luận văn sẽ kế thừa và trên cơ sở
đó có những phát triển mới trong bối cảnh hiện nay.
- Cơ sở lý luận phát triển thương mại biên giới.
Thương mại biên giới được cấu thành bởi nhiều yếu tố,
trong đó mỗi yếu tố đóng một vai trị quan trọng nhất định.
Trong đó gồm các thành phần cần được xem xét đầy đủ, đúng
mức như biên giới, thương mại biên giới và các thành phần

liên quan như đặc điểm, tính chất cũng như tính tất yếu của
hoạt động thương mại biên giới. Trong đó, mỗi thành phần
cần được xem xét, phân tích các đặc điểm riêng cũng như mối
quan hệ giữa các yếu tố với nhau, từ đó có cách hiểu đúng
đắn, đầy đủ về hoạt động thương mại biên giới.
- Một số khái niệm liên quan tới thương mại biên giới


×