Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

CƠ sở lý LUẬN và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cữu THỰC TIỄN về QUẢN lý đầu tư RA nước NGOÀI của DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.52 KB, 72 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỮU THỰC TIỄN VỀ QUẢN
LÝ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI
CỦA DOANH NGHIỆP


Cơ sở lý luận
Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Đây là nội dung nghiên cứu được nhiều học giả nước
ngoài quan tâm nhiều nhất và có nhiều công trình nghiên cứu
nhất. Tiêu biểu cho nhóm nghiên cứu này bao gồm:
Nghiên cứu của De Mello (1999) lấy mẫu ở 16 nước phát
triển và 17 nước đang phát triển, ông đã chỉ ra rằng: FDI ròng
của các doanh nghiệp có hiệu quả tích cực và quan trọng đối
với tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1970 - 1990. Song, đối với các
nước đang phát triển thì FDI có tác động đến tăng trưởng kinh
tế lớn hơn, còn đối với các nước phát triển thì nhỏ hơn.
Nghiên cứu của Campos và Kionoshita (2002) với mẫu
nghiên cứu nhỏ hơn, bao gồm 25 nước Trung và Đông Âu, cùng
các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi thuộc Liên Xô cũ, các
tác giả cho rằng “FDI của các doanh nghiệp có tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế tại các nước có nền kinh tế đang chuyển
đổi”. Bởi vì, tại các nước đang chuyển đổi có quá trình CNH
diễn ra mạnh mẽ hơn và họ có lực lượng lao động được đào tạo
tốt hơn.


Nghiên cứu của các học giả Berthelemy và Demurger
(2000); Graham và Wada (2001) và Buckey et al (2002), sử
dụng số liệu FDI phân theo địa phương của Trung Quốc cho


thấy, FDI các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các tỉnh. Các tỉnh ven biển, nơi
thu hút phần lớn FDI của Trung Quốc đã sử dụng FDI có hiệu
quả hơn so với các tỉnh khác.
Nghiên cứu của Borensztein et al (1995 - 1998) sử dụng
số liệu của 69 nước đang phát triển giai đoạn 1970 - 1989 để
hồi quy. Kết quả cho thấy FDI ròng chỉ có ảnh hưởng nhẹ đến
tăng trưởng, nhưng khi sử dụng số nhân của FDI với trình độ
của lực lượng lao động làm biến độc lập thì biến này có hệ số
dương và ý nghĩa thống kê. Ông kết luận, FDI chỉ mang lại tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế khi nước nhận đầu tư có
lực lượng lao động đạt đến trình độ nhất định. Dưới mức đó,
FDI hầu như không có tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Borensztein et al (1995), lại cho rằng, tốc độ tăng trưởng
của các nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp
nhận và hấp thụ công nghệ mới. Họ cũng đồng ý rằng sự đóng
góp chính của FDI từ các doanh nghiệp là thúc đẩy tiến bộ về
công nghệ của nước sở tại. Hermes và Lensink cho rằng, để


khai thác tối đa hiệu quả của FDI, nước tiếp nhận đầu tư cần
phát triển thị trường tài chính. Hệ thống tài chính cần phát triển
đến một trình độ nhất định để huy động tiết kiệm, khuyến khích
các doanh nghiệp trong nước đầu tư đổi mới công nghệ. Có như
vậy, doanh nghiệp trong nước mới tận dụng được công nghệ từ
các doanh nghiệp FDI nhiều hơn.
Nghiên cứu của Ramirez (2000) sử dụng số liệu vốn FDI
tích luỹ ước lượng đóng góp FDI đến tăng trưởng kinh tế của
Mexico giai đoạn 1960 - 1995. Ông thấy rằng, vốn FDI tác
động tích cực đến xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế thông qua

năng suất lao động. Ramirez (2000) đưa ra kết luận, để FDI tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, cần phải nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực thì mới có thể tiếp nhận được công nghệ
mới và kinh nghiệm quản lý.
Nghiên cứu của Li và Liu (2005) qua khảo sát 88 quốc gia
có tiếp nhận FDI (bao gồm cả nước phát triển và đang phát
triển) đã chỉ ra rằng, FDI và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Theo các tác giả FDI từ các doanh nghiệp
không những trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế, mà còn
thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và công nghệ. Một điểm
đáng lưu ý trong nghiên cứu này là, nước nhận FDI phải có


nguồn nhân lực và công nghệ đạt tới trình độ nhất định. Nếu
nước nhận FDI có trình độ nguồn nhân lực và công nghệ thấp
hơn nước đầu tư thì sẽ tác động tiêu cực đến nước nhận FDI.
Aizenman, J and Noy, I (2006) trong nghiên cứu
“Examination of U.S. inbound and outbound Direct
Investment” [27, tr.3] đã chỉ ra các nguyên nhân khác khiến
các nhà đầu tư Mỹ phải đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm lợi
nhuận và tránh những rủi ro do phải cạnh tranh ngay tại Mỹ.
Có cùng quan điểm trên là các tác giả khác: Douglas Hotlz
Eaki và cộng sự (2005) trong nghiên cứu “Why Does U.S.
Investment Abroad Earn Higher Returns Than Foreign
Investment in the United States?” [30, tr.1]; Marcela Meirelles
Aurelio (2006) “Going Global: The Changing Pattern of U.S.
Investment Abroad” [31] các tác giả này chỉ ra rằng để tối đa
hoá lợi nhuận, các công ty xuyên quốc gia (TNC) sẽ tìm cách
tăng giảm báo cáo lợi nhuận của công ty con tại những nước
có mức thuế cao nhằm tối đa hoá lợi nhuận.

Ngoài ra, trong các nghiên cứu của James K.Jackson
(2008, 2011, 2012) [29] còn cho rằng FDI của Mỹ ra nước
ngoài một phần là tận dụng lợi thế chi phí lao động thấp hơn,


còn phần lớn là hướng tới phục vụ thị trường mà họ đặt chi
nhánh và đẩy mạnh xuất khẩu của công ty họ ra nước ngoài.
Nghiên cứu của Buckley et al (2002) là một trong rất ít
các nghiên cứu cho rằng FDI tác động đến tăng trưởng kinh tế
thấp hơn so với đầu tư trong nước của Trung Quốc. Nghiên cứu
đi đến kết luận FDI không có tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế bằng các nguồn vốn khác trong nước.
Khi nghiên cứu dòng vốn FDI các doanh nghiệp Hoa Kỳ
đầu tư sang các nước đang phát triển, Nunnenkamp và Spatz
(2003) đã đưa ra quan điểm rằng, FDI không có tác động đáng
kể nào đến tăng trưởng kinh tế ở các nước tiếp nhận đầu tư,
thậm chí FDI còn có tác động tiêu cực. Đặc biệt ở các quốc gia
có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, trình độ lực lượng
lao động không cao, độ mở cửa nền kinh tế thấp thì càng thu
hút nhiều FDI càng ảnh hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng
kinh tế.
Kết quả nghiên cứu của Buckley et al 2002 cũng tương tự
kết quả nghiên cứu của Dutt (1997), khi ông kiểm định về hiệu
quả của FDI đầu tư từ các nền kinh tế phương Bắc vào các nền
kinh tế phương Nam.


Fukao et al (2003) đã phân tích các thay đổi gần đây trong
hoạt động thương mại của các nước Đông Á và phân tích vai
trò của FDI trong những thay đổi đó trong giai đoạn 1988 2000. Phân tích của họ cho thấy rằng trao đổi thương mại giữa

các doanh nghiệp cùng ngành của các nước Đông Á đã tăng lên
nhanh chóng trong thời gian nghiên cứu. Đặc biệt là trong
trường hợp ngành công nghiệp điện tử nói chung và ngành công
nghiệp máy móc chính xác nói riêng. Họ cũng thấy rằng vốn
FDI có tác động rất tích cực trong trao đổi thương mại trong
ngành công nghiệp thiết bị điện. Cuối cùng, họ kết luận rằng
trong khu vực Đông Á, FDI của các doanh nghiệp đóng vai trò
quan trọng trong sự gia tăng nhanh chóng của trao đổi thương
mại giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành.
Aizenmen và Noy (2006) nghiên cứu mối quan hệ hai
chiều giữa FDI và thương mại của hai nhóm nước khác nhau:
các nước phát triển và các nước đang phát triển. Họ chỉ ra rằng
mối quan hệ hai chiều giữa thương mại và FDI mạnh hơn ở các
nước đang phát triển so với các nước phát triển. FDI thúc đẩy
xuất khẩu mạnh hơn là xuất khẩu hàng hoá.
Trong nghiên cứu của James K.Jackson (2008) về “U.S
Direct Investment Abroad: Trends and Current Issues” [29,


tr.2] đã cho rằng giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2007 tổng số
tiền đầu tư ra nước ngoài của Mỹ trung bình nhiều gấp 2 lần
đầu tư cho nền kinh tế Mỹ, nó phản ánh giai đoạn nền kinh tế
Mỹ tăng trưởng chậm và việc làm trong nước của họ giảm sút
do các công ty xuyên quốc gia của Mỹ bị mất dần thị phần
trong nước khi tăng đầu tư mở rộng chi nhánh ở nước ngoài.
Nhưng ở một nghiên cứu khác của James K.Jackson (2011)
[29], hầu hết các nhà kinh tế Mỹ đều kết luận rằng xét một
cách tổng thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không dẫn đến
việc làm ít hơn hoặc thu nhập thấp hơn cho người dân Mỹ và
phần lớn việc làm bị mất giữa các công ty sản xuất của Mỹ

trong thập kỷ qua là phản ánh việc tái cơ cấu ngành công
nghiệp chế tạo Mỹ một cách rất sâu rộng. Một nghiên cứu
khác của nhóm tác giả Harvard College như Mihir A. Desai,
C. Fritz Foley, and James R. Hines Jr. (2011) [28] nghiên cứu
về “Tax Policy and the Efficiency of US Direct Investment
Abroad” cũng kết luận rằng hoạt động của FDI ra nước ngoài
của Mỹ trong thời gian trước 2011 không hiệu quả khi họ so
sánh giữa khoản đầu tư ra nước ngoài với khoản lợi nhuận thu
về nước trong năm 2010, do vậy, chính sách thuế hiện hành
của Mỹ đang ưu đãi đối với các doanh nghiệp FDI tại Mỹ


[28].
U.S. Chamber of Commerce (2015) trong “Secure U.S.
Investment Overseas” [31] cho rằng các TNC khi tiến hành
FDI ra nước ngoài cũng gián tiếp tạo thêm việc làm cho lao
động Mỹ. Đa số các công việc này là do các TNC đầu tư vào
các hoạt động nghiên cứu và phát triển, là công việc dành cho
các chuyên gia Mỹ có kỹ năng cao với mức lương tương ứng.
Ngoài ra, U.S. Chamber of Commerce còn cho biết thêm rằng
Chính phủ Mỹ khá chú trọng tới đàm phán các hiệp định đầu
tư song phương (BIT) nhằm bảo đảm lợi ích và bảo vệ nhà
đầu tư Mỹ khi đầu tư ra nước ngoài. BIT được Chính phủ Mỹ
thực hiện không chỉ với mục đích bảo vệ tài sản của các nhà
đầu tư Mỹ ở nước ngoài mà còn nhằm tạo ra sân chơi bình
đẳng cho các nhà đầu tư Mỹ bằng cách nghiêm cấm hoặc hạn
chế tối đa phân biệt đối xử với các công ty Mỹ. Ngoài ra, BIT
còn đảm bảo tính minh bạch đối với luật và các quy định liên
quan đến đầu tư, BIT đưa ra các giải pháp trong tranh chấp
đầu tư trong trường hợp bị tước quyền sở hữu. Có thể nói,

Chính phủ Mỹ sử dụng BIT như một công cụ để khuyến khích
các nhà đầu tư Mỹ đầu tư ra nước ngoài phù hợp với định
hướng của Chính phủ.


Các công trình nghiên cứu trong nước
Đỗ Hoàng Long (2006) có công trình: “Tác động của
toàn cầu hoá kinh tế đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam” - Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Đề tài nghiên cứu tiến trình
toàn cầu hoá kinh tế và tác động của tiến trình này đối với sự
vận động của dòng vốn FDI trên thế giới và Việt Nam; với
phạm vi những tác động của toàn cầu hoá kinh tế đối với giá
trị và cơ cấu của dòng vốn FDI vào Việt Nam trong khoảng
thời gian từ giữa thập kỷ 1980 tới cuối năm 2006. Đề tài đã hệ
thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn của tiến trình toàn cầu
hoá kinh tế và khẳng định toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế
khách quan, vừa có tính hệ thống, kế thừa, vừa có tính đột
biến của nền kinh tế thế giới. Phân tích tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam và cơ hội đối với Việt Nam
trong việc tiếp cận với thị trường vốn quốc tế, trong đó có
nguồn vốn FDI; phân tích tác động của toàn cầu hoá kinh tế
đối với việc cải thiện môi trường thu hút vốn FDI của Việt
Nam, đối với giá trị và cơ cấu FDI vào Việt Nam qua các
kênh môi trường đầu tư, thị trường và các yếu tố nguồn lực
sản xuất; phân tích một số bất cập trong quá trình thu hút FDI


của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc Việt Nam đã chưa
thành công trong việc sử dụng các yếu tố nội lực để thu hút và

định hướng dòng FDI vào những lĩnh vực mong muốn và để
phát huy được lợi thế so sánh của mình; trên cơ sở các phân
tích về tác động của toàn cầu hoá kinh tế đối với sự vận động
của dòng FDI vào Việt Nam trong thời gian qua và một số dự
báo về xu hướng vận động của dòng FDI trên thế giới thời
gian tới, Luận án gợi ý một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công
tác thu hút FDI vào Việt Nam thông qua cải thiện môi trường
đầu tư, thị trường và nguồn lực sản xuất.
Công trình của Phạm Thị Thanh Phương (2006): “Giải
pháp tăng cường thu hút và triển khai các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài của tỉnh Thái Nguyên” - Luận văn thạc sỹ
kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Đề tài
nghiên cứu hoạt động thu hút và hỗ trợ triển khai các dự án
FDI trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên từ năm 1993-2006. Đề tài
đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về thu hút và triển khai
các dự án FDI, phân tích và đánh giá thực trạng quá trình thu
hút và triển khai các dự án FDI tại tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ
sở đó, tìm ra các nguyên nhân dẫn đến những vấn đề còn tồn
tại và đề xuất một số giải pháp nhằm giúp tỉnh Thái Nguyên


hoàn thành tốt các mục tiêu về thu hút và triển khai các dự án
FDI.
Công trình của Nguyễn Ngọc Quang (2007): “Giải pháp
tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển
công nghiệp tỉnh Bắc Ninh” - Luận văn thạc sỹ kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Đề tài nghiên cứu
hoạt động thu hút FDI vào ngành công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
từ khi tái lập tỉnh (năm 1997) đến năm 2007. Đề tài đã hệ
thống hoá và góp phần làm rõ một số vấn đề lý thuyết về FDI

và thu hút FDI; phân tích, đánh giá những thành công, những
bất cập còn tồn tại trong hoạt động thu hút FDI vào ngành
công nghiệp tỉnh Bắc Ninh, qua đó đề xuất các giải pháp tích
cực tăng cường thu hút FDI vào phát triển ngành công nghiệp
của tỉnh Bắc Ninh.
Đề tài của Nguyễn Văn Duân (2014): “Đầu tư nước
ngoài tại tỉnh Bắc Giang” - Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trường
Đại học Kinh tế - ĐHQG Hà Nội. Đề tài nghiên cứu đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 20092014. Đề tài đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về
đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó đã đề xuất một số giải


pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang.
Công trình đã đề cập đến vấn đề thu hút vốn FDI tại tỉnh
Bắc Giang, công trình này mới chỉ nghiên cứu những vấn đề
lý luận cơ bản về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh
Bắc Giang, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bắc Giang,
nhưng đề tài chưa đi sâu, tập trung nghiên cứu có hệ thống về
hoạt động thu hút, triển khai các vốn FDI vào tỉnh Bắc Giang
để làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng tới nền công nghiệp
sử dụng công nghệ hiện đại, góp phần nâng cao vị thế của tỉnh
và thời gian nghiên cứu chỉ đến năm 2006, trước khi Việt
Nam gia nhập WTO.
Tác giả Nguyễn Hải Đăng, 2013 có công trình: “Đầu tư
của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài trong quá trình
hội nhập kinh tế quôc tế”. Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế, ĐHQG Hà Nội. Luận án đã khái quát và hệ thống

hóa cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như các khái
niệm, hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài; lý thuyết về
ĐTRNN, tính tất yếu của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các


nước đang phát triển; mục tiêu ĐTRNN của các doanh nghiệp
và những nhân tố ảnh hưởng; tác động của đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài.
Trên cơ sở khái quát kinh nghiệm về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài của một số quốc gia và một số công ty xuyên quốc
gia, luận án đã rút ra những bài học kinh nghiệm đối với các
doanh nghiệp Việt Nam và công tác quản lý ĐTRNN ở nước ta.
Luận án đã khái quát về quá trình hội nhập và hệ thống pháp lý
của Việt Nam về ĐTRNN; khái quát và phân tích được thực
trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
theo thời gian, địa bàn, lĩnh vực, hình thức, chủ thể đầu tư; đi
sâu phân tích những lợi ích của hoạt động ĐTRNN đối với
doanh nghiệp và lợi ích của đất nước;phân tích những hạn chế
của các doanh nghiệp Việt Nam và của Nhà nước trong hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đồng thời phân tích và chỉ
rõ những nguyên nhân ảnh hưởng đến những thành công và hạn
chế đó. trêncơ sởkhái quát bối cảnh kinh tế trong nước, quốc tế,
dự báo xu thế, những thuận lợi, khó khăn đối với hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong
thời gian tới, luận án đã xác định mục tiêu, đưa ra các quan
điểm, định hướng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của


doanh nghiệp Việt Nam. Luận án đã đề xuất các nhóm giải pháp
nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để nâng

cao hiệu quả đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh
nghiệp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài để đảm bảo lợi ích chung của đất nước.
Như vậy, cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề ĐTRNN nói chung,
đầu tư của các doanh nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn
diện và cập nhật về ĐTRNN của Tập đoàn Viettel theo cách
tiếp cận của khoa học quản lý kinh tế, từ vấn đề hoạch định,
chính sách phát triển, đến vấn đề tổ chức thực hiện đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Tập đoàn. Đây là khoảng trống khoa
học mà luận văn này tập trung giải quyết.
Quản lý đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp
Khái niệm
Đầu tư ra nước ngoài
ĐTRNN là phương thức đầu tư vốn và tài sản ở nước
ngoài, để tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục


đích kiếm lợi nhuận và mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Dưới góc độ tài chính quốc tế thì đó là sự chuyển một luồng
vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác để kinh doanh với
mục đích là kiếm lợi nhuận cao.
ĐTRNN bao gồm đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp:
Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là hình thức đầu tư ra
nước ngoài dưới hình thức mua, bán chứng khoán, các giấy tờ
có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng
khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là hình thức đầu tư dài
hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng

cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty
nước ngoài đó sẽ nắm quyền điều hành, quản lý cơ sở sản
xuất kinh doanh này nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Ở Việt Nam, theo Nghị định số 78/2006/NĐ-CP của
Chính phủ quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, thì đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn
ĐTRNN để thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài.


Bản chất của của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là sự di
chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh doanh dài hạn giữa
các quốc gia nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Đó chính là hình
thức xuất khẩu tư bản để thu lợi nhuận cao. Do đi kèm với
đầu tư vốn là đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên
hình thức này thúc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở các nước nhận đầu tư.
Các hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai
hay nhiều bên (gọi là các bên hợp doanh) quy định trách
nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến
hành kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có sự tham gia hay
bên hợp doanh là nước nhận đầu tư, hợp đồng này khác với
hợp đồng khác đó là nó phân chia kết quả kinh doanh và trách
nhiệm của các bên cụ thể được ghi trong hợp đồng không áp
dụng đối với hợp đồng thương mại, hợp đồng giao nhận sản
phẩm, mua thiết bị trả chậm và các hợp đồng khác không



phân chia lợi nhuận. Nội dung chính của hợp đồng này bao
gồm:
Quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các bên
hợp danh.
Mục tiêu và phạm vi kinh doanh.
Sản phẩm tiêu thụ chủ yếu, tỷ lệ xuất khẩu và tiêu thụ
sản phẩm trong nước.
Quyền và nghĩa vụ của các bên hợp doanh.
Đóng góp của các bên hợp doanh, phân chia kết quả
kinh doanh, tiến độ thực hiện hợp đồng.
Trong quá trình kinh doanh các bên hợp doanh được
phép thỏa thuận thành lập ban điều phối để theo dõi giám sát
công việc thực hiện hợp đồng, những ban điều phối không
phải là đại diện pháp lý cho các bên hợp doanh. Mỗi bên hợp
doanh phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước
pháp luật và có nghĩa vụ tài chính tùy theo bên nước nhận đầu
tư quy đình. Trong quá trình hoạt động các bên hợp doanh được
quyền chuyển nhượng vốn cho các đối tượng khác nhưng cũng
phải ưu tiên cho đối tượng đang hợp tác.


Hình thức này có đặc điểm:
Hai bên hợp tác kinh doanh trên cơ sở văn bản hợp đồng
phân định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi.
Thời hạn hợp đồng do hai bên thỏa thuận.
Vấn đề nguồn vốn kinh doanh không nhất thiết phải đề
cập trong bản hợp đồng.
Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Hình thức doanh nghiệp liên doanh là một tổ chức kinh

doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau.
Trên cơ sở góp vốn cùng kinh doanh, nhằm thực hiện cam kết
trong hợp đồng liên doanh và điều lệ doanh nghiệp liên
doanh, phù hợp với khuôn khổ luật pháp nước nhận đầu tư.
Nhiều công ty thâm nhập thị trường nước ngoài bằng cách
xây dựng một liên doanh với những công ty đóng tại thị
trường đó. Hầu hết các liên doanh cho phép hai công ty tận
dụng được các lợi thế so sánh tương đối riêng của chúng trong
một đề án nhất định. Chẳng hạn hãng General Mill tiến hành
liên doanh với Nestle SA, nhờ đó ngũ cốc được General Mill
sản xuất có thể bán ra nước ngoài thông qua mạng lưới phân


phối bán hàng do Néstle thiết lập. Hãng Xerox và Fuji của
nhật đã tiến hành một liên doanh cho phép Xerox thâm nhập
vào thị trường nhật và cho phép Fuji tham gia vào kinh doanh
Photocopy.
Hình thức này có đặc điểm:
Về pháp lý: Hình thức liên doanh là một pháp nhân của
nước nhận đầu tư. Hoạt động theo luật pháp của nước nhận
đầu tư. Hình thức liên doanh do các bên tự thỏa thuận, phù
hợp với các quy định của luật pháp của nước nhận đầu tư.
Như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm vô
hạn, các hiệp hội góp vốn… Quyền lợi và nghĩa vụ của các
bên và quyền quản lý Doanh nghiệp liên doanh phụ thuộc vào
tỷ lệ góp vốn và được ghi trong hợp đồng liên doanh và điều
lệ của doanh nghiệp.
Về tổ chức: Hội đồng quản trị của doanh nghiệp là mô
hình chung cho mọi doanh nghiệp liên doanh, không phụ
thuộc vào quy mô, lĩnh vực, ngành nghề. Đây là cơ quan lãnh

đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh.


Về kinh tế: Luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích giữa
các bên trong liên doanh và cả các bên đứng phía sau các liên
doanh. Đây là vấn đề hết sức phức tạp.
Điều hành sản xuất kinh doanh: Quyết định sản xuất
kinh doanh dựa vào các quy định pháp lý của nước nhận đầu
tư về việc vận dụng nguyên tắc nhất trí hay quá bán.
Doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài: Doanh nghiệp
có 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh quốc tế
có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư nước ngoài đóng
góp 100% vốn pháp định, tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đặc điểm cơ bản của hình thức này là:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một pháp nhân
của nước nhận đầu tư nhưng toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc
sở hữu của người nước ngoài. Hoạt động sản xuất kinh doanh
theo nước nhận đầu tư và điều lệ của doanh nghiệp. Hình thức
pháp lý của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do nhà đầu
tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ của pháp luật. Quyền
quản lý doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn
chịu trách nhiệm.


Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Phần kết quả của doanh nghiệp sau khi
hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nước sở tại là thuộc sở hữu
hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài.
Nhà đầu tư nước ngoài tư nước ngoài tự quyết định các

vấn đề các vấn đề trong doanh nghiệp và các vấn đề liên quan
để kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ của
pháp luật cho phép.
Ngoài ra, tùy từng quốc gia có thể có các hình thức đầu
tư trực tiếp khác như hình thức BOT; BTO; BT; Hình thức
cho thuê - bán thiết bị; công ty cổ phần; công ty quản lý vốn.
ĐTTTRNN là một hình thức đầu tư quốc tế, đưa vốn ra
nước ngoài tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh với
nhiều mục đích khác nhau, có thể mục đích lợi nhuận hay một
mục đích chính trị nào khác. Nó có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, nguồn vốn ĐTTTRNN có đặc điểm khác với
các nguồn vốn khác với các nguồn vốn đầu tư trong nước khác
là việc xuất các nguồn vốn này không phải là một hình thức
cho vay. Đây không phải là một nguồn nợ đối với nước nhận
vốn đầu tư. Nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt


động của nguồn vốn. Thay vì nhận được lãi suất trên vốn đầu
tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự
án đầu tư hoạt động có hiệu quả.
Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp điều hành hoặc
tham gia quản lý và điều hành quá trình thực hiện và vận hành
dự án đầu tư tùy theo tỷ lệ góp vốn.
Thứ ba, vốn đầu tư trực tiếp bao gồm vốn góp để hình
thành vốn pháp định, vốn vay hoặc vốn bổ sung từ lợi nhuận
của doanh nghiệp để triển khai, mở rộng dự án.
Thứ tư, thông qua vốn đầu tư của doanh nghiệp, nước
tiếp nhận vốn có thể tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ thuật
tiến tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của nước đi đầu tư
hoặc là nước đi đầu tư sẽ tận dụng được sự phát triển của

nước nhận đầu tư về nguồn nhân lực trình độ cao, cơ sở hạ
tầng phát triển, phương tiện thông tin liên lạc hiện đại… Tạo
mọi điều kiện thuận lợi mà bên trong nước của chủ đầu tư
không có được hoặc yêu cầu của dự án cần nền tảng tương
thích mới có thể phát triển được.
ĐTRNN có vai trò rất lớn đối với cả nhà đầu tư và đối
với nơi thu hút đầu tư. Đối với doanh nghiệp ĐTRNN:


Một là, tạo cơ hội nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực tài chính của doanh nghiệp.
ĐTRNN là hình thức luân chuyển vốn dư thừa tương đối
trong nước ra nền kinh tế khác ở nước ngoài. Nó giải quyết
được vấn đề sử dụng số vốn thừa tương đối này sao cho có
hiệu quả cao nhất… Việc mở rộng và phát triển hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho việc di
chuyển các nguồn lực ra khỏi phạm vi của một quốc gia, với
một phạm vi rộng hơn và môi trường khác hơn đó là trên bình
diện quốc tế. Trong môi trường đó các nhà đầu tư có thể lựa
chọn môi trường và lĩnh vực ĐTRNN có lợi nhuận cao hơn
đầu ở trong nước.
Hai là, ĐTRNN tạo cơ hội mở rộng thị trường kinh
doanh, tăng cường học hỏi kinh nghiệm kinh doanh, nâng vị
thế hình ảnh của doanh nghiệp đầu tư trên thị trường quốc tế.
Khi ĐTRNN thì sẽ có cơ hội cung ứng sản phẩm sản
xuất của doanh nghiệp mình tại nước sở tại một cách hợp
pháp, dễ dàng và không chịu các điều kiện ràng buộc ngặt
nghèo khi xuất khẩu hàng hóa trực tiếp phải chịu. Đây là điều
kiện tốt để thâm nhập sâu vào thị trường nội địa của nước sở



tại, mở rộng thị trường tiêu thụ. Khi đầu tư vào một nước phát
triển, với cơ sở vật chất và điều kiện hiện đại, tác phong công
nghiệp. Đây là cơ hội tốt để hoàn thiện phương cách quản lý
hiện đại của doanh nghiệp mà trong nước không có điều kiện
áp dụng, học tập cơ chế quản lý hiện đại.
Ba là, thúc đẩy doanh nghiệp nhanh chóng hội nhập vào
nền kinh tế thế giới.
Ngày nay, khu vực hóa và quốc tế hóa đời sống kinh tế
đã trở thành xu thế mang tính thời đại. Mở rộng đa phương
hóa và đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội
nhập quan hệ kinh tế quốc tế. Việc mở rộng hợp tác quốc tế
nhằm mục đích kết hợp các yếu tố trong nước với các yếu tố
nước ngoài và khai thác các có hiệu quả nguồn lực ngoài nước
phục vụ cho sự phát triển DN của mỗi quốc gia. Việc tiến
hành hoạt động ĐTRNN giữa của DN dẫn đến sự di chuyển
các nguồn lực tài chính từ các quốc gia này sang quốc gia
khác. Hay nói cách khác thông qua hoạt động đầu tư giữa các
nước với nhau các nguồn tài chính được phân phối trên phạm
vi thế giới, có tác động tích cực tới DN. Các nguồn lực di
chuyển không chỉ là vốn mà DN có thể có thể tranh thủ được


×