Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.89 KB, 29 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước đều
thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua cơ quan
đại diện là Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, trong đó HĐND
được xác định là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. HĐND có quyền
quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương đồng thời thực hiện chức năng
giám sát đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan cùng cấp khác; giám sát việc
thực hiện Nghị quyết của HĐND và hoạt động của các tổ chức, công dân ở địa
phương. Việc thực hiện chức năng giám sát của HĐND có ý nghĩa hết sức quan
trọng thể hiện vai trò của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ quan
đại biểu của nhân địa phương góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của các cơ quan Nhà nước ở địa phương, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân
địa phương. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND hiện nay còn bộc
lộ nhiều hạn chế.
Vì vậy việc chọn và nghiên cứu vấn đề “Hệ thống các hình thức nhằm
thực hiện chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân tại một đơn vị hành
chính cụ thể; các giải pháp của cá nhân nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân” có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, vừa đáp ứng
được yêu cầu bức xúc của thực tiễn, vừa đảm bảo thực hiện chủ trương của
Đảng và Nhà nước đó là: “Thực hiện cải cách thể chế và phương thức hoạt động
của Nhà nước” . Trong đó có việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND các cấp nói chung và hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của vấn đề
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm phân tích, đánh giá việc thực
hiện chức năng giám sát của HĐND tại một đơn vị hành chính cụ thể trước yêu
cầu của tình hình mới. Làm rõ những mặt mạnh, mặt yếu, chỉ rõ những bất cập,

1



hạn chế từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND trong giai đoạn hiện nay.
Nội dung những vấn đề được nghiên cứu, đề xuất trong tiểu luận góp phần
vào việc nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của HĐND (trong đó có vấn đề
hoạt động giám sát của HĐND xã X) phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân trên cơ sở:
“Phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương kết
hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân….
3. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về
hệ thống các hình thức nhằm thực hiện chức năng giám sát của HĐND tại một
đơn vị hành chính (xã X). Từ đó đánh giá về thực trạng giám sát của HĐND,
những thành tựu đạt được từ hoạt động giám sát của HĐND và những vấn đề
còn tồn tại, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
của HĐND xã X, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân
tại đơn vị.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu, tiểu luận đã sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tích tài liệu, nghiên
cứu lý luận kết hợp với nghiên cứu thực tiễn, phân tích tổng hợp những quy định
pháp luật, rút ra những nhận xét khái quát từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện
những quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
5. Kết cấu tiểu luận
Xuất phát từ nội dung, yêu cầu của đề tài, tiểu luận được chia làm hai
chương:
Chương 1: Những quy định của pháp luật hiện hành về hệ thống các hình
thức nhằm thực hiện chức năng giám sát của HĐND các cấp.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát

của Hội đồng nhân dân xã X.
2


CHƯƠNG 1
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỆ
THỐNG CÁC HÌNH THỨC NHẰM THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁM
SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
1.1. Khái niệm giám sát
1.1.1.Cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các
cấp:
a. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân:
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân là chủ thể,
nguồn gốc tối cao của quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước được thực hiện
theo chế độ tập quyền, theo nguyên tắc tập trung dân chủ.Vì vậy Quốc hội và
Hội đồng nhân dân có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy Nhà nước.
Khác với Quốc hội là cơ quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước, sử dụng
quyền lực Nhà nước trên phạm vi toàn quốc. HĐND các cấp thay mặt nhân dân
địa phương sử dụng quyền lực Nhà nuớc trong phạm vi địa phương. Điều này
quyết định phạm vi, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND. Điều 113
Hiến pháp 2013 khẳng định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân
dân địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân
dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định
các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân”
Cho đến nay mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về tính quyền lực của
HĐND nhưng hiến pháp 2013 vẫn tiếp tục khẳng định Hội đồng nhân dân là cơ
quan Nhà nước ở địa phương, có thẩm quyền quyết định những vấn đề quan

trọng ở địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá-xã hội, quốc phòng,an
ninh…Hội đồng nhân dân cùng với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan quyền
lực Nhà nước. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Chủ tịch Hồ chí
Minh về cơ quan chính quyền địa phương.
3


Với thiết chế cơ quan chính quyền địa phương như hiện nay, quyền lực của
nhân dân địa phương được thực hiện thông qua cơ quan đại diện cho ý chí,
nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân-đó là HĐND.
Theo quy định pháp luật, chỉ HĐND mới có thẩm quyền thay mặt cho nhân
dân địa phương quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng ở địa phương, giám
sát việc tuân theo pháp luật và Nghị quyết của HĐND đối với các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội và nhân dân ở địa phương.
b. Chức năng của Hội đồng nhân dân:
Với vị trí, vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Quyền lực của HĐND
xuất phát từ quyền lực của Quốc hội. Do vậy Quốc hội (thông qua Hiến pháp)
trao cho HĐND thực hiện ba chức năng:
- Quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương như quyết định chủ
trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng
và phát triển địa phương về kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không
ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm
tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
- Đảm bảo thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan Nhà nước
cấp trên.
- Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc
tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn

vị vũ trang nhân dân và của công dân địa phương.
Thông qua các Nghị quyết tại kỳ họp, HĐND quyết định những nhiệm vụ
phát triển kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương. Việc giám sát thực
hiện các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND
nhằm đảm bảo cho Nghị quyết được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Do đó
quá trình thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng và giám sát
của Hội đồng nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
4


Trước hết chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương tạo
cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát. Các quyết định của HĐND về các vấn đề
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng…được thể hiện dưới hình thức Nghị quyết.
Nghị quyết của HĐND chính là căn cứ pháp lý để các cơ quan Nhà nước (đặc
biệt là Uỷ ban nhân dân) tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế. Để khẳng
định các Nghị quyết của HĐND có sát với thực tế hay không? Có được các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân chấp hành nghiêm chỉnh hay không?
thì hoạt động giám sát đóng vai trò hết sức quan trọng. Thông qua giám sát,
HĐND kịp thời phát hiện cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm pháp luật, Nghị quyết của HĐND…trên cơ sở đó có biện pháp xử lý kịp
thời, nghiêm minh. Đồng thời thông qua giám sát HĐND kịp thời điều chỉnh
Nghị quyết cho phù hợp với thực tiễn. Quá trình giám sát thuờng xuyên tình
hình thực hiện các Nghị quyết của HĐND giúp HĐND đôn đốc, kiểm tra qua đó
yêu cầu các chủ thể thực hiện đúng nội dung, yêu cầu đã được quy định trong
Nghị quyết.
1.1.2. Khái niệm giám sát:
a. Theo từ điển Tiếng Việt: “Giám sát là theo dõi ,kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không”.
Dưới góc độ ngôn ngữ thông thường “giám sát” được hiểu là: Việc theo
dõi, xem xét, kiểm tra của chủ thể có thẩm quyền đối với chủ thể khác đế qua đó

có được các nhận định về các chủ thể này. Tuy nhiên, Luật tổ chức Chính quyền
địa phương 2015 chưa đưa ra khái niệm giám sát.
Giám sát là một hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước mà HĐND là cơ
quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cho nên giám sát là chức năng của
HĐND. Trong bộ máy Nhà nước chỉ Quốc hội và HĐND có chức năng giám sát
việc thực hiện pháp luật. Chức năng giám sát của HĐND được cụ thể hoá qua
các hoạt động giám sát.
Mục đích của giám sát: Thông qua hoạt động giám sát HĐND kiểm tra,
đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, Luật và những văn bản của cơ quan Nhà
nước cấp trên ở địa phương, việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND nhằm
5


đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong phạm
vi địa phương, đảm bảo tính pháp chế Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của công dân.
b. Phân biệt hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân với hoạt động
kiểm tra, kiểm sát của một số cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội:
Hoạt động giám sát của HĐND là một nội dung của hoạt động quản lý Nhà
nước và xã hội. Đó là hoạt động không thể thiếu của cơ quan lãnh đạo đối với cơ
quan chịu sự lãnh đạo, của nguời lãnh đạo đối người chịu sự lãnh đạo.
Giám sát là hoạt động đặc thù của HĐND các cấp nhằm thể chế hoá chức
năng của HĐND. Giám sát không những đảm bảo tính thống nhất của quyền lực
Nhà nước, tính pháp chế Xã hội chủ nghĩa mà còn đẩy mạnh sự phát triển kinh
tế-xã hội ở địa phương.
Hoạt động giám sát của HĐND các cấp thực chất là hoạt động giám sát thể
hiện sự uỷ quyền của nhân dân cho Nhà nước, vì vậy nó vừa mang tính quyền lực
Nhà nước, vừa mang tính quyền lực nhân dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân.
Căn cứ để thực hiện quyền giám sát: Khi thực hiện quyền giám sát, HĐND
căn cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết

của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà
nước cấp trên, Nghị quyết của HĐND.
Đối tượng chịu sự giám sát của HĐND bao gồm: Các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân địa phương.
HĐND giám sát hoạt động thực tiễn và nội dung văn bản của các đối tượng chịu
sự giám sát.
Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân khi thực hiện quyền giám sát:
- Bãi nhiệm, miễn nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức
vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
- Khi phát hiện những văn bản của đối tượng chịu sự giám sát có dấu hiệu
trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên, Nghị
quyết của HĐND thì HĐND xem xét, quyết định việc bãi bỏ văn bản đó.
6


- Khi phát hiện có vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. HĐND có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời chấm dứt hành
vi vi phạm pháp luật, xem xét, đánh giá, xử lý vi phạm, khôi phục lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm.
* Hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân:
- Về căn cứ: Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân phải
căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát và các quy
định của pháp luật tố tụng có liên quan.
- Đối tượng chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đó là hoạt động
của các cơ quan tư pháp như: Cơ quan điều tra, cơ quan xét xử, cơ quan thi hành
án, cơ quan giam giữ và cải tạo.
- Thẩm quyền: Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát
có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm

trước pháp luật về các văn bản đó. Các quyết định, kháng nghị, yêu cầu, kiến
nghị của Viện kiểm sát phải được cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên
quan thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.
* Hoạt động kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên của mặt trận.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị và liên hiệp tự
nguyện các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân
tiêu biểu trong các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định
cư ở nước ngoài.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tiến hành trong
sự phối hợp với các cơ quan quyền lực Nhà nước, để tổng hợp ý kiến của nhân
dân và các tổ chức thành viên, kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
biểu dương, khen thưởng, xử lý những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp
luật.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tham
gia giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ
7


viên chức Nhà nước nhằm hỗ trợ công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra trong nội
bộ cơ quan Nhà nước. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là
giám sát mang tính nhân dân, không mang tính quyền lực Nhà nước, không có
thẩm quyền xử lý đối với các cơ quan Nhà nước hay người chịu trách nhiệm.
Tuy nhiên những kiến nghị của Mặt trận đối với nhiều vấn đề qua giám sát lại
rất có giá trị, “có sức nặng”. Đó chính là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xem
xét giải quyết vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, giám sát- xét đến cùng chính là việc xem xét, kiểm tra, theo dõi
việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội và công dân nhằm có được những nhận định xác đáng về những

việc làm được, những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động của các cơ quan này.
Từ đó có biện pháp để xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật trong cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và cá nhân nhằm khắc phục hậu
quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra. Thông qua hoạt động giám sát bảo đảm
cho pháp luật được thực hiện thống nhất, nâng cao pháp chế Xã hội chủ nghĩa,
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, chế độ xã hội.
c. Giám sát là một trong ba chức năng của Hội đồng nhân dân:
Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp được quy định cụ thể
trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Đây là một bước tiến mới
so với các văn bản pháp luật trước đó. Sự cụ thể hoá chức năng giám sát của
HĐND trong luật đã cho thấy trong tổ chức và hoạt động của HĐND hiện nay
thì giám sát đóng một vai trò quan trọng và không thể thiếu trong quá trình
HĐND thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Thực hiện tốt chức
năng giám sát góp phần bảo đảm cho đường lối chính sách của Đảng, Nghị
quyết của HĐND được triển khai nghiêm túc và có hiệu quả. Ngược lại nếu
chức năng giám sát không được chú trọng và thực hiện tốt sẽ dẫn đến hiện tượng
quan liêu, xa rời quần chúng, hiệu lực thực thi pháp luật không cao, xã hội khó
có tính ổn định.
8


Từ khi thành lập đến nay, Hội đồng nhân dân luôn được xác định là cơ
quan quyền lực Nhà nước ở địa phương mà giám sát việc tuân theo pháp luật là
hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Lênin khẳng định:
“Phải tập trung toàn bộ quyền lực chính trị vào tay cơ quan đại diện của
nhân dân”. Ở nước ta “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” . Do đó
hoạt động giám sát của HĐND các cấp thực chất là sự giám sát uỷ quyền của
nhân dân. Thông qua hoạt động giám sát của HĐND các cấp, vai trò chủ thể

quyền lực Nhà nước của nhân dân được đảm bảo thực hiện, từ đó hướng hoạt
động của các cơ quan Nhà nước vào việc phục vụ cho lợi ích của nhân dân.
Quốc hội (thông qua Hiến pháp) đã trao cho HĐND các cấp thẩm quyền
thay mặt cho nhân dân địa phương quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng
ở địa phương. Những quyết định của HĐND được thể hiện dưới hình thức văn
bản pháp luật đó là Nghị quyết. Nghị quyết của HĐND thể chế hoá đường lối,
chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phản ánh ý chí,
nguyện vọng của nhân dân địa phương.
HĐND có thẩm quyền ban hành Nghị quyết quyết định những vấn đề cơ
bản, quan trọng ở địa phương và giám sát việc thực hiện Nghị quyết đó. Đây
cũng là một nhiệm vụ quan trọng cuả HĐND thể hiện tính quyền lực Nhà nước.
Vì thế có thể nói quá trình thực hiện các chức năng của HĐND luôn có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Nghị quyết của HĐND muốn
được triển khai thực hiện có hiệu quả thì phải chú trọng đến hoạt động giám sát,
bởi lẽ chỉ có thông qua giám sát, HĐND mới có căn cứ để hoàn thiện Nghị
quyết của mình, kịp thời điều chỉnh những quy định trong Nghị quyết cho phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Ngược lại việc ban hành
Nghị quyết là cơ sở để HĐND các cấp tiến hành hoạt động giám sát của mình.
Thực tế cho thấy hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HĐND phụ thuộc rất nhiều
vào hoạt động giám sát của nó. Những yêu cầu, kiến nghị của HĐND đối với
các cơ quan Nhà nước nếu như không được bảo đảm thực hiện thì chức năng,
9


vai trò cơ quan quyền lực tuy được ghi nhận trong Hiến pháp cũng không có ý
nghĩa gì, thậm chí sẽ trở thành “Hữu danh vô thực”. Nếu Nghị quyết của HĐND
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương sẽ giúp cho việc
giám sát có hiệu quả, góp phần thúc đẩy hoạt động của HĐND các cấp, tạo điều
kiện cho HĐND các cấp hoàn thành tốt nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Như vậy, nhìn nhận một cách khách quan về chức năng giám sát của

HĐND có thể thấy đây là một chức năng quan trọng của HĐND, thể hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cơ quan chính
quyền địa phương, đảm bảo quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, góp
phần tất yếu vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1.1.3. Mục đích giám sát:
Hoạt động giám sát của HĐND nhằm đạt những mục đích sau:
- Phát hiện kịp thời hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng chịu sự giám
sát, qua đó đề ra biện pháp khắc phục, sửa chữa kịp thời.
- Kịp thời biểu dương cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt những nhiệm
vụ được giao.
- Bảo đảm Nghị quyết của HĐND được thực hiện tốt trên phạm vi địa
phương. Qua việc tiến hành giám sát, các kết luận, kiến nghị của Thường trực
HĐND, các Ban HĐND, đại biểu HĐND được UBND các cấp, các ngành tiếp
thu, chỉ đạo thực hiện theo đó những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực
hiện Nghị quyết của HĐND sẽ được khắc phục kịp thời.
- Bảo đảm pháp luật của Nhà nước được thực hiện thống nhất trong cả
nước.
- Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, chế độ xã hội. Bởi lẽ
giám sát góp phần làm cho chính quyền các cấp vững mạnh. Phát huy tiềm lực ở
địa phương. Phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu
cực, tham nhũng trong quản lý kinh tế, xã hội ở địa phương. Qua đó tạo điều
kiện cho địa phương phát triển về mọi mặt. Thể hiện tính dân chủ trong cơ chế
xây dựng chính quyền Nhà nước, làm cho chính quyền ngày càng vững mạnh.
10


1.2. Nội dung giám sát
1.2.1. Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của thường trực Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân

Đối với các cơ quan Nhà nước này, giám sát của HĐND được thực hiện
thông qua việc: Tại các kỳ họp HĐND, Thường trực Hội đồng nhân dân, các
Ban hội đồng nhân dân, UBND, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
phải báo cáo công tác trước HĐND. HĐND giám sát hoạt động của các cơ quan
này thông qua việc xem xét các báo cáo công tác tại kỳ họp. Thông qua việc
xem xét, thảo luận các báo cáo công tác, HĐND nắm bắt thông tin một cách đầy
đủ, toàn diện về hoạt động của các cơ quan này. Từ đó đánh giá chính xác,
khách quan kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước
theo quy định của Pháp luật và Nghị quyết của HĐND.
Khi xem xét các báo cáo công tác, HĐND phải tập trung làm sáng tỏ tính
chính xác và thực tiễn của các báo cáo công tác nhằm xác định đúng thực trạng
của tình hình được nêu ra, vấn đề cần tập trung giải quyết, kết quả đạt được cùng
những khó khăn, yếu kém. Đây là một phương thức giám sát quan trọng giúp
HĐND nhận thông tin chính thức từ phía cơ quan đó.
Chất vấn tại kỳ họp là một hình thức chất vấn trực tiếp, có hiệu quả cao.
HĐND xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân, các thành viên khác của UBND, thủ trưởng cơ quan chuyên
môn thuộc UBND, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân
dân cùng cấp. Thông qua chất vấn, HĐND xem xét trách nhiệm cá nhân của
những người được chất vấn.
1.2.2. Giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
Nghị quyết của HĐND ban hành nhằm triển khai thực hiện chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của cấp uỷ, phản ánh
ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Nghị quyết của HĐND có vai trò rất quan
trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Do đó giám
sát việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND là một nội dung không thể thiếu
trong hoạt động giám sát của HĐND các cấp nhằm tháo gỡ kịp thời những khó
11



khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Nghị quyết, đảm bảo cho
Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống.
Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện có những văn bản của UBND cùng
cấp, Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với văn bản của
cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND thì HĐND xem xét, quyết
định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
1.2.3. Giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương
Đây là quá trình HĐND xem xét việc áp dụng pháp luật trong tổ chức và
hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền giám sát. Vì
vậy phạm vi giám sát của HĐND trong lĩnh vực này rất rộng. Trên thực tế pháp
luật của Nhà nước, Nghị quyết của HĐND có đi vào cuộc sống, trở thành hiện
thực hay không không chỉ thông qua hoạt động ban hành các văn bản hướng
dẫn, thi hành bảo đảm đúng đắn, phù hợp, kịp thời mà còn phụ thuộc vào quá
trình tổ chức thực hiện có hợp hiến, hợp pháp hay không? Có hiệu quả hay
không? Do vậy giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở địa phương là một nội
dung giám sát của HĐND, nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật
trong hoạt động thực tiễn của các đối tượng này để từ đó nhanh chóng có biện
pháp ngăn chặn, đảm bảo cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống
nhất.
1.3. Hình thức thực hiện quyền giám sát
Hình thức thực hiện quyền giám sát là cách thức mà mỗi chủ thể giám sát
tổ chức hoạt động giám sát cuả mình. Mỗi chủ thể thực hiện quyền giám sát có
những hình thức giám sát khác nhau, thực hiện theo yêu cầu, trình tự, thủ thục
riêng. Hình thức thực hiện quyền giám sát của HĐND các cấp được quy định
trong chương III Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
năm 2015. Có bốn hình thức thực hiện quyền giám sát.
1.3.1.Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân:
12



Với vị trí là cơ quan thường trực, Thường trực Hội đồng nhân dân có nhiệm
vụ dự kiến chương trình giám sát của HĐND trình HĐND xem xét và quyết
định tại kỳ họp cuối năm. HĐND quyết định chương trình giám sát hàng năm
theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân,
đại biểu Hội đồng nhân dân, ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và kiến nghị của cử tri ở địa phương.
Hoạt động giám sát của HĐND là hình thức giám sát quan trọng nhất và
được tiến hành tại kỳ họp Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân giám sát thông
qua các hoạt động sau:
- Xem xét báo cáo công tác của thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân,Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân,
Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp,
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp
trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Thành lập đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết.
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
Chất vấn là quyền đặc biệt của đại biểu Hội đồng nhân dân. Quyền chất
vấn của Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể được tiến hành tại kỳ họp hoặc giữa
hai kỳ họp Hội đồng nhân dân. Nhưng chất vấn tại kỳ họp là chất vấn trực tiếp
cho nên có vai trò đặc biệt quan trọng. Tại kỳ họp, đại biểu Hội đồng nhân dân
ghi những nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi
đến Thường trực Hội đồng nhân dân để thường trực Hội đồng nhân dân chuyển

đến người bị chất vấn. Người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ nội dung
mà đại biều chất vấn và xác định trách nhiệm, biện pháp khắc phục. Nếu Đại
13


biểu Hội đồng nhân dân không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị
Hội đồng nhân dân tiếp tục thảo luận. Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về trả lời
chất vấn và trách nhiệm người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
Tại kỳ họp, HĐND xem xét các văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban
nhân dân cùng cấp, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp, nếu
có dấu hiệu trái với văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân thì Hội đồng nhân dân xem xét quyết định bãi bỏ văn bản đó
Căn cứ vào tình hình thực tiễn và theo yêu cầu nhiệm vụ giám sát, HĐND
thành lập đoàn giám sát để thực hiện nhiệm vụ giám sát do HĐND giao cho.
Để nâng cao hoạt động giám sát của HĐND trong giai đoạn hiện nay, Luật
tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 nêu rõ thẩm quyền của Hội đồng
nhân dân (trong lĩnh vực giám sát) trong việc quyết định bỏ phiếu tín nhiệm đối
với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
Khi thực hiện quyền giám sát, căn cứ vào kết quả giám sát, pháp luật quy
định Hội đồng nhân dân có thẩm quyền:
- Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban
nhân dân cùng cấp, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;
- Ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất
vấn khi xét thấy cần thiết;
- Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội
đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân
dân, Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp
luật.
Như vậy, hoạt động giám sát của HĐND tại kỳ họp là hình thức giám sát
quan trọng nhất, giám sát theo định kỳ. Nó mang tính chất tổng hợp, toàn diện

đối với tất cả các đối tượng thuộc phạm vi giám sát của HĐND. Mặt khác cũng
tại kỳ họp các báo cáo, đề án được trình HĐND xem xét thảo luận, qua đó tạo
điều kiện để HĐND nắm bắt được tình hình thực tế.
1.3. 2. Giám sát của thường trực Hội đồng nhân dân
14


Là hình thức giám sát mang tính thường xuyên của HĐND. Thường trực Hội
đồng

nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra và có ở ba cấp: tỉnh, huyện, xã.
Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND tập trung vào Ủy ban nhân

dân và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến
pháp, Luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và các Nghị quyết của
HĐND cùng cấp.
Căn cứ vào chương trình giám sát của HĐND, theo đề nghị của các Ban
của Hội đồng nhân dân, Đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng cấp và ý kiến, kiến nghị của cử tri địa phương. Thường trực Hội
đồng nhân dân quyết định chương trình giám sát hàng quý, hàng năm của mình
phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn và điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương.
Trên cơ sở chương trình giám sát đã được thông qua, Thường trực HĐND phân
công các thành viên của mình thực hiện các nội dung trong chương trình giám
sát, có thể giao cho các Ban của Hội đồng nhân dân thực hiện một số nội dung
theo chương trình và báo cáo kết quả với Thường trực khi cần thiết.
Pháp luật quy định Thường trực Hội đồng nhân dân có thể thành lập Đoàn
giám sát trong trường hợp cần thiết trên cơ sở căn cứ vào chương trình giám sát
của Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc theo yêu cầu của HĐND, đề nghị của

các Ban của Hội đồng nhân dân, Đại biểu Hội đồng nhân dân.
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ở địa phương, Thường
trực Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu
nại, tố cáo. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì Thưòng trực Hội
đồng nhân dân có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp cần thiết kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem
xét trách nhiệm, xử lý vi phạm.

15


Đối với kiến nghị, chất vấn cuả Đại biểu Hội đồng nhân dân, Thường trực
Hội đồng nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận để chuyển đến người bị chất vấn;
thông báo cho người bị chất vấn thời hạn và hình thức trả lời chất vấn.
Để tăng cường mối quan hệ giữa Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân cùng cấp trong việc thực hiện quyền giám sát, Thường trực Hội
đồng nhân dân có thẩm quyền trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành
viên UBND theo đề nghị của Uỷ ban mặt trận Tổ quốc và khi có ít nhất một
phần ba tổng số Đại biểu Hội đồng nhân dân yêu cầu.
Mối quan hệ giữa Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân
dân và Đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện quyền giám sát được
thể hiện ở nhiệm vụ của Thường trực Hội đồng nhân dân trong việc điều hoà,
phối hợp hoạt động giám sát của các cơ quan đó; tổng hợp kết quả giám sát trình
Hội đồng nhân dân xem xét, xử lý theo thẩm quyền. Thường trực Hội đồng nhân
dân có trách nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân về hoạt động giám sát của mình
giữa hai kỳ họp.
Hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân là hình thừc giám
sát thường xuyên góp phần tháo dỡ những khó khăn, vướng mắc cho cơ sở trong
việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của Hội đồng

nhân dân.
1.3.3. Hoạt động giám sát của các Ban của Hội đồng nhân:
Các Ban của Hội đồng nhân dân là sự tham gia của tập thể các Đại biểu
Hội đồng nhân dân vào việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Theo
quy định Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì các Ban của Hội
đồng nhân dân được thành lập ở HĐND cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã để giúp
HĐND trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Trong lĩnh vực
giám sát thì các Ban của Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ giúp Hội đồng nhân
dân giám sát đối với các đối tượng sau:
- Giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ
ban nhân dân, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
16


- Giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, Luật,
văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Hoạt động giám sát của các Ban Hội đồng nhân dân được thể hiện thông qua các
hình thức:
- Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc thường trực Hội
đồng nhân dân phân công.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp,
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới thực hiện trong trường hợp có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Trong trường hợp cần thiết, yêu cầu Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên
môn thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp
báo cáo về những vấn đề thuộc lĩnh lực Ban phụ trách.
- Tổ chức đoàn giám sát.
- Cử thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về

vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ban.
- Tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân.
Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ giám sát, các Ban sẽ giám sát được quá
trình xây dựng kế hoạch hoạt động của Ban, phân công việc cụ thể cho thành
viên, thẩm tra các báo cáo, đề án được phân công. Trên cơ sở đó HĐND và các
Đại biểu HĐND có thông tin nhiều chiều, chính xác về những vấn đề ở địa
phương, đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động chấp hành pháp luật ở địa
phương.
Trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định, các Ban của HĐND có
nhiệm vụ thường xuyên theo dõi việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
UBND cùng cấp, Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp. Khi phát hiện có vi
phạm pháp luật, có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
17


xét, sửa đổi, bổ sung, đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn
bản đó.
Căn cứ vào chương trình giám sát của các Ban hoặc qua giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, theo yêu cầu của HĐND hoặc thường trực
HĐND trong trường hợp cần thiết các Ban có thể thành lập các đoàn giám sát để
tiến hành giám sát khi phát hiện có vi phạm pháp luật. Đồng thời yêu cầu các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để chấm dứt hành
vi vi phạm, xử lý vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm. Nếu người có trách nhiệm không xem xét,
thực hiện yêu cầu của các Ban hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ, các
Ban có thể đưa vấn đề đó ra kỳ họp HĐND xem xét, giải quyết. Nếu người có
trách nhiệm đó là đối tượng chịu sự chất vấn của Đại biểu HĐND thì với tư cách
là Đại biểu HĐND, thành viên các Ban có quyền chất vấn. Vì vậy có thể coi đây
là hình thức thực hiện “Quyền chất vấn mang tính tập thể” gắn với chức năng

giám sát của các Ban HĐND.
Các Ban của HĐND là hình thức tổ chức tập hợp các Đại biểu cơ quan dân
cử ở địa phương có cùng chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm về lĩnh lực
nhất định, giúp HĐND thẩm tra các báo cáo, đề án trình tại kỳ họp HĐND, giúp
HĐND giám sát, kiểm tra thực tế liên quan đến lĩnh vực hoạt động được giao.
Hình thức giám sát của các Ban chuyên môn chủ yếu được thực hiện giữa hai kỳ
họp HĐND. Các Ban của HĐND không chỉ giám sát tính hợp pháp với những
văn bản, báo cáo, đề án mà còn tập trung vào việc tổ chức các đoàn giám sát
thực tế tại cơ sở, thực hiện giám sát theo chuyên đề.
Thông qua hoạt động giám sát của các Ban chuyên môn, giúp HĐND nắm
bắt được tình hình hoạt động của các cơ quan, tổ chức từ đó có biện pháp đôn
đốc, kiểm tra và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, văn bản trái với
pháp luật Nhà nước và Nghị quyết của HĐND.
1.3.4. Hoạt động giám sát của Đại biểu Hội đồng nhân dân, tổ đại biểu
Hội đồng nhân dân:
18


Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa
phương tham gia vào công tác quản lý Nhà nước tại địa phương. Hoạt động của
Đại biểu HĐND (trong đó có hoạt động giám sát) góp phần quan trọng vào việc
xây dựng và thực hiện các chủ trương, biện pháp của HĐND.
Theo quy định của Pháp luật hiện hành, hoạt động giám sát của Đại biểu
HĐND được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó chất vấn là
hình thức giám sát quan trọng nhất.
Giải thích thuật ngữ chất vấn, Từ điển Việt Nam ghi: “Chất vấn là câu hỏi
và yêu cầu phải giải thích rõ ràng” .
Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 chưa có sự giải thích thuật ngữ
chất vấn nhưng theo Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân
dân năm 2015 thì chất vấn là một hoạt động giám sát trong đó Đại biểu Quốc

nêu những vấn đề thuộc trách nhiệm của người trả lời chất vấn và yêu cầu những
người này phải trả lời. Như vậy chất vấn là quyền đặc biệt của Đại biểu Quốc
hội và Đại biểu HĐND. Giám sát thông qua chất vấn là quyền đặc biệt của Đại
biểu Hội đồng nhân dân, là biểu hiện của nền dân chủ.
Như vậy, đối tượng chịu sự chất vấn của Đại biểu Hội đồng nhân dân là
những người đứng đầu các cơ quan Nhà nước ở điạ phương. Quyền chất vấn của
Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể được tiến hành tại kỳ họp HĐND hoặc giữa
hai kỳ họp.
Tại kỳ họp HĐND, Đại biểu Hội dồng nhân dân gửi chất vấn đến Thường
trực Hội đồng nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND tại kỳ họp
đó. Trường hợp cần điều tra, xác minh thì HĐND có thể quyết định cho trả lời
tại kỳ họp sau hoặc trả lời bằng văn bản gửi đến Đại biểu đã chất vấn và Thường
trực Hội đồng nhân dân.
Giữa hai kỳ họp HĐND, chất vấn của Đại biểu Hội đồng nhân dân được
gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân để chuyển đến người bị chất vấn và
quyết định thời hạn trả lời chất vấn.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân, Đại biểu
Hội đồng nhân dân có nghĩa vụ tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của công
19


dân, nghiên cứu và kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết. Theo
dõi, đôn đốc việc giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo biết.
Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong hoạt động của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức, Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền Yêu cầu cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân kịp thời chấm
dứt những việc làm trái pháp luật, chính sách của Nhà nước trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị hoặc cán bộ, công chức, nhân viên cơ quan, tổ chức đơn vị đó.
Khi thực hiện quyền giám sát, pháp luật quy định Đại biểu Hội đồng nhân
dân có quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước về việc thi hành pháp luật, chính

sách của Nhà nước. Cơ quan hữu quan phải có trách nhiệm trả lời kiến nghị của
đại biểu. Đại biểu HĐND có quyền đề nghị HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do HĐND bầu.
Từ những phân tích trên cho thấy, hình thức giám sát của HĐND thông qua
các Đại biểu Hội và tổ đồng nhân dân là hình thức giám sát trực tiếp, thường
xuyên vì suy cho cùng hoạt động giám sát tại kỳ họp, thông qua Thường trực,
các Ban của Hội đồng nhân dân cũng chính là giám sát của các Đại biểu Hội
đồng nhân dân. Vì vậy để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND trong giai
đoạn hiện nay, phải đồng thời chú trọng nâng cao hiệu quả các hình thức giám
sát của HĐND, trong đó chú trọng hình thức giám sát của Đại biểu Hội đồng
nhân dân.

20


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TẠI XÃ X
2.1. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tai đơn vị
hành chính X.
Theo quy định hiện hành, HĐND xã X có hai chức năng cơ bản: quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát việc thực hiện các chủ
trương, chính sách trong phạm vi thẩm quyền được pháp luật quy định. Vai trò, vị
trí, chức năng, nhiệm vụ của HĐND trong hệ thống chính trị ở xã cũng quan trọng
như HĐND tỉnh và huyện - là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân địa phương. Tuy vậy, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, nhân
sự và biên chế chuyên trách ít hơn, phạm vi thẩm quyền giới hạn hơn. HĐND xã
X có 19 đại biểu, Thường trực HĐND xã có Chủ tịch và Phó chủ tịch, (chức danh
phó chủ tịch hội đồng hoạt động chuyên trách), thành lập 02 ban (ban Pháp chế và

ban Kinh tế), không có chuyên viên giúp việc. Mỗi năm HĐND xã tổ chức 2 kỳ
họp vào đầu và giữa năm. Giữa 2 kỳ họp, Thường trực đại diện HĐND xã X điều
hòa, phối hợp hoạt động cùng UBND, UBMT và các tổ chức chính trị, xã hội
cùng cấp để thực thi nhiệm vụ đã đề ra và chỉ đạo của cấp trên.
Nhìn chung, với chức năng, nhiệm vụ được giao, HĐND xã X trong nhiệm
kỳ đã tích cực tổ chức hoạt động: mỗi năm tổ chức 2 kỳ họp thường lệ, ban hành
các nghị quyết về nhiệm vụ phát triển KT-XH cả nhiệm kỳ và mỗi năm; nghị
quyết về thu chi ngân sách hàng năm để UBND cùng cấp triển khai thực hiện.
Ngoài ra, HĐND xã X còn xem xét thông qua các nghị quyết theo yêu cầu của
cấp trên như nghị quyết về quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; thay
đổi địa giới hành chính; sáp nhập địa giới hành chính thôn bản... để cấp có thẩm
quyền xem xét, phê chuẩn.
Các nghị quyết của HĐND xã X ban hành đều đúng pháp luật, đúng trình
tự thủ tục, sát tình hình thực tế, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả mang lại khá thiết
21


thực, KT-XH địa phương phát triển năm sau hơn năm trước, an ninh chính trị,
trật tự xã hội ổn định, thu nhập, đời sống nhân dân địa phương nâng lên...
Nếu dừng lại ở đây, với kết quả đạt được không thể đánh giá hoạt động của
HĐND xã X là hình thức, chất lượng, hiệu quả thấp.
Vậy thì tại sao có nhận định vẫn cho rằng chất lượng và hiệu quả hoạt động
của HĐND xã X chưa đáp ứng yêu cầu?
Vấn đề là ở chỗ: HĐND xã X mới thể hiện là cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương, quyết định những vấn đề quan trọng trong phạm vi thẩm quyền,
còn những vấn đề diễn ra trên địa bàn xã, ngoài phạm vi thẩm quyền quyết định
của mình thì HĐND xã X hầu như không thể hiện được vai trò của người đại
diện cho ý chí và quyền làm chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân
địa phương.
Chúng ta đều biết, mọi chủ trương, chính sách của nhà nước đều được tổ

chức thực hiện ở cấp cơ sở. Mỗi chính sách khi triển khai vào thực tế đều tác
động thuận hoặc nghịch đối với quyền lợi của người dân. Với nhóm người này
thì được lợi (nhiều hoặc ít), nhưng với nhóm người khác lại bị thiệt hại (nhiều
hoặc ít). Người được lợi hay bị thiệt đều cần có HĐND ở cấp trực tiếp nhận biết
một cách cụ thể để thực hiện vai trò của người đại diện để bảo vệ hoặc bênh vực.
Nhưng Hội đồng nhân dân xã X chưa làm hết vai trò và trách nhiệm của mình.
Trên địa bàn xã X cũng có tác động do thực hiện các chủ trương, chính
sách của Nhà nước về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp nông thôn gắn với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa... gắn liền với đó là việc triển khai hàng loạt công trình,
dự án xây dựng hệ thống giao thông nông thôn, thủy lợi, thủy điện...; Đồng thời,
còn triển khai chính sách thuộc các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói
giảm nghèo, tạo việc làm, chăm sóc sức khỏe, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục xóa
mù chữ, xây dựng nông thôn mới, xây dựng nếp văn minh, cứu trợ thiệt hại do
thiên tai, dịch bệnh. Chính sách nào của Nhà nước cũng nhằm mưu cầu lợi ích
cho xã hội và nhân dân nhưng trong thực tế, khi triển khai đều đụng chạm đến
lợi ích của một bộ phận, nhất là những người bị ảnh hưởng trực tiếp của việc thu
22


hồi đất, đền bù giải tỏa nhà cửa, tái định cư... bị ô nhiễm môi trường vì rác thải,
nước thải chưa qua xử lý.
Những vấn đề nêu trên HĐND xã X đều biết và ghi nhận qua các hội nghị
tiếp xúc cử tri định kỳ và qua đơn thư phản ánh, kiến nghị của dân nhưng việc
xử lý, giải quyết đa phần mới dừng lại ở báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của
cử tri. HĐND xã chưa thể hiện hết vai trò là chỗ dựa cho những người bị thiệt
hại . Như vậy HĐND xã X chưa thực hiện hết chức năng kiểm tra, giám sát theo
phản ánh của dân để có văn bản báo cáo lên cấp trên hoặc đưa vào chương trình
kỳ họp HĐND xã để xem xét, ban hành nghị quyết để bảo vệ, bênh vực lợi ích
chính đáng, hợp pháp của dân.
Qua thực tế cho thấy, HĐND xã X mới chỉ chú trọng và thực hiện được

chức năng quyết định các nội dung báo cáo, đề án về KT-XH, về thu chi ngân
sách... do UBND cùng cấp trình HĐND xem xét.
Về chức năng giám sát, tại kỳ họp, HĐND xã cũng yêu cầu đại biểu giám
sát tốt để quyết định đúng và trúng, nhưng cơ bản HĐND xã X chưa chú trọng
đúng mức việc thực hiện chức năng giám sát giữa hai kỳ họp, giám sát việc thực
thi chính sách của các tổ chức, cá nhân đang được giao nhiệm vụ triển khai trên
địa bàn. Do đó, tại kỳ họp chỉ có báo cáo của Thường trực HĐND có nội dung
giám sát, thẩm tra báo cáo của UBND cùng cấp, ngoài ra có rất ít báo cáo giám
sát chuyên đề. Tại kỳ họp, đại biểu chủ yếu nghe báo cáo, thường ít phát biểu ý
kiến tranh luận, phản biện, đề xuất sáng kiến mới, không khí kỳ họp thiếu sinh
động, sôi nổi, không đáp ứng yêu cầu quản trị về mọi mặt đời sống xã hội ở địa
phương.
Pháp luật hiện hành quy định đối tượng giám sát của HĐND cấp xã gồm
Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, các tổ
chức và cá nhân khác trong thực hiện nghị quyết HĐND cấp mình và các chính
sách, pháp luật của cấp trên ở địa phương. Nhưng với cơ chế, tổ chức biên chế
hiện nay, HĐND xã chỉ đủ điều kiện giám sát đối với các tổ chức và cá nhân
cùng cấp ở hai kỳ họp thường lệ, còn đối với các tổ chức và cá nhân ngoài phạm
vi đó đang hoạt động tại địa phương thì không thể làm được. Đại biểu thì kiêm
23


nhiệm, chuyên trách chỉ có một người, kinh phí, phương tiện làm việc lại hạn
chế, văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ... nên HĐND xã X muốn làm tốt chức năng
giám sát cũng rất khó.
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân xã X.
Thứ nhất, để đảm bảo hiệu lực giám sát tại HĐND xã X, hoạt động giám
sát phải đảm bảo chất lượng, tức là qua quá trình giám sát, chủ thể giám sát phải
đưa ra những kết luận chính xác, những kiến nghị phù hợp mà đối tượng giám

sát tâm phục, khẩu phục, tiếp thu để khắc phục, tổ chức thực hiện sau giám sát
nhằm thực hiện tốt vấn đề đang được giám sát. Như vậy nhiệm vụ nâng cao chất
lượng hoạt động giám sát của HĐND xã X là điều kiện tiên quyết bảo đảm hiệu
lực giám sát, tuy nhiên để đảm bảo hiệu lực giám sát cần có sự chấp hành
nghiêm túc của các đối tượng giám sát đối với các kết luận, đề xuất đúng đắn
của đối tượng giám sát rút ra từ hoạt động giám sát, đồng thời cần có các biện
pháp xử lý đối với các đối tượng giám sát không chấp hành nghiêm các kết luận,
đề xuất đó. Khi chất lượng và hiệu lực giám sát được đảm bảo thì hoạt đông
giám sát của HĐND xã X mới có hiệu quả. Như vậy giữa chất lượng giám sát,
hiệu lực giám sát và hiệu quả giám sát của HĐND xã X cần có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, giám sát của HĐND phải đảm bảo chất lượng thì mới đảm bảo
hiệu lực, có hiệu lực thì mới đảm bảo hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh việc đảm
bảo về mặt hiệu lực, khi đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát cần phải tính toán
những chi phí đầu tư cho hoạt động giám sát (như nhân lực, thời gian, vật
chất...) và những chi phí này cần phải ở mức tối ưu. Như vậy, hiệu quả giám sát
của HĐND xã X chính là hiệu lực thi hành các kiến nghị của hoạt động giám
sát, đem lại kết quả phù hợp với mục đích giám sát, với những chi phí hợp lý về
nhân lực, thời gian, vật chất ... cho hoạt động giám sát, góp phần tác động đến
đời sống kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh, công tác quản lý nhà nước ở xã
X. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 quy định “Giám
sát của Quốc hội, HĐND là hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước...Hiệu quả giám sát của HĐND được bảo đảm bằng hiệu quả giám sát tại
24


kỳ họp HĐND, giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại
biểu HĐND và các đại biểu HĐND. Có nhiều yếu tố có vai trò quan trọng đảm
bảo hiệu quả giám sát của HĐND xã X, trong đó trước tiên là sự quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát của HĐND. Điều 4 Hiến pháp
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã hiến định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực

lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo nhà nước bằng việc đề ra
chủ trương, chính sách, đường lối chính trị để nhà nước thể chế hóa thành pháp
luật. Hoạt động của HĐND xã X - cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương X
nói chung, hoạt động giám sát của HĐND xã X nói riêng đều được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng ủy xã X. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
là nguyên tắc chung của hoạt động quản lý nhà nước cũng như của hoạt động
của cơ quan dân cử, trong đó có hoạt động giám sát của HĐND xã X. Chính vì
vậy sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy xã X đối với hoạt động giám sát
của HĐND là yếu tố đầu tiên tác động đến hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND xã X.
Thứ hai, phải thực hiện nghiêm các quy định của Hiến pháp, pháp luật về
hoạt động giám sát của HĐND. Đây chính là cơ sở pháp lý cho HĐND xã X
thực hiện chức năng, thẩm quyền giám sát và là yếu tố quan trọng có tác động
rất lớn đến hiệu quả giám sát của HĐND xã X. Căn cứ vào các quy định về trách
nhiệm, quyền hạn, thủ tục, trình tự giám sát... được pháp luật quy định, từng chủ
thể giám sát của HĐND xã X mới thực hiện được chức năng giám sát của mình.
Nếu như Luật Tổ tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã cụ thể hơn về hoạt
động giám sát của HĐND so với các luật trước đó thì với Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội và HĐND, luật riêng về hoạt động giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước cho thấy càng quy định cụ thể, chi tiết về thẩm quyền, hình thức,
trình tự giám sát thì hoạt động giám sát của HĐND xã X càng có điều kiện để
đạt được hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, hoàn thiện cơ cấu, tổ chức bộ máy của HĐND xã X. Yếu tố này có
vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định kết quả hoạt động của HĐND, trong đó
25


×