Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

LUẬN ÁN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 174 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HỒNG HẠNH

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2018


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HỒNG HẠNH

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TƯỜNG DUY KIÊN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu


của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án
là trung thực có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án

Trần Thị Hồng Hạnh


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ

BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN
TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.1. Khái lược các công trình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án
1.2. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và
những vấn đề tiếp tục được nghiên cứu trong luận án
1.3. Giải thuyết và câu hỏi nghiên cứu
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
THÔNG TIN CÁ NHÂN

2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật về bảo vệ thông tin
cá nhân
2.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ
thông tin cá nhân
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ

thông tin cá nhân
2.4. Pháp luật quốc tế, pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về
bảo vệ thông tin cá nhân và những giá trị có thể tham khảo cho
Việt Nam
Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

7
7
23
25
28
28
49
56

59
74

3.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về bảo vệ
thông tin cá nhân ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử từ năm
1945 đến nay
74
3.2. Những thành tựu của pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt
Nam hiện nay và nguyên nhân
82
3.3. Hạn chế của pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam
hiện nay và nguyên nhân
107

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
126
BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM
4.1. Các quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở
Việt Nam
126
4.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở
Việt Nam
131
KẾT LUẬN
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
154


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANM

:

An ninh mạng

ATTTM

:

An toàn thông tin mạng


APEC

:

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

APPI

:

Luật Bảo vệ thông tin cá nhân Nhật Bản

APPS

:

Các nguyên tắc về quyền riêng tư của Úc

BLDS

:

Bộ luật dân sự

BLHS

:

Bộ luật hình sự


BLTTDS

:

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

CƯQT

:

Công ước quốc tế

CNTT

:

Công nghệ thông tin

DPA

:

Cơ quan bảo vệ Dữ liệu Thuỵ Điển


ĐƯQT

:

Điều ước quốc tế

FTC

:

Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ

GDPR

:

Bộ luật bảo vệ dữ liệu chung của châu Âu

OECD

:

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

PDA

:

Đạo luật Dữ liệu cá nhân Thuỵ Điển


PPC

:

Cơ quan bảo vệ Thông tin cá nhân Nhật Bản

QCD

:

Quyền công dân

QCN

:

Quyền con người

TTCN

:

Thông tin cá nhân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
''Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa'' vừa là

nhiệm vụ, vừa là mục tiêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong giai đoạn hiện
nay [34, tr.171]. Để bảo đảm Nhà nước pháp quyền thực sự của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân thì pháp luật cần bảo đảm thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng và
quyền lực của dân, bảo vệ quyền con người (QCN), quyền công dân (QCD) trong
thực tiễn. Do đó, hoàn thiện pháp luật (HTPL) bảo vệ thông tin cá nhân (TTCN) là
một nhiệm vụ quan trọng trong công tác lập pháp.
Về mặt thực tiễn, bảo vệ TTCN ngày càng trở nên cấp bách trước những nhu
cầu ngày càng cao về sự riêng tư, nhu cầu được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con người. Ngày nay, thông qua các phương tiện hiện đại như máy tính, điện
thoại thông minh, qua internet, mạng xã hội và nhiều ứng dụng khác, các TTCN của
con người có thể dễ dàng được thu thập, chia sẻ, sử dụng, quản lý như một tài sản
có giá trị đối với bản thân các chủ thể TTCN cũng như các doanh nghiệp, tổ chức,
cơ quan Nhà nước. Nhưng bên cạnh lợi ích mà những hoạt động đó mang lại, các
TTCN có thể bị khai thác vì những mục đích không đúng đắn, gây ảnh hưởng lớn
tới đời sống của mỗi cá nhân cũng như cộng đồng. Mặc dù an toàn thông tin và bảo
vệ TTCN được nhà nước coi trọng, song bảo vệ TTCN vẫn là vấn đề thực tiễn nóng
bỏng ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo An toàn Thông tin mạng 2015 cho biết: "Cuối
tháng 5/2015, khoảng 1.000 trang web của Việt Nam bị tấn công thay đổi giao diện
hoặc tải tệp tin trái phép, trong đó có 10 trang web của cơ quan nhà nước với tên
miền ".gov.vn". Trung tuần tháng 3/2015, hơn 50.000 tài khoản của người sử dụng
dịch vụ của một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông lớn bị công khai trên
một số trang mạng. Nhóm tin tặc với tên gọi DIE Group đã tiến hành khai thác lỗ
hổng của môđun tra cứu thông tin khách hàng trên một máy chủ cũ để tấn công và
lấy trộm thông tin. Trong năm, hệ thống thông tin của nhiều cơ quan, tổ chức và
doanh nghiệp bị tấn công mạng; lây nhiễm phần mềm độc hại, mạng botnet; tồn tại
các điểm yếu, lỗ hổng có nguy cơ mất an toàn thông tin cao" [22]. Cũng theo Báo
cáo An toàn thông tin mạng 2015, cho thấy ở Việt Nam đang tồn tại nguy cơ mất an
toàn, nguy cơ bị lừa đảo trên mạng xã hội; nguy cơ bị giả mạo tổ chức, cá nhân trên
mạng xã hội như giả mạo thư điện tử, giả mạo tài khoản mạng xã hội, mạo danh các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước để phát tán thông tin tuyên truyền chống phá



2

Đảng, Nhà nước; nguy cơ lây nhiễm phần mềm độc hại trên mạng xã hội. Liên
minh Viễn thông quốc tế (ITU) đã công bố Báo cáo Chỉ số an toàn thông tin mạng
toàn cầu (Global Cybersecurity Index - GCI) của Việt Nam năm 2014 là 76/193
quốc gia, đến năm 2017, Việt Nam xếp hạng 100/193 quốc gia. Việc bị tụt 24 bậc
về Chỉ số an toàn thông tin mạng đã thể hiện phần nào tình trạng mất an toàn thông
tin, trong đó có TTCN ở nước ta hiện nay.
Về mặt lý luận, pháp luật về bảo vệ TTCN ở Việt Nam hiện nay vẫn còn
nhiều khoảng trống, chưa thực sự đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn. Từ bản
Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp 2013, Nhà nước ta luôn ghi nhận việc
bảo vệ đời sống riêng tư. Hiến pháp 2013 đã mở rộng một cách toàn diện phạm vi
của quyền riêng tư, trong đó có bảo vệ TTCN tại Điều 21, 22. Thể chế hoá tinh thần
của Hiến pháp, các Bộ luật như: Bộ luật Dân sự (BLDS), Bộ luật Hình sự (BLHS),
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) và các văn
bản khác có liên quan đã bước đầu được sửa đổi, bổ sung. Đây là cơ sở quan trọng
cho việc xây dựng và HTPL về bảo vệ TTCN. Mặc dù vậy, các văn bản pháp luật
quy định về vấn đề này còn nhiều bất cập như: chưa quy định thống nhất khái niệm
về TTCN, chưa quy định đầy đủ các nguyên tắc bảo vệ TTCN, chưa quy định đầy
đủ giới hạn bảo vệ TTCN, chưa quy định chi tiết trình tự, thủ tục và cơ quan bảo vệ
TTCN một cách hiệu quả, nhiều hành vi liên quan tới việc bảo vệ TTCN chưa được
quy định trong pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong bảo vệ TTCN
vẫn chưa thực sự được quy định rõ ràng. Mặt khác, các quy định pháp luật về bảo
vệ TTCN còn nằm rải trong các luật chuyên ngành và nhiều văn bản dưới luật,
những nội dung quy định này còn chồng chéo, mâu thuẫn do sự hạn chế trong kỹ
thuật lập pháp, dẫn đến tình trạng khó khăn khi thực hiện pháp luật. Việt Nam là
thành viên của nhiều cam kết quốc tế và khu vực về QCN, trong đó có những cam
kết liên quan đến bảo vệ TTCN cần tiếp tục được nội luật hoá vào pháp luật quốc

gia. Việc thiếu những quy định của pháp luật trong việc bảo vệ TTCN sẽ làm giảm
tính hiệu quả của việc thúc đẩy, bảo vệ QCN trong thực tiễn ở Việt Nam.
Trước những vấn đề bức thiết về mặt lý luận và thực tiễn nêu trên, cho thấy
thấy viẹ c triển khai nghiên cứu các thực trạng, đề xuất quan điểm giải pháp hoàn
thiẹ n pháp luật về bảo vệ TTCN mang tính thời sự, cấp bách. Những quy định của
pháp luật một mặt phải bảo vệ TTCN của con người song mặt khác phải đáp ứng
được sự đòi hỏi của quản lý của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích công cộng, bảo đảm
an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội; phục vụ công cuộc xây dựng chính


3

phủ điện tử, phòng chống tham nhũng, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế của đất
nước, đặc biệt là trong sự phát triển của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay.
Trong thời gian qua, ở Việt Nam, mặc dù đã có một số công trình khoa học
nghiên cứu về TTCN, bảo vệ TTCN, song chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách toàn diện, có hệ thống và trực tiếp HTPL về bảo vệ TTCN. Chính vì vậy,
Nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài nghiên cứu Luận án với nội dung: "Hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay" với mong muốn
đóng góp một phần nhỏ cho việc giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, hướng tới mục tiêu bảo đảm và thúc đẩy QCN ở
Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Mục đích của Luận án là phân tích làm rõ cơ sở lý luận của việc HTPL về
bảo vệ TTCN, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ TTCN ở Việt Nam,
từ đó đề xuất và luận chứng những quan điểm, giải pháp HTPL về bảo vệ TTCN ở
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Một là, phân tích và đưa ra các khái niệm TTCN, bảo vệ TTCN, pháp luật về

bảo vệ TTCN, HTPL về bảo vệ TTCN; làm rõ những đặc điểm, vai trò và nội dung
của pháp luật về bảo vệ TTCN; nghiên cứu các tiêu chí để xác định mức độ hoàn
thiện của pháp luật; các yếu tố ảnh hưởng đến việc HTPL về bảo vệ TTCN ở Việt
Nam. Luận án nghiên cứu pháp luật về bảo vệ TTCN ở một số nước trên thế giới và
rút ra những giá trị có thể tham khảo đối với Việt Nam.
Hai là, nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật bảo vệ TTCN
trên co

sở đó chỉ ra đu ợc những u u điểm cần phát huy và những hạn chế cần

khắc phục và nguyên nhân của thực trạng này.
Ba là, xây dựng nhận thức chung về bảo vệ TTCN và đề xuất các quan điểm
và giải pháp HTPL về bảo vệ TTCN ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tu ợng nghiên cứu của luạ n án là những vấn đề lý luạ n và thực tiễn
của pháp luạ t về bảo vệ TTCN ở Viẹ t Nam hiẹ n nay dưới góc độ lý luận và
lịch sử về Nhà nước và pháp luật.


4

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Luận án nghiên cứu việc bảo vệ TTCN tại Việt Nam,
có sử dụng số liệu, tài liệu thực tế ở Việt Nam và số liệu, tài liệu nước ngoài để so
sánh, đối chiếu.
- Nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu việc bảo vệ những thông tin
thuộc về cá nhân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, không nghiên cứu các
thông tin riêng của tổ chức, bí mật quốc gia, bí mật nhà nước. Bảo vệ TTCN mà
luận án nghiên cứu chủ yếu trong pháp luật nội dung mà không nghiên cứu sâu pháp

luật tố tụng, chỉ để cập khái quát đến 3 văn bản pháp luật là Bộ luật Tố tụng Hình
sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng Hành chính.
- Thời gian nghiên cứu: Thời điểm nghiên cứu của luận án bắt đầu từ năm
1946 đến nay, tức là từ thời điểm có bản Hiến pháp đầu tiên cho đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và
pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực thi dân chủ, bảo đảm QCN, QCD.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của triết học Mác Lê- nin để nghiên cứu
các nội dung trong đề tài, chủ yếu là phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phân
tích và tổng hợp, lịch sử và lôgic. Bên cạnh đó, luận án sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể của các khoa học chuyên ngành như: phương pháp hệ thống,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp chuyên gia, toạ đàm.
Các phương pháp trên được vận dụng đồng bộ, có sự kết hợp và độc lập
tương đối. Các phu o ng pháp đu ợc sử dụng nhằm làm rõ nọ i dung co

bản

của đề tài, đảm bảo tính khoa học và logic giữa các vấn đề của đề tài trong các
chu o ng.
Do tính chất của từng chu o ng, từng phần nên trong mỗi chu o ng, mỗi
nọ i dung nghiên cứu của đề tài sẽ sử dụng mọ t trong các phu o ng pháp trên
làm chủ đạo.
Phu o ng pháp phân tích tài liẹ u cũng được sử dụng triệt để trong


5


Chương 1 để phân tích cả tài liẹ u so

cấp và tài liẹ u thứ cấp. Tài liẹ u so

cấp

bao gồm các va n bản pháp luạ t và Va n kiẹ n của Đảng có liên quan, các vụ
viẹ c, các số liẹ u thống kê chính thức của co

quan nhà nu ớc có thẩm quyền.

Tài liẹ u thứ cấp bao gồm đề tài nghiên cứu, sách, các bài báo, tạp chí, kết luạ n
phân tích đã đu ợc các tác giả trong nước và nước ngoài thực hiện thực hiẹ n.
Phu o ng pháp phân tích tổng hợp đu ợc sử dụng trong Chương 2, 3 và 4
để tổng hợp các số liẹ u, tri thức nhằm mục đích để làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá
thực trạng, đu a ra những luạ n giải, nhạ n xét và đề xuất về quan điểm giải pháp
của HTPL về bảo vệ TTCN ở Việt Nam hiện nay.
Phu o ng pháp luạ t học so sánh được sử dụng trong Chương 1 để làm rõ
tình hình nghiên cứu, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Phương pháp
này tiếp tục được tác giả sử dụng ở Chương 2 để so sánh pháp luật về bảo vệ TTCN
của một số nước trên thế giới từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm có thể áp dụng
được cho Việt Nam.
Phương pháp lịch sử áp dụng trong Chương 3 để tái hiện lại sự quá trình
phát triển của hệ thống pháp luật một cách trung thực.
Phương pháp logic cũng được sử dụng trong Chương 3 để nhận rõ sự phát
triển và nguyên nhân của sự phát triển của pháp luật trong lĩnh vực này.
Phu o ng pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm được sử dụng trong
Chương 2, 3 và 4. Trong quá trình thực hiẹ n luạ n án, tác giả dựa trên cơ sở lý
luận để phân tích các vấn đề thực tiễn về bảo vệ TTCN ở Viẹ t Nam hiẹ n nay, từ

đó rút ra những vấn đề lý luận mới.
Phương pháp chuyên gia, toạ đàm để thu thập ý kiến và đưa ra các nhận định
kết luận, đề xuất của luận án. Đề tài luận án gần đây thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu, một số hội thảo khoa học đã được tổ chức. Nghiên cứu sinh đã tích
cực tham gia và thảo luận tại các cuộc hội thảo, tọa đàm khoa học về vấn đề này để
được trao đổi quan điểm, thu thập thông tin liên quan đến đề tài luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Đây là công trình khoa học nghiên cứu vấn đề pháp luật về bảo vệ TTCN ở
Việt Nam một cách toàn diện và có hệ thống. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có
một số đóng góp mới về mặt khoa học như sau:


6

Thứ nhất, công trình nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận về
pháp luật về bảo vệ TTCN ở Việt Nam, luận án đã xây dựng khái niệm khoa học về
TTCN, bảo vệ TTCN, pháp luật về bảo vệ TTCN, HTPL về bảo vệ TTCN ở Việt
Nam và phân tích nội hàm các khái niệm này.
Thứ hai, luận án chỉ ra và phân tích những đặc điểm, nội dung, vai trò, tiêu
chí và các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ TTCN. Luận
án khái quát hóa một số quy định pháp luật mang tính điển hình của quốc tế và một
số quốc gia, đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam.
Thứ ba, luận án đánh giá tổng quát thực trạng các quy định pháp luật ở Việt
Nam hiện nay về bảo vệ TTCN, nêu lên những thành tựu cũng như phát hiện và chỉ
ra những bất cập còn tồn tại, chưa tương thích trong những quy định của pháp luật
về bảo vệ TTCN và chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng.
Thứ tư, luận án đã xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp mang
tính toàn diện HTPL về bảo vệ TTCN, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực
thi pháp luật về bảo vệ TTCN, bảo đảm quyền riêng tư của con người. Những giải
pháp này có tính mới, có cơ sở khoa học, góp phần giải quyết những bất cập trong

thực tiễn về bảo vệ TTCN ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Luận án góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận của pháp luật
về bảo vệ TTCN. Những nghiên cứu, đề xuất của luận án góp phần vào việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ TTCN cũng như cơ chế bảo đảm thực thi
pháp luật về bảo vệ TTCN ở Việt Nam.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo có giá trị trong công tác
nghiên cứu lập pháp cũng như thực tiễn thi hành pháp luật về về bảo vệ TTCN ở
Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được sử dụng làm tài
liệu nghiên cứu, giảng dạy tại những cơ sở đào tạo pháp luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận
án gồm có 4 chương, 12 tiết.


7


8

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
THÔNG TIN CÁ NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. KHÁI LƯỢC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Bảo vệ TTCN từ góc độ của quyền riêng tư, đã được quan tâm và đề cập đến

trong một số công trình nghiên cứu ở nước ta, tuy nhiên còn khá hạn chế. Bên cạnh
một số ít các luận án, luận văn, sách, thì các công trình chủ yếu trong lĩnh vực này
là các bài báo, tạp chí mà chưa có đề tài khoa học tầm cỡ nào quan tâm nghiên cứu.
1.1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu bảo vệ thông tin cá nhân
Luận văn Thạc sĩ của Vũ Anh Tuấn, Bảo mật và an toàn thông tin trong
thương mại điện tử [105], là một nghiên cứu chuyên ngành công nghệ thông tin
(CNTT). Tác giả đã khẳng định thương mại điện tử, nhất là đối với các giao dịch
mang tính nhạy cảm cần phải có những cơ chế đảm bảo bảo mật và an toàn. Thành
công của luận văn chính là việc có thể áp dụng các kết quả nghiên cứu để xây dựng
các kỹ thuật bảo mật và an toàn trong thương mại điện tử với một số tính năng cơ
bản như: hệ thống chứng thực, các cơ chế phân bố khoá tự động, mã hoá các thông
tin, kỹ thuật ngăn ngừa các rủi ro trong thương mại điện tử. Đây là một gợi ý cho
nghiên cứu sinh về phương thức bảo vệ TTCN dựa trên công nghệ.
Bài nghiên cứu của Bùi Thanh Liêm, ''Bảo vệ TTCN trên mạng: Vấn đề không
thể xem nhẹ'' [49, tr.20-21, 27]. Trong bài viết này tác giả đã chỉ rõ thực trạng người
dùng còn xem nhẹ việc bảo vệ TTCN trên mạng. Tác giả nêu lên qua việc khảo sát các
trang mạng xã hội như Facebook, Voutube, Twitter, Zing Me, Tamtay.vn, website
thương mại điện tử hay các trang rao vặt... và các trang blog cá nhân thì người dùng sẽ
dễ dàng để lộ các TTCN. Theo tác giả: thói quen và sự vô tư của người sử dụng có thể
khiến họ dễ dàng bị vi phạm về TTCN. Tác giả cũng đã chỉ ra các cơ sở pháp lý để bảo
vệ người tiêu dùng trên mạng qua việc phân tích các văn bản pháp luật và chỉ ra một số
"mẹo" để người dùng có thể tự bảo vệ TTCN của mình một cách an toàn.
Bài nghiên cứu của Hà Nguyên, ''Quyền riêng tư và được bảo mật thông tin
của bệnh nhân'' [53]. Bài viết khẳng định nếu bệnh nhân không được đảm bảo
những quyền đó thì họ sẽ e ngại thông báo cho thầy thuốc những thông tin có tính
riêng tư mà lại có giá trị chẩn đoán và chữa trị cho bệnh nhân. Khi nền Y học phát


9


triển, những loại bệnh xã hội, như bệnh lây nhiễm qua đường sinh hoạt tình dục,
mang trong đó cả đạo đức, nhân phẩm của bệnh nhân trong quan hệ xã hội; các loại
bệnh tâm thần, tâm lý, các căng thẳng từ mối quan hệ trong gia đình cộng đồng thì
thông tin càng mang đặc tính riêng tư cao. Trong thời đại CNTT đa truyền thông
tiến như vũ bão hiện nay, việc rò rỉ thông tin có tính cách riêng tư càng trở nên có
nguy cơ cao hơn bao giờ hết, tính riêng tư và bảo mật của bệnh nhân cũng nằm
trong mối nguy cơ đó. Tác giả cũng chỉ ra một số trường hợp ngoại lệ bác sĩ,
chuyên viên quản lý hồ sơ bệnh lý có thể cung cấp thông tin mà không cần giấy uỷ
quyền của đương sự. Bài viết này gợi mở cho luận án của nghiên cứu sinh về bảo vệ
TTCN của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội.
Bài nghiên cứu ''Các cơ hội kinh doanh trong nền kinh tế TTCN'' [56, tr.3334]. Đây là một bài viết được dịch từ tiếng nước ngoài và có sự đánh giá, nhận định
về các cơ hội kinh doanh trong nền kinh tế TTCN toàn cầu. Bài viết đưa ra khái
niệm: TTCN bao gồm các loại thông tin và dữ liệu khác nhau như nhận dạng số, các
mối quan hệ, sở thích, hành vi, sức khoẻ, dữ liệu tài chính cũng như các dữ liệu do
các tổ chức công cộng lưu giữ đồng thời gợi mở nhiều cơ hội kinh doanh liên quan
đến TTCN. Trước những cơ hội kinh doanh liên quan đến TTCN, đòi hỏi các chủ
thể kinh doanh phải xây dựng các dịch vụ và các nhu cầu kinh doanh dựa trên 3
thành phần chính: sự cho phép, minh bạch và chia sẻ giá trị. Bài viết đã mang đến
một cách nhìn nhận mới về TTCN, đó là nó có thể trở thành một sản phẩm thương
mại và đem lại lợi ích cho con người trong thời đại ngày nay, nếu chúng ta đảm bảo
được sự tôn trọng và không vi phạm các TTCN.
Bài nghiên cứu của Cao Xuân Quảng, "Bảo vệ TTCN trong các giao dịch
tiêu dùng" [59, tr.26-28]. Tác giả đã nêu: TTCN trong thời đại kỹ thuật số bao gồm
nhiều trường thông tin, trong đó đặc biệt quan trọng là các thông tin liên quan đến
tài chính, đến số định danh hoặc các TTCN khác. Những thiệt hại phát sinh từ việc
TTCN bị đánh cắp có quy mô rất lớn và ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều bên trong nền
kinh tế". Tác giả cũng khẳng định rõ việc đánh mất TTCN là mất tất cả, vì mất
TTCN, nguy cơ với người tiêu dùng là thiệt hại trực tiếp về tài chính. Bên cạnh đó,
người tiêu dùng còn đứng trước nguy cơ bị tấn công từ những khía cạnh khác như:
lừa đảo, giả mạo, bôi nhọ, xúc phạm… Với những nguy cơ này, trong nhiều trường

hợp những thiệt hại sẽ là rất lớn về tài chính thậm chí không thể đo lường được
bằng tiền. Trong bài viết tác giả cũng nêu rõ trách nhiệm của người tiêu dùng trong
việc bảo vệ TTCN.


10

Bài nghiên cứu của Lê Thị Nhã, ''Bảo vệ quyền riêng tư nhìn từ trách nhiệm
truyền thông'' [54, tr.15-17]. Trong bài viết này tác giả đi sâu vào tìm hiểu quyền
riêng tư và việc bảo vệ quyền riêng tư qua những văn bản pháp luật hiện hành. Theo
tác giả quyền riêng tư, bảo vệ bí mật đời tư được các nhà chuyên môn và dư luận xã
hội đề cập đến khá nhiều trong thời gian gần đây. Quyền bất khả xâm phạm về đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình liệu có được bảo đảm trước sự phát
triển của CNTT và mạng xã hội? Đâu là ranh giới của báo chí với thông tin riêng tư?
Bài viết đặc biệt đi sâu phân tích một số biểu hiện vi phạm quyền riêng tư trên các
phương tiện truyền thông hiện nay. Tác giả cũng nêu lên những vấn đề gặp phải trong
việc bảo vệ quyền riêng tư hiện nay khi truyền thông đưa tin, đó là: luật pháp chưa có
hướng dẫn cụ thể về quyền riêng tư, bí mật đời tư; ý thức, trách nhiệm, đạo đức của
những người làm báo chí truyền thông khi thông tin về những vấn đề riêng tư.
1.1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân
Đề tài cấp Bộ của Nguyễn Thị Hạnh, Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bí
mật dữ liệu cá nhân [43]. Đây là một nghiên cứu khá toàn diện đầu tiên ở nước ta
về cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bí mật dữ liệu cá nhân (DLCN). Trong đề tài
này, các tác giả đã nêu lên cơ sở lý luận về cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bí mật
DLCN trong đó các tác giả đã nêu cụ thể về lịch sử hình thành quyền bí mật DLCN,
khái niệm quyền bí mật DLCN, cũng như tầm quan trọng, đặc điểm, nội dung, mối
quan hệ của quyền này và các quyền khác. Công trình nghiên cứu này cũng đã phân
tích thực trạng của cơ chế thực hiện quyền bí mật DLCN ở Việt Nam và đưa ra các
giải pháp và kiến nghị đề xuất ban hành Luật bảo vệ DLCN. Ưu điểm của đề tài là
nghiên cứu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bí mật DLCN ở Việt Nam có so sánh,

đối chiếu và học tập kinh nghiệm từ các quốc gia và khu vực tiến bộ trên thế giới
trong lĩnh vực này.
Cuốn sách Quyền tiếp cận thông tin và quyền riêng tư ở Việt Nam và một số
quốc gia của Thái Thị Tuyết Dung [25]. Cuốn sách đã đưa ra khái niệm quyền riêng
tư và nội dung của nó, đồng thời cũng nêu lên lịch sử hình thành của khái niệm này.
Tác giả đã đưa ra nhiều quan điểm về quyền riêng tư và đã khẳng định khái niệm
này đã ra đời và phát triển từ trước khi nó chính thức được công nhận là một quyền
cơ bản trong các ĐƯQT. Điểm nổi bật của cuốn sách là đã kể ra các văn bản quốc tế
và các mô hình bảo vệ quyền riêng tư trên thế giới. Tác giả cũng đưa ra nhận xét
rằng: cho đến nay ở Việt Nam quyền riêng tư của công dân vẫn là một chế định luật
tương đối non trẻ và đang trong quá trình bổ sung, hoàn thiện. Tác giả cũng đề cập


11

đến quyền riêng tư trong mối quan hệ với quyền tiếp cận thông tin, cơ chế bảo mật
trên internet... Cuốn sách đã mang đến những nội dung cơ bản về mặt lý luận, bước
đầu đặt ra những nội dung cơ bản cho việc nghiên cứu vấn đề bảo vệ TTCN.
Luận án của Lê Đình Nghị, Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật
Dân sự Việt Nam [51]. Tác giả đã khái quát quá trình phát triển trong quy định của
pháp luật Việt Nam về quyền bí mật đời tư. Tác giả phân tích các khái niệm cụ thể
như bí mật, đời tư, bí mật đời tư, quyền bí mật đời tư. Luận án đã phân tích so sánh
dựa trên cơ sở đối chiếu với pháp luật của một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra
giải pháp HTPL quyền bí mật đời tư trong hệ thống các quyền nhân thân ở Việt
Nam. Công trình này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu sâu về quyền bảo vệ bí mật đời
tư trong một ngành luật đó là luật Dân sự.
Luận văn của Võ Tuấn Anh, Bí mật đời tư, lý luận và thực tiễn [3]. Với kết
quả nghiên cứu của Luận văn, tác giả đã góp phần giúp hiểu rõ hơn thế nào là bí
mật đời tư, mức độ bảo vệ bí mật đời tư của nhà nước đối với cá nhân, tổ chức đến
đâu để tránh tình trạng TTCN bị phơi bày cũng như tránh xúc phạm đến bí mật đời

tư của người khác. Luận văn phân tích những qui định cụ thể của pháp luật, tìm hiểu
về vấn đề QCN, chính sách của Đảng trong việc bảo vệ quyền nhân thân, quyền bí
mật đời tư. Tác giả cũng cho rằng, tuy là vấn đề cấp thiết của xã hội, và đã được ghi
nhận ở nhiều văn bản luật về quyền bí mật đời tư nhưng khái niệm chính xác thế
nào là bí mật đời tư vẫn còn bỏ ngỏ, gây khó khăn khi các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến bí
mật đời tư.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Huyền Trang, Quyền được bảo vệ đời tư
trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam [101]. Theo tác giả, quyền được bảo
vệ đời tư (hay quyền về đời tư, quyền riêng tư - the right to privacy) là một QCN cơ
bản đã được quy định trong nhiều văn kiện pháp lý của Liên hợp quốc, của các khu
vực. Tác giả cũng nêu lên thực tiễn xâm phạm đời tư cá nhân đang là vấn đề nhức
nhối, có tính phổ biến ở Việt Nam, gây ra những tác động tiêu cực đến trật tự, an
toàn xã hội. Trong khi đó, quy định hiện hành về quyền được bảo vệ đời tư ở Việt
Nam còn nhiều hạn chế và bất cập, thiếu tính dự báo, bị lạc hậu so với sự phát triển
của đời sống xã hội, các quy định có nhiều điểm không tương thích, phần nhiều mới
chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc, có rất ít các quy định cụ thể điều chỉnh quan hệ
pháp luật này. Theo tác giả, để khắc phục tình trạng này, nhà nước cần ban hành,
sửa đổi, bổ sung quy định về quyền được bảo vệ đời tư trong các văn bản pháp luật


12

hiện hành đảm bảo hợp hiến, hợp pháp, khả thi và thống nhất với các văn kiện quốc
tế có liên quan; cần tiến hành rà soát một cách chi tiết và có hệ thống các văn bản
trong hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về bảo vệ quyền riêng tư.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Việt Hà, Pháp luật Việt Nam với việc bảo vệ
TTCN của người tiêu dùng trong thương mại điện tử [39]. Theo tác giả, TTCN cũng
ngày càng trở thành một vấn đề nóng vì chúng có thể thể được truyền lan nhanh
chóng trên mạng, hệ thống thông tin tạo nền tảng cho hầu hết các hoạt động chính

trị, kinh tế, xã hội. Luận văn nêu một số vấn đề lý luận của pháp luạ t về bảo vệ
TTCN của ngu ời tiêu dùng trong thu o ng mại điẹ n tử như khái niệm TTCN,
khái niệm bảo vệ TTC của người tiêu dùng. Thông qua việc tìm hiểu thực trạng
pháp luạ t Viẹ t Nam về bảo vẹ

TTCN của người tiêu dùng trong thu o ng

mại điẹ n tử tác giả cho rằng quyền này hiẹ n nay đang bị xâm phạm nghiêm
trọng mà nguyên nhân là từ phía các tổ chức, cá nhân kinh doanh, sự buông lỏng,
chu a sát sao của các co

quan quản lý nhà nu ớc, nhu ng nguyên nhân chủ yếu

là do không phải người tiêu dùng nào cũng hiểu rõ về quyền đu ợc bảo vệ TTCN
của mình. Từ đó, tác giả đề ra một số giải pháp hoàn thiẹ n pháp luạ t và nâng
cao hiẹ u quả thực thi pháp luạ t về bảo vẹ

TTCN của ngu ời tiêu dùng trong

thu o ng mại điẹ n tử ở Viẹ t Nam.
Bài nghiên cứu của Trần Văn Biên, ''Pháp luật về vấn đề bảo vệ TTCN trên
mạng internet'' [10, tr.45-51]. Tác giả đã chỉ rõ nguy cơ TTCN bị xâm phạm trên
môi trường mạng với các hành vi vi phạm phổ biến khác nhau. Trong giao dịch điện
tử, sự e ngại lớn nhất là bị mất các thông tin liên quan đến tài khoản cá nhân hoặc
các thông tin về giao dịch sử dụng thẻ trong quá trình diễn ra giao dịch. Đặc biệt tác
giả còn lưu ý đến việc phát tán TTCN về bí mật đời tư. Với tính chất là một bài viết
chuyên ngành luật học, tác giả đã có thành công lớn trong việc hệ thống lại các quy
định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ TTCN trên môi trường internet và chỉ ra cần
phải thực hiện tốt pháp luật để bảo đảm các giao dịch điện tử diễn ra.
Bài nghiên cứu của Nguyễn Huy Dũng, ''Pháp luật của Việt Nam và các

nước trên thế giới về bảo vệ TTCN'' [27, tr.24-29]. Thành công lớn nhất của bài viết
là đã đưa ra tổng quan các văn bản pháp lý hiện hành của Việt Nam. Tác giả đã
khẳng định "Bảo vệ TTCN" là một trong những quyền cơ bản của con người. Tác giả
đã khái quát hoá nội dung bảo vệ TTCN của pháp luật Việt Nam trong các lĩnh vực cụ
thể như dân sự, bảo vệ người tiêu dùng, giao dịch điện tử, viễn thông, CNTT. Trong
nội dung kinh nghiệm nước ngoài, tác giả đã điểm đến khá nhiều quốc gia nổi bật như:


13

Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Hồng Kông, Malaysia, Nhật Bản, Trung Quốc… Trong
bài viết này, tác giả còn bàn luận về những khái niệm cơ bản liên quan đến lĩnh vực
bảo vệ TTCN như: riêng tư, bảo mật, thông tin và DLCN.
Bài nghiên cứu của Nguyễn Thị Tứ, Đinh Quang Ngọc, Võ Nguyên An:
''Thực trạng hành vi xâm phạm bí mật đời tư người khác của người trưởng thành trẻ
tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh'' [106, tr.33-36]. Đây là một bài viết có tính khảo
sát, đánh giá cao thông qua các phương pháp xã hội học. Bài viết đề cập đến thực
trạng các hành vi xâm phạm bí mật đời tư người khác của người trưởng thành trẻ
tuổi trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua kết quả khảo sát, các tác giả đã
khẳng định người thành niên trẻ tuổi cần nâng cao hơn nữa ý thức về bí mật đời tư,
giáo dục và tự giáo dục thái độ, nhu cầu, động cơ đúng đắn, rèn luyện thói quen
không xâm phạm bí mật đời tư người khác đồng thời pháp luật cần có những quy
định và chế tài cụ thể đối với lĩnh vực này. Qua nghiên cứu này, tác giả luận án có
thêm một góc nhìn mới về hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ TTCN từ góc độ
thực tiễn của đời sống xã hội.
Bài nghiên cứu của Đinh Tiến Dũng, ''Quyền riêng tư trong Hiến pháp 2013
và các biện pháp bảo đảm bằng pháp luật'' [28, tr.23-25]. Tác giả đã đưa ra lịch sử
pháp luật về quyền riêng tư từ năm 1945 đến nay, phân tích sự phát triển trong quy
định của Hiến pháp 2013 và trong những văn bản pháp luật cụ thể như Luật Báo
chí, BLDS, Luật Bưu chính, Luật CNTT. Điểm nổi bật của bài viết đồng thời là

những gợi ý quan trọng cho Luận án của nghiên cứu sinh, đó là đã chỉ ra một số hạn
chế về pháp luật và thực tiễn trong bảo vệ quyền riêng tư và đề xuất các biện pháp
bảo đảm quyền riêng tư như: hoàn chỉnh và cụ thể hoá hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về QCN, QCD, trong đó có quyền riêng tư; phải tiếp tục hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả của các kênh thông tin, thường xuyên nghiên cứu đổi mới hình
thức, nội dung, phương pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật để người
dân hiểu được quyền của mình; Nhà nước cần có cơ chế cho các cơ quan tổ chức, cá
nhân tham gia vào môi trường thông tin mở nhưng vẫn phải bảo đảm nguyên tắc bí
mật đời tư của công dân.
Bài nghiên cứu của Đinh Thị Lan Anh, ''Bảo vệ TTCN trong thương mại
điện tử theo pháp luật Việt Nam'' [2, tr.29-33]. Trong bài viết này tác giả cho rằng
TTCN đã và đang trở thành thứ hàng hoá mang lại giá trị lợi nhuận cho doanh
nghiệp, vì vậy TTCN có thể bị mất an toàn dưới nhiều hình thức tấn công mạng và
cũng sẵn sàng có các doanh nghiệp vì lợi nhuận mà tiết lộ thông tin của khách hàng.


14

Tác giả cũng phân tích một cách khá đầy đủ và chi tiết các văn bản pháp luật có liên
quan đến việc bảo vệ TTCN trong Thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam và chỉ
rõ điểm còn hạn chế bất cập trong pháp luật về bảo vệ TTCN trong thương mại điện tử.
Sự gợi ý của tác giả về những giải pháp để bảo đảm tốt hơn việc bảo vệ TTCN trong
thương mại điện tử cũng là một hướng tiếp tục có thể nghiên cứu trong Luận án.
Bài nghiên cứu của Lê Văn Sua, "Quyền bí mật đời tư theo quy định của
pháp luật dân sự: Cần được hướng dẫn" [89]. Tác giả nhận định cho đến nay, pháp
luật nước ta vẫn chưa có quy định rõ ràng về "bí mật đời tư" là gì, phạm vi của "bí
mật đời tư" như thế nào, mà chỉ có một số quy định về vấn đề này trong Hiến pháp
2013; BLDS 2005, Luật Giao dịch điện tử 2005, BLHS 1999. Trong bài viết tác giả
đã phân tích một số vụ án tiêu biểu liên quan đến quyền bí mật đời tư và đưa ra một
số giải pháp để giải quyết những khó khăn, bất cập trong việc thực hiện pháp luật dân

dự liên quan đến lĩnh vực này. Tác giả cũng nêu lên phạm vi những thông tin thuộc
về "bí mật đời tư" của mỗi cá nhân: có phải mọi thông tin thuộc về cá nhân mà cá
nhân muốn giữ bí mật sẽ trở thành "bí mật đời tư" và được pháp luật bảo vệ. Theo tác
giả cần linh động trong việc xác định thông tin nào được cho là "bí mật đời tư".
Bài nghiên cứu của Hồng Phương, ''Quy định pháp luật về việc bảo vệ
TTCN'' [58, tr.33-35]. Tác giả nhận định, thông tin trên mạng giờ đây là tài sản có
giá trị đặc biệt của mỗi cá nhân, tổ chức và thậm chí cả quốc gia. Tác giả khẳng
định, thông tin riêng của tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ. Tác giả cho rằng,
Hiến pháp, BLDS, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) và nhiều
văn bản pháp luật chuyên ngành như các luật về viễn thông, CNTT, giao dịch điện
tử đều đã có quy định về quyền cơ bản của công dân và bảo vệ TTCN. Tác giả đánh
giá cao vai trò của Luật ATTTM, khi kết hợp cùng BLDS, Luật BVQLNTD và các
văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật Viễn thông, Luật Giao dịch điện
tử… sẽ tạo thành hệ thống pháp luật đồng bộ, đầy đủ cho công tác bảo vệ TTCN
của người sử dụng trong kỷ nguyên Internet hiện nay, góp phần thúc đẩy hơn nữa
hoạt động giao dịch điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bài nghiên cứu ''Quyền riêng tư của trẻ em tại Việt Nam: Cơ sở pháp lý và
tình trạng xâm phạm'' của Lê Thế Nhân [55]. Bài nghiên cứu này đã đề cập đến một
đối tượng cần được bảo vệ quyền riêng tư nhưng lại rất dễ bị xâm phạm quyền riêng
tư chính là trẻ em. Tác giả khẳng định quyền riêng tư là một trong những quyền dân
sự cơ bản và quan trọng đối với trẻ em, với đặc điểm là nhóm yếu thế, trong bối
cảnh bùng nổ thông tin. Quyền riêng tư của trẻ em được quy định rõ ràng trong luật


15

pháp quốc tế như: Công ước quốc tế (CƯQT) về các quyền dân sự, chính trị 1966;
CƯQT về quyền trẻ em 1989. Mặc dù vậy, pháp luật Việt Nam quy định chưa đầy
đủ về quyền riêng tư và thiếu vắng các quy định về quyền riêng tư của trẻ em. Bài
viết này đã góp phần mô tả bức tranh pháp lý và tình trạng thực thi quyền riêng tư

của trẻ em tại Việt Nam dưới góc độ báo chí; đồng thời khuyến nghị các giải pháp
giúp giảm trừ các hành vi xâm phạm.
Bài nghiên cứu của Thái Vĩnh Thắng, ''Bảo vệ quyền riêng tư ở Hoa Kỳ,
Pháp và những kinh nghiệm cho Việt Nam'' [96, tr.15-17]. Trong bài nghiên cứu
này tác giả đã phân tích cơ sở lý luận pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền riêng tư ở
Hoa Kỳ, Pháp thông qua các tình huống pháp luật hết sức cụ thể và chi tiết. Tác giả
đã nêu lên những cơ sở pháp lý và thực tiễn của bảo vệ bí mật đời tư ở Việt Nam.
Từ thực tiễn pháp luật của các quốc gia trên thế giới tác giả đã nêu lên những kinh
nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam.
Bài nghiên cứu của Vũ Công Giao, Phạm Thị Hậu, ''Pháp luật bảo vệ quyền
bí mật DLCN trên thế giới và Việt Nam'' [37, tr.67]. Bên cạnh việc phân tích và làm
rõ khái niệm dữ liệu, DLCN và bí mật cá nhân bài viết đã nêu lên quyền bảo vệ bí
mật DLCN trong luật nhân quyền quốc tế và bước đầu rà soát những quy định về
quyền bảo vệ bí mật DLCN trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Bài viết đưa ra
những gợi mở, kiến nghị để HTPL về quyền bảo vệ bí mật DLCN của Việt Nam đó
là xây dựng đạo luật riêng về bảo vệ bí mật DLCN và HTPL chuyên ngành về bảo
vệ bí mật cá nhân.
Bài nghiên cứu của Phùng Trung Tập, ''Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình'' [92, tr.22-24]. Trong bài viết này, tác giả cho rằng cá nhân
với tư cách chủ thể độc lập trong quan hệ xã hội, quan hệ dân sự, kinh tế, lao động,
thương mại và các quan hệ khác trong phạm vi thời gian và không gian nhất định.
Tác giả đã đưa ra cách hiểu của cá nhân về đời sống riêng tư của cá nhân, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình
bất khả xâm phạm. Tác giả cũng nhận định quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình không những được ghi nhận trong các CƯQT về QCN, mà
mỗi quốc gia thành viên đều phải tuân thủ thực hiện những nguyên tắc cơ bản trong
việc bảo vệ QCN tại quốc gia thành viên. Tác giả cho rằng cần thiết phải quy định
các khái niệm đời sống riêng tư của cá nhân, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, quyền
về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình cần phải được quy định cụ
thể trong pháp luật Việt Nam, tạo điều kiện cho việc bảo đảm các QCN được thực



16

hiện trong thực tiễn.
Bài nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Vân, ''Bảo vệ DLCN trong bối cảnh
cách mạng công nghiệp 4.0'' [109, tr.6-9]. Tác giả đã nhận định: Ở Việt Nam, chế
định quyền riêng tư hay quyền bảo vệ TTCN đã được quy định tại nhiều văn bản
pháp luật. Tuy nhiên, các quy định này hiện nay phần lớn là các quy định về việc
bảo vệ quyền riêng tư trong đời sống nói chung, tức việc bảo vệ quyền này được
quy định theo một chế định chung không phân biệt là trong môi trường trực tuyến
(online) hay môi trường ngoại tuyến (offline). Gần đây, một số đạo luật chuyên
ngành mới có một số quy định, chủ yếu dưới dạng các nguyên tắc chung và chưa đủ
cụ thể, dành riêng cho việc bảo vệ TTCN trên internet hoặc môi trường số. Điều đó
cho thấy khung pháp lý của Việt Nam về vấn đề bảo vệ DLCN trong môi
trường internet và kỹ thuật số hiện nay còn rất mỏng, chưa có những quy định về
bảo vệ DLCN đối với những chủ thể ứng dụng/sử dụng công nghệ 4.0. Bài nghiên
cứu này đã cung cấp một lượng thông tin phong phú về bảo vệ DLCN trong nền
công nghiệp 4.0, đặt ra những đòi hỏi và suy nghĩ cho các nhà hoạch định chính
sách khi giải quyết những vấn đề thực tiễn liên quan tới QCN và sự phát triển của
cách mạng công nghiệp hiện đại.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Trên thế giới, những công trình nghiên cứu về quyền riêng tư và bảo vệ TTCN
có số lượng đồ sộ và nội dung phong phú và đi trước Việt Nam một thời gian dài.
Ngay từ năm 1890, với tác phẩm Quyền riêng tư -The rights to Privacy của Louis D
Brandeis và Warren, Samuel D. đã đề cập tới vấn đề này. Không chỉ với các nhà luật
học, nghiên cứu bảo vệ TTCN còn thu hút sự quan tâm của cả những nhà chính trị,
nhà nghiên cứu QCN, kỹ sư, bác sĩ, luật sư và nhiều người khác trong xã hội. Chính
vì vậy, trong những công trình nghiên cứu dưới đây, tác giả chỉ có thể lựa chọn một
số công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan trực tiếp tới nội dung của luận án.

1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu bảo vệ thông tin cá nhân
Cuốn sách Privacy and the Commercial Use of Personal Information (Quyền
riêng tư và việc sử dụng TTCN mang tính thương mại) của Rubin, Paul H., Lenard,
Thomas M [156]. Trong 7 chương, cuốn sách đã phân tích mối quan hệ của thương
mại điện tử, thị trường và chính phủ, với những tác động tích cực và tiêu cực. Với
việc phát triển thương mại điện tử, một số khách hàng đã lo lắng về việc tiết lộ,
chuyển giao và bán TTCN mà các doanh nghiệp đã thu thập về họ. Những mối lo
ngại này đang làm chậm sự mở rộng thương mại điện tử, do vậy đặt ra nguy cơ đối
với tương lai tăng trưởng của nền kinh tế mới. Cuốn sách giải thích rằng không có


17

bằng chứng về tác động có hại đối với khách hàng thực sự hay sự thất bại của thị
trường mà có thể biện minh cho việc điều tiết quá mức của chính phủ đối với sự
riêng tư trên mạng.
Cuốn sách Personal Information Management (Quản lí TTCN) của William
Jones, Jaime Teevan [162]. Các tác giả đưa ra quan điểm về thông tin và quản lý
TTCN trong cuốn sách này đồng thời đưa ra các khái niệm liên quan đến quản lý
TTCN và cụ thể hoá nội dung của nó, chẳng hạn: Quản lý TTCN (PIM). Cuốn sách
đã nêu lên các dạng thức của TTCN nằm trong các tài liệu điện tử, thư điện tử, giấy
tờ, ảnh kỹ thuật số, âm nhạc, video, tin nhắn… Trong báo cáo tổng hợp của mình
tác giả đã tóm tắt các phán quyết của các tòa án Liên minh châu Âu về bảo vệ dữ
liệu. Các bản án kéo dài trong thời gian hơn 15 năm, từ các quyết định đầu tiên vào
năm 2000 thông đến năm 2015. Bản tóm tắt được sắp xếp theo từng trường hợp
(theo trình tự thời gian của số hồ sơ) và theo chủ đề. Cùng với việc tóm tắt sơ bộ
các phán quyết của Toà án châu Âu liên quan đến bảo vệ dữ liệu và có dẫn chiếu
đến các quốc gia cụ thể như Áo, Thuỵ Điển, Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan, Ireland,
tác giả đã đưa ra các định nghĩa về DLCN, xử lý dữ liệu, DLCN nhạy cảm, chuyển
giao dữ liệu đến nước thứ ba, cân bằng quyền cơ bản đã được đề cập và so sánh, đối

chiếu ở các quốc gia khác nhau [143].
Cuốn sách Understanding Privacy (Hiểu về quyền riêng tư) của Daniel J.
Solove [124]. Cuốn sách đã đưa ra những nội dung cơ bản nhất về quyền riêng
tưtrong đó có khái niệm về quyền riêng tư. Tác giả phân tích cho người đọc cách
hiểu như thế nào là một hành vi vi phạm quyền riêng tư hoặc những hành động dễ
dẫn đến xâm phạm quyền riêng tư. Tác giả cũng đề cập đến sự phát triển vượt bậc
của CNTT và mối quan tâm ngày càng tăng của con người đối với việc bảo vệ
quyền riêng tưcủa họ. Tác giả còn đưa ra những khía cạnh liên quan đến việc bảo vệ
quyền riêng tư từ góc độ bảo vệ các TTCN như: thu thập, xử lý, tiết lộ… TTCN.
Bài nghiên cứu ''The Right to Privacy'' (Quyền riêng tư) của Samuel D.
Warren; Louis D. Brandeis [157, pp.193-220]. Đây là một trong những ấn phẩm nổi
tiếng đầu tiên, là công trình kinh điển khi xem xét tới quyền riêng tư và bảo vệ
quyền riêng tư. Trong tác phẩm của mình, hai tác giả là Samuel D. Warren và Louis
D. Brandeis đã chính thức đề cập đến khái niệm này trong bài viết "The Right to
Privacy" (Quyền riêng tư) đã xác định quyền riêng tư là "quyền được ở một mình"
(The Right to be let alone). Các tác giả đã viết: mục đích của chúng tôi là xem xét
liệu luật hiện hành có quy định một nguyên tắc có thể được viện dẫn đúng cách để


18

bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân hay không; nếu có, bản chất và mức độ bảo vệ đó
là gì? Với khả năng ngày càng tăng của chính phủ, báo chí, và các cơ quan và tổ
chức khác để xâm chiếm các khía cạnh trước đây không thể tiếp cận của hoạt động
cá nhân, họ lập luận rằng luật phải phát triển để đáp ứng với thay đổi công
nghệ. Các lệnh cấm truyền thống chống xâm nhập, tấn công, phỉ báng và các hành
vi xâm phạm khác đã tạo ra các biện pháp bảo vệ đầy đủ trong các thời đại trước đó,
nhưng các nguyên tắc này không thể bảo vệ cá nhân khỏi sự lạm dụng của báo chí,
nhiếp ảnh gia hoặc người sở hữu bất kỳ thiết bị hiện đại để ghi lại hoặc tái tạo cảnh
hoặc âm thanh. Theo các tác giả, khi các hoạt động kinh doanh hiện đại và phát

minh ngày càng lớn thì cần có các biện pháp pháp lý để thực thi ranh giới xác định
giữa đời sống công cộng và tư nhân, chẳng hạn như được bảo vệ bởi luật hình sự và
nâng cao vai trò của Toà án trong việc bảo vệ quyền riêng tư.
Bài viết ''The Right to Information and Privacy: Balancing Rights and Managing
Conflicts'' (Quyền thông tin và quyền riêng tư: cân đối quyền và quản lí xung đột) của
David Banisar [125]. Bài viết cho rằng quyền riêng tư và quyền thông tin đều là những
QCN quan trọng trong xã hội thông tin hiện đại. Đối với hầu hết mọi người, hai quyền
này bổ trợ cho nhau trong việc đòi hỏi cách chính phủ phải có trách nhiệm với các cá
nhân. Tuy nhiên có xung đột tiềm tàng giữa các quyền ở chỗ có nhu cầu tiếp cận TTCN
từ phía các cơ quan chính phủ, khi hai quyền chồng chéo thì nhà nước cần phát triển các
cơ chế xác định vấn đề cốt lõi để hạn chế xung đột và cân đối quyền. Bài viết xem xét
các biện pháp mang tính cấu trúc và lập pháp để xác định tốt hơn và cân đối quyền riêng
tư và quyền thông tin. Cuốn sách đã đưa ra định nghĩa về: quyền thông tin; quyền riêng
tư đồng thời giải quyết mối quan hệ của hai quyền này. Bằng phương pháp nghiên cứu
tình huống ở một số quốc gia như: Ireland, Mexico, Slovenia, Anh tác giả đã làm rõ
những vấn đề liên quan đến quyền riêng tư và quyền thông tin.
Bài viết ''Property, Privacy, and Personal Data'' (Tài sản, sự riêng tư và
DLCN) của Paul M. Schwartz [147, tr.2056-2128]. Bài viết đã khẳng định vai trò
của công nghệ, máy tính hiện đại và mạng quốc tế đã tạo nên khả năng tập hợp,
truyền tải và chia sẻ lượng dữ liệu khổng lồ. Khả năng này tạo nên sự bùng nổ việc
buôn bán DLCN. Tác giả cũng đưa ra những những luận điểm ủng hộ và phản đối
thị trường mua bán DLCN, và kết luận rằng khi các quan điểm tự do chuyển
nhượng là không đủ để biện minh cho việc mua bán DLCN không có sự quản lý,
những mối lo ngại về sự thất bại của thị trường và mối quan tâm của cộng đồng đối
với "những cái chung mang tính chất riêng tư" được bảo vệ cũng chưa đủ để biện


19

minh cho việc cấm buôn bán.

Bài viết ''Personal Health Information Management: Consumers’ Perspectives''
(Quản lí thông tin sức khoẻ cá nhân: triển vọng của người tiêu dùng) của Andrea
Civan1, Meredith M. Skeels1, Anna Stolyar1, Wanda Pratt [115]. Bài viết đề cập đến
việc quản lý thông tin sức khoẻ của cá nhân thông qua khảo sát dữ liệu dựa trên
người lớn tại trường Đại học Whasington. Chúng bao gồm kiểm soát cá nhân, chia sẻ,
tích hợp, bảo mật và linh hoạt. Thông qua cuộc khảo sát, các tác giả cho rằng những
phát hiện của họ cung cấp những hiểu biết mới về những ý tưởng mới nổi trong
nghiên cứu và thiết kế CNTT sức khỏe người tiêu dùng. Theo các tác giả việc quản lí
thông tin sức khoẻ cá nhân (PHIM) liên quan đến các hoạt động hỗ trợ việc người
tiêu dùng truy cập, tham gia, tổ chức và sử dụng thông tin y tế cá nhân của mình.
Báo cáo về Bảo vệ dữ liệu và quyền con người lần thứ 14 [40]. Báo cáo này
đưa ra những vấn đề cơ bản của bảo vệ dữ liệu và con người trong đó có khái niệm về
DLCN bao gồm tên, địa chỉ, ngày sinh, số bảo hiểm quốc gia của cá nhân được bảo
vệ theo Điều 8 Công ước nhân quyền châu Âu. Thông qua các hồ sơ y tế có được,
Toà án nhân quyền châu Âu đã nêu ra: việc bảo vệ DLCN, đặc biệt là dữ liệu y tế, vô
cùng quan trọng đối với quyền của một cá nhân được tôn trọng đời sống riêng và gia
đình, được đảm bảo bởi Điều 8 Công ước. Tôn trọng sự bảo mật dữ liệu y tế là
nguyên tắc sống còn của mọi hệ thống pháp luật của các bên tham gia công ước. Nó
không những mang tính then chốt đối với việc hiểu được sự riêng tư của một bệnh
nhân mà còn bảo vệ niềm tin vào y đức và dịch vụ y tế nói chung. Báo cáo đề cập đến
nghĩa vụ cung cấp DLCN, việc cung cấp DLCN không có sự chấp thuận, và thu thập,
lưu trữ DLCN đều là can thiệp vào quyền tôn trọng sự riêng tư của cá nhân.
Báo cáo Data Protection in the European: the role of National Data
Protection Authorities (Bảo vệ DLCN ở châu Âu: vai trò của các cơ quan bảo vệ dữ
liệu quốc gia) của European Union Agency for Fundamental Rights [132]. Báo cáo
khẳng định rõ tầm quan trọng của Cơ quan bảo vệ dữ liệu châu Âu, là công cụ trong
việc thúc đẩy sự phát triển của các hệ thống bảo vệ dữ liệu ở nhiều quốc gia thành
viên. Bản báo cáo đã nêu lên những tiêu chuẩn chung Liên hợp quốc và châu Âu về
bảo vệ TTCN, nhìn nhận những quy định của pháp luật châu Âu về bảo vệ TTCN.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan bảo vệ TTCN quốc gia đã được báo

cáo phân tích cụ thể và chi tiết về. Đặc biệt, báo cáo đã đưa ra những kinh nghiệm
tốt cho việc thực hiện bảo vệ TTCN thông qua bộ máy là cơ quan quốc gia về bảo


20

vệ TTCN ở châu Âu.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân
Cuốn sách Regulating Privacy: Data Protection and Public Policy in Europe
and the United States (Điều chỉnh sự riêng tư: Bảo vệ dữ liệu và chính sách công ở
châu Âu và Hoa Kỳ, năm 1992) của Colin J. Bennett [122]. Trong cuốn sách này,
tác giả đã nhận định cuộc cách mạng thông tin đã tạo nên những công nghệ để dễ
dàng thu thập TTCN, điều đó có thể xâm phạm đến quyền riêng tư của con người.
Thông qua sự phân tích, tác giả đã so sánh các cách thức, quan điểm về vấn đề bảo
vệ dữ liệu tại 4 quốc gia trong luật pháp Hoa Kỳ, Anh, Tây Đức và Thụy Điển từ
cuối những năm 1960 đến thập niên 1980 trong việc bảo vệ TTCN. Tác giả đã nhận
thấy pháp luật liên quan tới máy tính của các quốc gia có các nguyên tắc tương tự
nhau, nhưng việc thực thi các nguyên tắc này lại có sự khác biệt đáng kể, đó là: Hoa
Kỳ dựa vào sáng kiến của công dân và thực thi tư pháp; Anh sử dụng hệ thống đăng
ký; Đức đã xây dựng một cơ chế bảo vệ TTCN độc lập; và Thụy Điển sử dụng một
hệ thống cấp phép. Tác giả còn nghiên cứu tác động của các yếu tố xã hội, chính trị
và công nghệ đến việc kiểm soát về thu thập và truyền đạt thông tin.
Cuốn sách The Right To Privacy: Gays, Lesbians, and the Constitution
Paperback (Quyền riêng tưđồng tính nam, đồng tính nữ và hiến pháp) của Vincent
Samar [160]. Tác giả nêu 2 mục đích chính của cuốn sách: một là, đặt nền tảng lý
thuyết chung về quyền riêng tư, ý nghĩa riêng tư là gì và quyền được bảo vệ riêng tư
hợp lý như thế nào và khi sự riêng tư xung đột với các quyền khác thì làm thế nào
để quyết định được quyền nào được ưu tiên; hai là: tác giả nêu ra những phân tích
của mình về vấn đề của đồng tính nam và đồng tính nữ cùng với các vấn đề như phá
thai, mang thai hộ, thử nghiệm ma tuý, quyền được chết… để minh hoạ cho nền

tảng hiến pháp chung. Từ góc độ tiếp cận của triết học và luật học, cuốn "Quyền
riêng tư: đồng tính nam, đồng tính nữ và hiến pháp" đã đề cập đến nhóm xã hội dễ
bị tổn thương này khá sớm. Theo quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề tình
dục được áp dụng tại 24 bang thì quan hệ đồng giới mang tính tội phạm được áp
dụng đối với hàng triệu người sống ở Hoa Kỳ, vậy TTCN của họ liên quan tới tình
trạng nhiễm HIV, thụ tinh nhân tạo với đồng tính nam và đồng tính nữ được bảo vệ
như thế nào.
Cuốn sách The Right to Privacy Paperback (Quyền riêng tư) của Caroline
Kennedy và Ellen Alderman [118]. Từ cách tiếp cận các trường hợp nghiên cứu cụ
thể, các tác giả cho rằng mặc dù khái niệm sự riêng tư không xuất hiện trong Hiến


×