Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Hoàn thiện pháp luật về tự do lập hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG NGÂN HÀ

HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ Tù DO LËP HéI
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG NGÂN HÀ

HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ Tù DO LËP HéI
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ CÔNG GIAO

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đặng Ngân Hà


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO LẬP HỘI ............... 7
1.1. Khái niệm, vai trò, nội dung của tự do lập hội ...................................... 7
1.2. Mối quan hệ của tự do lập hội với các quyền con người khác ............ 15
1.3. Những yếu tố tác động và những điều kiện bảo đảm thực thi tự do
lập hội .......................................................................................................... 20
1.4. Tự do lập hội trong pháp luật nhân quyền quốc tế, khu vực và tại
một số quốc gia trên thế giới ....................................................................... 24
Kết luận Chương 1 ...................................................................................... 42
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ TỰ DO LẬP HỘI TẠI VIỆT NAM TỪ

TRƯỚC ĐẾN NAY ....................................................................................... 43
2.1. Pháp luật về tự do lập hội tại Việt Nam trước Đổi mới (1986) ........... 43
2.2. Pháp luật về tự do lập hội tại Việt Nam từ Đổi mới (1986) đến nay ... 47
2.3. Những bất cập, hạn chế và những yêu cầu đặt ra với việc hoàn
thiện pháp luật về tự do lập hội tại Việt Nam và nguyên nhân................... 60
2.4. Phân tích, đánh giá nội dung Dự thảo Luật về Hội của Việt Nam ...... 75
Kết luận Chương 2 ...................................................................................... 86
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TỰ DO LẬP HỘI TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ................................. 87
3.1. Các quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật về tự do lập hội ................ 87
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tự do lập hội .................. 90
Kết luận Chương 3 ...................................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB:

Ngân hàng Phát triển châu Á

ASEAN:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

CEDAW:

Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ


CERD:

Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử về chủng tộc

CHLB:

Cộng hòa Liên bang

CMW:

Công ước về bảo vệ các quyền của tất cả người lao
động di trú và các thành viên trong gia đình họ

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

CRC:

Công ước về quyền trẻ em

CRPD:

Công ước về quyền của người khuyết tật

HĐND:

Hội đồng nhân dân


ICCPR:

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

ICESCR:

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa

ILO:

Tổ chức Lao động quốc tế

LHQ:

Liên hợp quốc

LGBTI:

Người đồng tính luyến ái nữ, người đồng tính
luyến ái nam, người song tính luyến ái, người
chuyển giới và người liên giới tính

UBND:

Ủy ban nhân dân

UDHR:

Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người


VBQPPL:

Văn bản quy phạm pháp luật

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội, bên cạnh Nhà nước và thị trường, khu vực còn lại là xã
hội dân sự mà đơn vị cấu thành là các tổ chức xã hội dân sự, hay còn gọi là
các hội. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, xã hội dân sự đã và đang đóng vai trò
quan trọng trong việc kiến tạo và phát triển xã hội, là nơi tập hợp sức mạnh
của đông đảo quần chúng nhân dân, và cũng là lá chắn bảo vệ con người trước
những nguy cơ bị xâm phạm bởi các tổ chức hay cá nhân khác.
Để phát huy vai trò của khu vực này cần đảm bảo mọi người đều được
thực hành quyền tự do lập hội của mình. Quyền tự do lập hội là quyền cơ bản
của con người trong việc tổ chức, thành lập ra các hội có chung mục đích, sở
thích hay vì lợi ích chung. Quyền tự do lập hội trao cơ hội cho mọi công dân,
dù họ làm việc cho nhà nước, doanh nghiệp hay các tổ chức phi lợi nhuận,
được tham gia vào đời sống chính trị - xã hội - văn hóa, được tập hợp để thể
hiện tiếng nói và nguyện vọng chung, cùng nhau xây dựng và thực hiện các
chương trình phát triển cho cộng đồng. Đối với người lao động, quyền tự do
lập hội là cơ sở để họ tự do gia nhập công đoàn nhằm bảo vệ quyền lợi của họ
khỏi sự xâm phạm từ giới chủ. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng,
quyền tự do lập hội còn giúp các cá nhân trên toàn thế giới liên kết với nhau,
tạo thành các tổ chức và mạng lưới quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong việc

xử lý các vấn đề chung của toàn nhân loại như nghèo đói, môi trường, giáo
dục, hỗ trợ khẩn cấp khi có thiên tai, chiến tranh,…
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, quyền tự do lập hội là một yêu cầu
cấp thiết và có những tiến triển mạnh mẽ. Các hội phát triển rất đa dạng và
phong phú về cả quy mô, phạm vi và tính chất hoạt động. Trong báo cáo của
Bộ Nội vụ trình Quốc hội ngày 4/11/2015 đã nêu, tính đến tháng 12/2014, cả

1


nước có 52.565 hội, trong đó 483 hội hoạt động phạm vi cả nước và 52.082
hội hoạt động ở phạm vi địa phương; số liệu này không bao gồm Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội nghề nghiệp khác [4]. Các hội
này tồn tại ở các hình thức đa dạng như tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi
nhuận, các quỹ, câu lạc bộ, các tổ chức cộng đồng,… Lĩnh vực hoạt động của
các hội cũng rất phong phú, có thể kể đến như phát triển nông nghiệp bền
vững, xóa đói giảm nghèo, y tế - sức khỏe, môi trường, bảo vệ quyền của một
số nhóm yếu thế như trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật, người dân tộc thiểu
số,… Thực tế cho thấy, hoạt động của những hội, tổ chức này phần lớn là có
hiệu quả, đem lại những lợi ích rõ ràng và bền vững cho người dân cả về đời
sống vật chất và tinh thần, giúp nâng cao nhận thức người dân, tham gia vận
động và phản biện các chính sách của Nhà nước, giám sát giúp làm tăng tính
minh bạch và trách nhiệm giải trình của các tổ chức kinh tế và khối cơ quan
nhà nước, huy động hiểu quả các nguồn lực từ xã hội nhằm phát triển toàn xã
hội nói chung.
Mặc dù vậy, các hội tại Việt Nam hiện vẫn gặp những khó khăn trong
hoạt động, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó đặc biệt bao gồm
những bất cập, hạn chế về khuôn khổ pháp luật. Điều này đặt ra yêu cầu cấp
thiết cần nghiên cứu hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền tự do lập hội ở
nước ta, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, cũng như để thực thi quy

định về quyền này trong Điều 25 Hiến pháp năm 2013.
Trong bối cảnh đó, tác giả quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện pháp
luật về tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật
học chuyên ngành luật nhân quyền, với mong muốn đóng góp vào việc xây
dựng, hoàn thiện cơ sở khoa học cho việc sửa đổi, bổ sung và xây dựng Luật
về Hội ở nước ta, qua đó đảm bảo tốt hơn quyền tự do lập hội của người dân
trong những năm tới.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền tự do lập hội đã được luật hóa từ rất sớm và được thực hiện sôi
nổi trong đời sống xã hội ở mọi nơi trên thế giới. Trên bình diện quốc tế và tại
Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể đến một số
nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Maina Kian (2012), Report on on the rights to freedom of peaceful
assembly and of association.
- OSCE/ODIHR (2015), Guidelines on Freedom of Association
- Irene Norlund (2011), Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự Việt Nam.
- Ngân hàng Phát triển châu Á (2011), Báo cáo tóm tắt về xã hội dân sự
Việt Nam.
- Lã Khánh Tùng - Nghiêm Hoa - Vũ Công Giao (2016), Hội và Tự do
hiệp hội.
- Vũ Công Giao (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp
2013: Lý luận và thực tiễn (Tài liệu dùng cho hội thảo).
- Phạm Thị Hồng (2013), Hoàn thiện pháp luật về hội ở Việt Nam hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Khoa học xã
hội Việt Nam.
- Nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân (2016), Đời sống hiệp

hội từ góc nhìn người dân.
Những nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng thông tin lớn về cả lý
luận và thực tiễn việc thực hành quyền tự do lập hội trên thế giới cũng như
tại Việt Nam, là nguồn tư liệu quý báu giúp tác giả thực hiện luận văn này.
Đặc biệt, cuốn “Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013: Lý luận
và thực tiễn” do PGS. TS. Vũ Công Giao làm chủ biên, xuất bản năm 2016,
đã tập hợp những bài tham luận, công trình nghiên cứu về quyền tự do lập
hội của các chuyên gia luật học đầu ngành và các đại diện đến từ khu vực

3


xã hội dân sự của Việt Nam và trở thành tài liệu tham khảo có giá trị lớn
cho luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những quy định pháp luật liên
quan đến quyền tự do lập hội trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam,
đồng thời nghiên cứu thực tiễn thực hành quyền tự do lập hội tại Việt Nam,
trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hội,
nhằm nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền tự do lập hội của người dân tại Việt
Nam hiện nay.
Để thực hiện các mục đích nói trên, luận văn sẽ giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Phân tích quyền tự do lập hội được ghi nhận trong hệ thống pháp luật
nhân quyền quốc tế và tại một số khu vực, kinh nghiệm của một số nước trên
thế giới về việc bảo vệ quyền lập hội của người dân.
- Rà soát, đánh giá các quy định pháp luật trước và sau Đổi mới (1986)
quy định về tự do lập hội tại Việt Nam;
- Phân tích hiện trạng thực hành quyền lập hội của người dân tại Việt
Nam hiện nay;

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tự
do lập hội tại Việt Nam hiện nay, đặc biệt liên quan đến việc xây dựng
Luật về Hội, để đảm bảo mọi người dân đều được tự do thực hành quyền
lập hội theo Hiến pháp và pháp luật.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là các quy định pháp luật về tự do
lập hội trong pháp luật quốc tế và tại Việt Nam, bao gồm: quy định pháp luật
về thành lập hội, quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của hội và cơ
chế bảo vệ quyền tự do lập hội của người dân.

4


Để hoàn thành đề tài này, luận văn sẽ nghiên cứu hệ thống văn kiện của
luật nhân quyền quốc tế, các công ước về quyền con người của một số khu
vực châu Âu, châu Phi và châu Mĩ – La-tinh có ghi nhận quyền tự do lập hội,
pháp luật của một số quốc gia như Pháp, Đức về quyền tự do lập hội; khảo
cứu các báo cáo của các tổ chức quốc tế và trong nước về hiện trạng thực
hành quyền tự do lập hội tại Việt Nam; rà soát hệ thống văn bản pháp luật quy
định về quyền tự do lập hội và nghiên cứu các tài liệu, chuyên đề của các học
giả, chuyên gia, tổ chức và các cơ quan nhà nước liên quan đến quyền tự do
lập hội đã được xây dựng và đóng góp trong quá trình soạn thảo luật về hội tại
Việt Nam trong thời gian qua.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm của Liên hợp quốc và Nhà
nước Việt Nam về quyền con người.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn bao
gồm: khảo cứu tài liệu, phân tích - tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu.
6. Tính mới và những đóng góp về lý luận, thực tiễn của đề tài

Luận văn là một trong số ít công trình nghiên cứu về pháp luật và thực
trạng bảo đảm quyền tự do lập hội ở nước ta từ trước tới nay. Vì vậy, luận văn
cung cấp nhiều kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham
khảo với các cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật và cơ chế để
nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do lập ở nước ta trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo
cho việc giảng dạy, nghiên cứu các chuyên ngành luật có liên quan như luật
hiến pháp, hành chính, luật hình sự, luật nhân quyền ở Khoa Luật ĐHQG Hà
Nội và các cơ sở đào tạo khác của nước ta.

5


7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tự do lập hội.
Chương 2: Pháp luật về tự do lập hội tại Việt Nam từ trước đến nay.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về tự do lập hội
tại Việt Nam hiện nay.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO LẬP HỘI
1.1. Khái niệm, vai trò, nội dung của tự do lập hội
1.1.1. Khái niệm về “hội” và tự do lập hội
Trong mọi xã hội, bên cạnh không gian của bộ máy nhà nước với tư cách
là các tổ chức quyền lực công, thực hiện chức năng quản lý xã hội bằng chính

sách và pháp luật, là không gian của xã hội dân sự, được cấu thành bởi các
nhóm, tổ chức xã hội, phản ánh ý chí và sự quan tâm của người dân [18, tr.77].
Xã hội dân sự đóng vai trò quan trọng là cầu nối các cá nhân với nhà nước;
tham gia và hoạch định các chính sách cùng Nhà nước; tổ chức phản biện xã
hội và giám sát các hoạt động của cơ quan, công chức nhà nước, cũng như
hoạt động của doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi của con người nói chung;
góp phần huy động và sử dụng các nguồn lực hiệu quả nhằm thúc đẩy sự phát
triển của toàn xã hội [8, tr.32].
Cốt lõi của xã hội dân sự là hệ thống các tổ chức rộng lớn do người dân
tự nguyện lập nên với một số đặc điểm như sau:
- Là tổ chức do dân tự nguyện lập ra, không thuộc chính phủ;
- Hoạt động nhằm mục đích phi lợi nhuận, các khoản lợi nhuận (nếu
có) không được phân với mục đích tư lợi, không phải là doanh nghiệp;
- Tiến hành các hoạt động hợp tác không vì mục đích thương mại hoặc
nhân đạo;
- Tự chủ, độc lập về tài chính, nguồn thu cho chi phí hoạt động đến từ
sự đóng góp tự nguyện của các hội viên hoặc nhận tài trợ từ các tổ chức khác
hoặc chính phủ.
Trong đó các yếu tố tự nguyện, tự quản và tự trang trải kinh phí là
những điểm nổi bật của các tổ chức xã hội dân sự.

7


Các nhóm, tổ chức này tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng như câu
lạc bộ, tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức tôn giáo, các
quỹ, công đoàn, tổ chức cộng đồng, hội nghề nghiệp, hội sở thích,… hay gọi
bằng danh từ chung là các hội.
Theo từ điển tiếng Việt, “hội” được định nghĩa là “tổ chức của những
người cùng chung một nghề nghiệp hoặc có chung một hoạt động” [21, tr.225].

Trong các tài liệu nghiên cứu của khoa học xã hội, “hội” được định nghĩa là
sự thỏa thuận, tập hợp, liên kết nhiều người tạo thành nhóm nhằm hướng đến
các mục đích, lợi ích hay sự quan tâm chung [18, tr.76].
Đoạn 51 trong Báo cáo A/HRC/20/27 của Báo cáo viên LHQ về tự do hội
họp và hiệp hội, Maina Kiai năm 2013, nêu định nghĩa hội là bất cứ các nhóm
của các cá nhân hoặc các pháp nhân được tập hợp nhằm thực hiện các hành
động tập thể, biểu đạt, thúc đẩy, theo đuổi hoặc bảo vệ những lợi ích chung.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành các đạo luật riêng về hội.
Theo đó, “hội” trong luật pháp một số quốc gia được định nghĩa như sau:
Điều 2 Luật về Hội của Cộng hòa Liên bang Đức ban hành ngày 5/8/1964
quy định:
Hiệp hội được định nghĩa bởi đạo luật này, không liên quan
đến hình thức pháp lý, là bất kỳ hiệp hội nào mà đa số những
người tự nhiên hoặc pháp nhân đã tự nguyên gia nhập trong một
thời gian dài với mục đích chung và có sự tổ chức. Hiệp hội theo
định nghĩa này không bao gồm các đảng chính trị quy định tại
Điều 21 Đạo luật cơ bản.
Điều 1 Luật về Hội của Cộng hòa Pháp ban hành ngày 1/7/1901 quy định:
Hội là một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều người cùng góp
kiến thức hoặc hành động một cách thường xuyên vì mục đích phi
lợi nhuận. Dựa vào năng lực pháp luật của hội, hội được điều chỉnh
bởi luật áp dụng đối với hợp đồng và trái vụ.
8


Theo Điều 78 Bộ luật dân sự và thương mại của Vương quốc Thái Lan
quy định:
Việc thành lập hội nhằm tiến hành những hoạt động nào đó
có tính chất chung và liên tục, không nhằm mục đích sinh lời
hoặc thu nhập để chia nhau, có điều lệ và đăng ký theo quy định

của bộ luật này.
Tại Việt Nam, theo Điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định về
tổ chức, hoạt động và quản lý hội, hội được hiểu là:
Tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng
ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp,
đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ
nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này
và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Nói cách khác, hội được thành lập dựa trên sự thỏa thuận của các cá
nhân, mang tính chất tự nguyện, các cá nhân được tự do quyết định bằng ý chí
của mình tham gia hoặc không tham gia hội. Hội cũng là nơi các cá nhân
được liên kết nhằm chia sẻ những mối quan tâm chung trên các lĩnh vực tôn
giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… hoặc đơn giản là nơi tập hợp các cá
nhân có chung sở thích. Tùy thuộc vào pháp luật từng quốc gia mà hội bắt
buộc phải đăng ký tư cách pháp nhân hoặc không.
Lập hội là việc các cá nhân liên kết, tập hợp lại với nhau thành nhóm
hướng đến những lợi ích, mục đích hay sự quan tâm chung [37]. Việc lập hội
của các cá nhân giúp hình thành nên các hội, nhóm – là cốt lõi của xã hội dân
sự, vì vậy, tự do lập hội, hiệp hội có vai trò thiết yếu để xã hội dân sự tồn tại
và phát triển.

9


Tự do lập hội (còn gọi là “quyền tự do lập hội”), là nhu cầu tự nhiên và
cơ bản của con người. Con người bẩm sinh sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp,
được kết nối và trở thành một phần của cộng đồng, được tự do gắn kết và sẻ
chia với những cá nhân khác có cùng mối quan tâm, mà không phụ thuộc vào
phong tục tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai

cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay Nhà nước nào. Vì lẽ đó, quyền tự do lập
hội là quyền tự nhiên và quyền cơ bản của con người mà không một chủ thể
nào, bao gồm cả Nhà nước, có quyền ban phát hoặc tước đoạt quyền đó khỏi
các cá nhân [11, tr.42].
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 ghi nhận tại
Điều 20 rằng “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách
hòa bình”.
Tại Việt Nam, quyền tự do lập hội luôn được ghi nhận trong Hiến pháp
với tư cách là quyền của công dân. Điều 25, Hiến pháp 2013 quy định “Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hôi, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Mặc dù
so với luật nhân quyền quốc tế và luật pháp của một số quốc gia, quy định của
Hiến pháp Việt Nam còn hẹp khi giới hạn chủ thể quyền tự do lập hội chỉ
thuộc về công dân Việt Nam, nhưng cũng cần ghi nhận rằng Việt Nam đang
tiếp tục thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản của con người đến gần hơn với
các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế.
1.1.2. Vai trò của tự do lập hội
Tự do lập hội là cần thiết cho sự phát triển của xã hội dân sự. Về vấn đề
này, Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Pháp, Tocqueville đã viết trong tác phẩm
“Nền dân trị Mỹ”:
Khi các công dân chỉ có thể được kết hội trong một số trường
hợp, họ sẽ nhìn hiệp hội như một vật hiếm và đặc biệt, và họ không
buồn nghĩ đến những thứ hội hè ấy nữa.
10


Khi ta để cho công dân được kết hội tự do thành đủ mọi thứ
hội, họ sẽ nhìn thấy trong hiệp hội cái phương tiện phổ biến, có thể
nói là phương tiện duy nhất con người có thể đem dùng để đạt tới
những mục tiêu khác nhau do họ định ra. Mỗi nhu cầu mới lại đánh

thức một tư tưởng. Nghệ thuật kết hội khi đó trở thành khoa học
mẹ,…; mọi người đều nghiên cứu và áp dụng nó.
Theo nhận định của Tocqueville, chính các hiệp hội đã giúp xã hội Mỹ
vận hành trơn tru vào thế kỉ 19, bởi quyền tự do lập hội giúp người dân và các
cộng đồng giải quyết các vấn đề xã hội và kinh tế mà không cần đến sự can
thiệp của nhà nước [38]. Điều đó cũng đồng nghĩa rằng, tự do lập hội đã trao
quyền cho dân chúng được làm chủ cuộc sống của mình, được tự do lựa chọn
người đại diện cho mình tham gia vào chính phủ qua bầu cử công bằng, và
được tham gia tích cực vào đời sống chính trị và dân sự. Vì vậy, quyền tự do
lập hội là thành phần thiết yếu của nền dân chủ hiệu quả.
Quyền tự do lập hội có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy một loạt
các quyền con người con người khác. Trong báo cáo năm 2013 của Báo cáo
viên đặc biệt Maina Kiai khẳng định, quyền tự do lập hội trao quyền cho tất
cả mọi người được thể hiện quan điểm chính trị, tham gia vào các hoạt động
văn hóa, kinh tế và xã hội, tham gia vào các nghi lễ tôn giáo hoặc các niềm tin
khác, và bầu lãnh đạo để đại diện cho lợi ích của họ và tăng trách nhiệm giải
trình. Sự phụ thuộc và liên quan lẫn nhau giữa các quyền làm cho quyền tự do
lập hội trở thành một trong những khía cạnh quan trọng để đánh giá sự tôn
trọng của Nhà nước với những quyền con người khác [26].
Đối với nhóm quyền dân sự và chính trị, nhờ có quyền tự do lập hội,
các cá nhân được liên kết với nhau để thể hiện những mối quan tâm chung,
đưa ra những ý kiến mang tính chất tập thể của một bộ phận hoặc đông đảo
quần chúng nhân dân về các chính sách của Nhà nước hoặc lên tiếng trước

11


các vấn đề của xã hội. Có thể nói, quyền tự do lập hội giúp cho quyền tự do
ngôn luận được thực hiện hiệu quả khi các ý kiến đưa ra gây được sự chú ý
đối với cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp hay bộ phận lớn của xã hội. Bên

cạnh đó, lịch sử còn chứng minh, nhờ có tự do lập hội mà các đoàn, đảng, hội
của các sĩ gia yêu nước được hình thành và hoạt động, qua đó đã đem lại nền
độc lập và quyền tự quyết cho nhiều dân tộc trên khắp thế giới. Ở khía cạnh
này, quyền tự do lập hội đã bảo vệ quyền sống, quyền an toàn thân thể, quyền
không bị bắt làm nô lệ, nô dịch. Bình luận chung số 25 của Uỷ ban nhân
quyền Liên hợp quốc (đoạn 12) cũng ghi nhận vai trò của quyền này đối với
quyền bầu cử, ứng cử, “quyền tự do ngôn luận, hội họp và lập hội là những
điều kiện quan trọng cho việc thực hiện hiệu quả quyền bầu cử và phải được
bảo vệ đầy đủ”.
Đối với nhóm quyền kinh tế - văn hóa – xã hội, việc bảo đảm quyền tự
do lập hội đã giúp cải thiện tình trạng hưởng thụ của các quyền này một cách
đáng kể. Quyền tự do lập hội được thực hiện dưới hình thức các hội nhóm, tổ
chức mà hoạt động của các tổ chức này phần lớn nhằm phát triển xã hội, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao nhận thức của dân chúng và cải thiện mức sống cho
người dân tại những vùng khó khăn nói riêng và toàn xã hội nói chung. Trong
lĩnh vực lao động, quyền tự do lập hội giúp người lao động tự do thành lập
công đoàn và tiến hành thương lượng tập thể về tiền lương, thời gian và các
điều kiện lao động [19, tr.13]. Lịch sử hình thành Tổ chức lao động quốc tế
ILO đã chứng minh quyền tự do lập hội đã có đóng góp sâu sắc nhất cho việc
mở rộng tự do và bình đẳng trên toàn thế giới.
Quyền tự do lập hội có vai trò to lớn trong việc bảo vệ quyền và đem
lại cuộc sống thỏa đáng cho những người thuộc các nhóm dễ bị tổn thương
trong xã hội như phụ nữ, trẻ em, LGBTI, dân tộc thiểu số, người khuyết tật.
Tự do lập hội giúp những nhóm người này hình thành các cộng đồng để sẻ

12


chia và tương trợ lẫn nhau, chống lại sự kì thị, phân biệt đối xử và bạo lực,
giúp họ đòi hỏi thành công các quyền lợi chính đáng của mình như quyền có

việc làm thỏa đáng, quyền kết hôn, quyền về sức khỏe, quyền được tham gia
vào đời sống văn hóa của cộng đồng,…[19, tr.14].
Nói tóm lại, dù ở thời đại nào, quyền tự do lập hội cũng luôn đóng vai
trò quan trọng trong đời sống cộng đồng của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát
triển, phồn vinh của toàn xã hội. Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do
lập hội là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi nhà nước.
1.1.3. Nội dung của tự do lập hội
Tự do lập hội (hay quyền tự do lập hội) là một quyền cơ bản của con
người, vì vậy Hiến pháp và pháp luật của các quốc gia đều ghi nhận và đảm
bảo thực thi quyền này. Quyền tự do lập hội cũng được quy định trong nhiều
văn bản của luật nhân quyền quốc tế và khu vực.
Theo nhận thức chung, quyền tự do lập hội bao gồm các nội dung cơ bản:
(1) Quyền thành lập và gia nhập hội. Đây là nội dung chủ yếu của
quyền tự do lập hội. Mọi người đều có quyền thành lập hội mới, việc thành
lập có thể thực hiện theo thủ tục thông báo hoặc đăng ký với cơ quan nhà
nước, hoặc không. Bên cạnh quyền thành lập hội mới, các cá nhân cũng có
quyền gia nhập các hội có sẵn hoặc rút lui khỏi các hội. Không ai bị ép phải
tham gia một hội bất kì. Tương tự, các hội cũng có quyền ngừng hoạt động
hoặc tự giải tán [19, tr.19]. Quyền này cũng bao hàm quyền thành lập và gia
nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của người lao động.
(2) Quyền tự do hoạt động, điều hành các hội. Quyền này có nghĩa là
các thành viên của hội được tự quyết định quy chế, điều lệ, bầu ban lãnh đạo
của hội, yêu cầu hội thực hiện trách nhiệm giải trình trước hội viên; tự do hoạt
động, điều hành các hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy động các nguồn kinh
phí cho hoạt động hội, mà không chịu sự can thiệp bất hợp pháp từ các cơ

13


quan nhà nước hay bên thứ ba. Quyền này đặt ra nghĩa vụ cho Nhà nước phải

tôn trọng, bảo vệ và đưa ra các biện pháp nhằm đảm bảo thực thi quyền tự do
lập hội. Nhà nước cũng cần tạo dựng một môi trường thuận lợi, bình đẳng cho
hoạt động của các hội và có cơ chế bảo vệ quyền tự do lập hội khỏi sự vi
phạm từ các cơ quan công quyền và từ các cá nhân, tổ chức khác [25].
1.1.4. Giới hạn chính đáng đối với tự do lập hội
Quyền tự do lập hội không phải là một quyền tuyệt đối, nghĩa là trong
những trường hợp nhất định, Nhà nước có thể ngăn cản quyền tự do lập hội
của các cá nhân. Theo quy định tại Điều 4 ICCPR, quyền tự do lập hội, cũng
như một số quyền dân sự - chính trị khác, có thể bị hạn chế trong bối cảnh
Nhà nước ban bố tình trạng khẩn cấp đe dọa đến sự sống còn của quốc gia.
Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 22 ICCPR, quyền tự do lập hội chỉ có thể bị
hạn chế trong các trường hợp nhằm: (1) Bảo vệ an ninh quốc gia; (2) Bảo vệ
an toàn, trật tự cộng cộng và sức khỏe cộng đồng; và (3) Bảo vệ quyền và tự
do của người khác. Cần lưu ý rằng, những hạn chế này phải được quy định
chi tiết trong pháp luật quốc gia và chỉ được áp dụng khi các biện pháp đó là
“cần thiết trong một xã hội dân chủ”. Để tránh sự lạm dụng việc áp dụng
các biện pháp hạn chế quyền này, LHQ đã đưa ra một số văn bản có tính
chất giải thích và hướng dẫn cho các quốc gia, như Các Nguyên tắc Siracusa
về các điều khoản giới hạn và hạn chế trong ICCPR năm 1985 và Các
nguyên tắc Johannesburg về An ninh quốc gia, tự do biểu đạt và tiếp cận
thông tin năm 1995 [19, tr.24].
Quyền tự do lập hội cũng có thể bị giới hạn đối với một số đối tượng
trong xã hội. Cụ thể, quyền tự do lập hội có thể bị hạn chế đối với các cá nhân
là các viên chức chính phủ hoặc làm việc trong lực lượng cảnh sát, quân đội.
Việc hạn chế này là cần thiết và hợp lý để đảm bảo các chủ thể trên thực hiện
đúng chức năng và nhiệm vụ công của mình [27, tr.18].

14



1.2. Mối quan hệ của tự do lập hội với các quyền con người khác
Các quyền con người đều có tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Tính
chất này thể hiện ở việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần
nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Một quyền được thúc
đẩy hay bị vi phạm sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra những ảnh hưởng tích
cực hoặc tiêu cực đến các quyền khác.
Tuy nhiên, quyền tự do lập hội có quan hệ gần gũi hơn cả với một số
quyền con người, bao gồm: quyền hội họp, quyền tự do biểu đạt, tự do thông
tin; và quyền tham gia quản lý đất nước.
1.2.1. Quyền tự do lập hội với quyền tự do hội họp
Quyền tự do lập hội và tự do hội họp có mối quan hệ qua lại mật thiết
với nhau. Hai quyền này đều được bảo vệ bởi luật nhân quyền quốc tế và
Hiến pháp của nhiều quốc gia. Tự do hội họp là tiền đề cho tự do lập hội, vì
khi thực hiện tự do hội họp, khung chương trình, điều lệ… được thảo luận và
là tiền đề để một hội ra đời [19, tr.27].
Hội họp là việc nhiều người tập hợp lại, tại nơi công cộng hoặc cơ sở tư
nhân, trong nhà hoặc ngoài trời, nhằm thực hiện một mục đích chung nhất định.
Hội họp có thể vì mục đích riêng tư (đám cưới, đám giỗ, sinh nhật,…) hoặc vì
mục đích công (hội thảo, tập huấn, tọa đàm, cầu nguyện,…) [18, tr.63]. Biểu
tình cũng là một hình thức đặc biệt của tự do hội họp. Biểu tình là việc tập
hợp một bộ phận công chúng nhằm bày tỏ quan điểm, ý kiến (ủng hộ hoặc
phản đối) của họ về một vấn đề nào đó [18, tr.64].
Cùng với quyền tự do lập hội, quyền tự do hội họp được ghi nhận bởi
Điều 20 UDHR “Mọi người đều có quyền tự do hội họp và hiệp hội có tính
cách hòa bình”. Điều 21 ICCPR tái khẳng định tự do hội họp là quyền cơ bản
của con người. Việc thực hiện quyền này chịu một số hạn chế, tuy nhiên,
những hạn chế này phải được quy định cụ thể trong pháp luật quốc gia và chỉ

15



nhằm: (1) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng; (2) Bảo vệ sức
khỏe hoặc đạo đức cộng đồng; (3) Tôn trọng các quyền hoặc danh dự của
người khác. Tuy nhiên, trên thực tế, các nhà nước thường lấy các lý do như
gây cản trở giao thông, nguy cơ bạo lực, xung đột từ các cuộc biểu tình, diễu
hành gây mất an ninh và trật tự công cộng,... để cản trở quyền tự do hội họp
của người dân [18, tr.66]. Những hành động của nhà nước nhằm bảo vệ, thực
thi quyền tự do hội họp rất dễ trở thành các hành động mang tính chất cản trở,
thậm chí vi phạm quyền này.
Việc tự do hội họp được tôn trọng và bảo vệ có ý nghĩa rất lớn đối với
sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, đóng vai trò thúc đẩy nhiều
quyền con người khác. Mỗi cá nhân đều có nhu cầu được hội họp, được phát
biểu quan điểm, được chia sẻ ý tưởng của mình với những người khác; trong
khi đó tự do hội họp giúp xã hội dân sự phát huy vai trò của mình khi những ý
kiến, kiến nghị của đông đảo quần chúng nhân dân được tập hợp, tạo ra tác
động đáng kể đến quần chúng và cơ quan công quyền. Ở khía cạnh này,
quyền tự do hội họp chính là sự mở rộng của quyền tự do biểu đạt. Đối với tự
do lập hội, tự do hội họp là bước đầu tiên trong quá trình hình thành nên một
hội. Trong quá trình hoạt động của hội, tự do hội họp chính là một phần của
hoạt động hội, được thể hiện qua các hội thảo, tọa đàm, chiến dịch truyền
thông, vận động, họp thường niên... do các hội tổ chức. Ở chiều ngược lại,
việc tự do hội họp bị cản trở, vi phạm sẽ kéo theo một loạt quyền con người
khác bị vi phạm, hạn chế, không gian xã hội dân sự bị chia rẽ, thu hẹp, tính
dân chủ trong xã hội suy giảm.
Tại Việt Nam, tự do hội họp cũng được ghi nhận là một quyền cơ bản
của công dân Việt Nam tại Điều 25 Hiến pháp 2013, bên cạnh tự do biểu đạt,
lập hội, biểu tình. Dưới Hiến pháp còn có một số luật và văn bản luật quy
định về quyền này như Luật Biểu tình 2015, Nghị định 38/2005/NĐ-CP quy

16



định biện pháp bảo đảm trật tự công cộng và Thông tư hướng dẫn số
09/2005/TT-BCA, Quyết định số 76/2010/QĐ-TTg về việc tổ chức, quản lý
hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam,... Nhìn chung tự do hội họp ở Việt
Nam vẫn chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ từ phía Nhà nước, đặc biệt với
các cuộc biểu tình nói chung và các hội nghị, hội thảo, các hoạt động tập hợp
đông người liên quan đến các vấn đề được coi là “nhạy cảm” như chính trị,
nhân quyền, tôn giáo, chủ quyền biển đảo,…[18, tr.71].
1.2.2. Quyền tự do lập hội với quyền tự do biểu đạt và tự do thông tin
Tự do biểu đạt là quyền tự do thể hiện ý chí, trình bày, trao đổi các
quan điểm, nhận định, thái độ bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua lời
nói, chữ viết, hành động hoặc không hành động, các hình thức nghệ
thuật,...[19, tr.28]. Tự do biểu đạt bao gồm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự
do xuất bản, triển lãm, biểu diễn nghệ thuật,…
Tự do biểu đạt và tự do thông tin được ghi nhận tại điều 19 UDHR, tái
khẳng định trong Điều 19 ICCPR và được giải thích trong Bình luận chung số
34. Theo đó:
Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị
ai can thiệp vào. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này
bao gồm quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại, tin tức,
ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng,
hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông
qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.
Tự do biểu đạt và tự do thông tin không phải là một quyền tuyệt đối.
Các giới hạn quyền phải được quy định bằng pháp luật, việc áp dụng các giới
hạn chỉ khi cần thiết để: (1) Tôn trọng các quyền và uy tín của người khác; (2)
Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của
công chúng (theo Điều 19 ICCPR).


17


Nhờ có tự do biểu đạt, các cá nhân, các nhóm có thể trình bày các vấn
đề của mình, góp ý vào các vấn đề chung của xã hội, cùng nhau thảo luận, tìm
kiếm các giải pháp xử lý cho các vấn đề đó. Tuy nhiên, nếu các vấn đề, quan
điểm, ý kiến được đưa ra bởi các cá nhân đơn lẻ thì mức độ tác động thường
sẽ hẹp bởi đó được xem là ý kiến một chiều, mang nặng tính chủ quan. Việc
thu hút đông đảo mọi người cùng tham gia góp ý, tranh luận sẽ giúp mở rộng
các ý tưởng, nhìn vấn đề đa chiều, tìm ra được các giải pháp toàn diện, đồng
thời tạo ra các tác động sâu rộng trong xã hội, đặc biệt gây ra được ảnh hưởng
đến các quyết định của cơ quan nhà nước. Vì vậy, tự do lập hội, hội họp được
coi là sự mở rộng của tự do biểu đạt, là yếu tố quan trọng để quyền tự do biểu
đạt được thực hiện hiệu quả [19, tr.29].
Tự do thông tin bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp cận, chia sẻ, trao đổi và
phổ biến thông tin. Tự do thông tin đồng nghĩa với quyền tự do thông tin,
bao gồm quyền tiếp cận thông tin mà được nắm giữ bởi các cơ quan nhà
nước [18, tr.53]. Thông tin được ví như oxy của nền dân chủ, vì vậy tự do
thông tin chính là “hơi thở” của xã hội và của mỗi cá nhân. Tự do thông tin
giúp các hoạt động của cơ quan nhà nước minh bạch hơn, chịu sự giám sát
của người dân, vì vậy hoạt động hiệu quả hơn. Tự do thông tin cũng giúp dân
chúng tiếp cận và có đầy đủ thông tin về các chính sách và hoạt động của nhà
nước, vì vậy người dân có thể tham gia tích cực vào công tác quản lý xã hội
cùng nhà nước, góp ý, phản biện, giám sát các chính sách và hoạt động đó,
người dân cũng là người chủ của đất nước [19, tr.29]. Bên cạnh đó, tự do
thông tin còn đóng vai trò thúc đẩy các quyền con người khác, giúp lan tỏa
những hành động hay các giá trị nhân văn, đồng thời gây sự chú ý và lên án
những hành động sai trái, đàn áp, giúp xã hội văn minh hơn, tốt đẹp hơn.
Đối với tự do lập hội, thông tin minh bạch giúp các hội thực hiện hiệu
quả chức năng phản biện chính sách và giám sát hoạt động của các cơ quan,


18


cán bộ nhà nước, đồng thời là nguồn dữ liệu đầu vào để các hội xây dựng kế
hoạch, chương trình hoạt động phù hợp với nhu cầu của xã hội. Ở chiều
ngược lại, tự do lập hội giúp việc phân tích, chia sẻ và phổ biến thông tin hiểu
quả hơn, đồng thời giám sát và yêu cầu nhà nước phải minh bạch và thực hiện
trách nhiệm giải trình trước dân chúng.
1.2.3. Quyền tự do lập hội với quyền tham gia vào chính trị của người dân
Quyền tham gia vào chính trị của người dân bao gồm các quyền bầu cử,
ứng cử, quyền tham gia điều hành các công việc xã hội – những quyền chính
trị cơ bản của công dân. Quyền này được ghi nhận lần đầu tiên trong Điều 21
UDHR, theo đó “mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình,
một cách trực tiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ được tự do lựa chọn.
Mọi người đều có quyền được tiếp cận dịch vụ công ở nước mình một cách
bình đẳng”. Điều này đã được tái khẳng định trong Điều 25 ICCPR và được
giải thích bằng Bình luận chung số 25 của Ủy ban Nhân quyền, theo đó các
quyền bầu cử, ứng cử có chủ thể là công dân của một nước, thay vì “mọi
người” như một số quyền con người khác. Quyền này có thể bị hạn chế bởi
các điều kiện liên quan đến độ tuổi và năng lực hành vi dân sự của cá nhân,
nhưng không thể bị hạn chế bởi các điều kiện liên quan đến khuyết tật thể
chất, trình độ, ngôn ngữ, tài sản, vị thế,…[11, tr.191].
Trong mối quan hệ với quyền tự do lập hội, Bình luận chung số 25 đã
khẳng định “quyền tự do biểu đạt, hội họp và lập hội là những điều kiện quan
trọng cho việc thực hiện có hiệu quả quyền bầu cử, do đó, cần được các quốc
gia bảo đảm đầy đủ”. Tự do biểu đạt, tự do thông tin, tự do lập hội và hội họp
giúp thông tin về các cuộc bầu cử được minh bạch, người dân có đầy đủ thông
tin về cuộc bầu cử cũng như có khả năng để vận động những người khác ủng
hộ quan điểm của mình [19, tr.32]. Đối với quyền tham gia điều hành các

công tác xã hội, tự do lập hội tạo ra môi trường để mọi người tham gia một

19


cách hòa bình vào quản lý và thực hiện các công việc của đất nước. Các hội
bên cạnh thực hiện các hoạt động của hội cũng thực hiện một số các hoạt
động do nhà nước giao phó hoặc được tài trợ bởi nhà nước.
1.3. Những yếu tố tác động và những điều kiện bảo đảm thực thi tự
do lập hội
Hoạt động lập hội đã đồng hành cùng chiều dài lịch sử loài người kể từ
khi con người xuất hiện. Ngay từ thời cổ đại tại Nhà nước Hy Lạp, con người
đã tự do lập hội và hội họp, tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật, tôn
giáo,… nhằm làm phong phú đời sống xã hội. Năm 1919, khi ILO ra đời cũng
là dấu mốc lịch sử đánh dấu quyền tự do lập hội (quyền của người lao động
được tự do thành lập và gia nhập công đoàn) được ghi nhận bởi pháp luật
quốc tế. Đến khi LHQ được thành lập và UDHR ra đời, quyền tự do lập hội
được ghi nhận là quyền của tất cả mọi người và được đảm bảo thực hiện bởi
tất cả các quốc gia thành viên của LHQ. Tuy nhiên, lịch sử và thực tiễn việc
thực hiện quyền này ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia lại rất khác nhau, phụ thuộc
vào nhiều yếu tố.
- Yếu tố chính trị
Quyền tự do lập hội được ghi nhận trong pháp luật quốc tế cũng như
Hiến pháp và pháp luật của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, cách hiểu và việc thực
thi quyền này của các quốc gia có sự khác nhau phụ thuộc vào quan điểm
chính trị của bộ máy chính quyền ở mỗi quốc gia.
Quyền tự do lập hội bao gồm cả quyền tự do thành lập các tổ chức
chính trị, tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế, cũng
như tất cả các hội, nhóm - nơi quần chúng nhân dân được tập hợp để tạo thành
sức mạnh tập thể. Trong một nhà nước dân chủ, việc tôn trọng các quyền tự

do cá nhân, trong đó có quyền tự do lập hội là nguyên tắc cơ bản cần được
tuân thủ. Tại các quốc gia dân chủ, quyền tự do lập hội được thực hiện rất sôi

20


×