CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954
mạng Tháng Tám 1945 thành
Một ngày sau khi đọc “Tuyên ngôn
công đã phá tan xiềng xích của chế độ thực
Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân
dân gần 87 năm cùng với chế độ phong kiến
chủ Cộng hòa, ngày 3-9-1945, tại Bắc Bộ
hàng ngàn năm, khai sinh ra nước Việt Nam
phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên
Dân chủ Cộng hòa. Nhà nước cách mạng
họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ.
ngay từ khi mới ra đời đã phải đối phó với
Trong phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
hàng loạt nguy cơ, thách thức, tưởng chừng
nêu lên sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà
khó vượt qua. Cách mạng nước ta ở vào
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đó là nguy
yêu cầu xếp chống nạn mù chữ là việc quan
cơ của “giặc đói”, “giặc dốt” và đặc biệt là
trọng thứ hai phải làm ngay chỉ sau việc
giặc ngoại xâm.
chống nạn đói. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
Cách
Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí
“Nạn dốt là một trong những phương pháp
Minh đã có những quyết sách đúng đắn,
độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị
sáng suốt trong việc phát huy các yếu tố
chúng ta. Hơn 90% đồng bào chúng ta mù
thuận lợi, hạn chế và vượt qua khó khăn,
chữ. Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học
bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng
đọc, học viết tiếng nước ta theo vần chữ
Tháng Tám. Trong đó, giáo dục - đào tạo
Quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc
được xác định là một trong những nhiệm vụ
yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch
trọng tâm của mục tiêu “kháng chiến - kiến
chống nạn mù chữ”1.
quốc”.
Hồ Chí Minh cũng đề nghị phải gấp
1. Từ năm 1945 đến năm 1954 là giai
rút chống lại nạn thất học cho toàn dân:
đoạn mà nhiệm vụ xoá nạn mù chữ và xây
“Muốn giữ vững được nền độc lập, muốn
dựng đội ngũ cán bộ phục vụ công tác kiến
làm cho dân mạnh, nước giầu mỗi người
thiết đất nước là những yêu cầu trọng tâm
Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình,
trước mắt đối với sự nghiệp giáo dục đào
bổn phận của mình, phải có kiến thức mới
tạo.
có thể tham gia vào công cuộc xây dựng
nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết
viết chữ quốc ngữ”1. Đề nghị này của Hồ
một phần ở công học tập của các em”3. Bức
Chí Minh được thông qua và trở thành
thư có ý nghĩa như một cương lĩnh giáo
quyết định của Hội đồng Chính phủ. Ngày
dục: Một nền giáo dục làm phát triển hoàn
8-9-1945, Chính phủ ban hành ba sắc lệnh
toàn những năng lực sẵn có của học sinh
về Bình dân học vụ: Sắc lệnh số 17/SL: “Đặt
Việt Nam.
ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt
Như vậy, ngay từ tháng 9-1945, Nhà
Nam”; Sắc lệnh số 19/SL: “Thiết lập cho
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đề ra
nông dân và thợ thuyền những lớp học bình
hai nhiệm vụ về giáo dục: Một là, đánh đổ
dân buổi tối”; Sắc lệnh số 20/SL: “Việc học
chính sách ngu dân, chống nạn mù chữ; hai
chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất
là, giáo dục lại nhân dân, chống các thói hư
tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một
tật xấu do chế độ cũ để lại, làm cho dân tộc
năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8
Việt Nam trở nên một dân tộc dũng cảm,
tuổi phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”2.
yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng
Ba sắc lệnh trên bổ sung cho nhau để trở
đáng với nước Việt Nam độc lập.
thành Đạo luật đầu tiên của nền giáo dục
Ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh ký
Việt Nam DCCH, có tác dụng làm chuyển
Sắc lệnh thành lập Ban Đại học Văn khoa;
biến quan niệm và nhận thức của các cấp
giữa tháng 10-1945, Hồ Chí Minh ký
chính quyền và các tầng lớp nhân dân đối
tiếp Sắc lệnh số 34/SL thành lập Hội đồng
với vấn đề học chữ Quốc ngữ.
cố vấn học chính.
Cũng vào ngày 8-9-1945, nhân ngày
Ngày 14-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí
tựu trường đầu tiên của nước Việt Nam mới,
Minh viết bài “Chống nạn thất học”. Lần
trong Thư gửi học sinh nhân ngày khai
đầu tiên ở Việt Nam có một chiến dịch
trường, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “…
chống nạn mù chữ rộng khắp cả nước. Bên
Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay
cạnh việc tổ chức các lớp Bình dân học vụ,
không, dân tộc Việt Nam có bước tới lâu
Chính quyền triển khai các lớp bổ túc văn
đài vinh quang để sánh vai với các cường
hoá, tiến hành song song với việc thanh
quốc năm châu hay không, chính là nhờ
toán nạn mù chữ. Đây là hình thức vừa làm,
vừa học, mà trọng tâm là chiến đấu và sản
Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật cũng là
một mặt trận, Sđd, tr. 123.
2 Việt Nam quốc dân công báo, số 1, ngày 29-91945.
1
xuất. Hệ thống bổ túc văn hoá cũng dựa
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2000, tập 4, tr.32-33.
theo hệ thống trường phổ thông trong việc
hết cho cán bộ. Trường Đảng Nguyễn Ái
chia cấp học, nhưng về chương trình có
Quốc được thành lập và tiến hành những
khác ở hai điểm cơ bản: Yêu cầu của người
lớp học tập chính trị để nâng cao trình độ lý
lớn khác với yêu cầu của thanh niên; bổ túc
luận chính trị của cán bộ. Các trường Phổ
văn hoá là dạy cho những người vừa làm,
thông Lao động cũng được thành lập.
vừa học.
Giáo dục không chỉ dừng lại ở trình
Nhận thức đầy đủ tính chất khó khăn
độ bình dân học vụ, xoá nạn mù chữ, mà
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ngay từ năm 1947-1948, ngành giáo dục đã
phải thực hiện ngay trong những ngày đầu
xây dựng bậc bình dân học vụ cho người
thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
lớn bao gồm:
coi trọng “người tài” và nêu cao sự quan
trọng của việc trọng dụng nhân tài. Sau
tuyên ngôn độc lập chưa đầy ba tháng, ngày
14-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
bài viết “Nhân tài và kiến quốc”. Ở đây
Người nhấn mạnh: “Kháng chiến phải đi
đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi
thì kiến quốc mới thành công, kiến quốc có
- Sơ cấp bình dân học vụ: Biết đọc,
biết viết.
- Dự bị bình dân học vụ: Tương
đương với hết tiểu học 2 năm.
- Bổ túc bình dân cấp I: Tương
đương với hết tiểu học 4 năm.
- Bổ túc bình dân cấp II: Tương
đương với hết trung học cơ sở 4 năm.
chắc thành công, kháng chiến mới mau
Tháng 4-1947, Hội nghị cán bộ
chóng thắng lợi. Kiến thiết cần có nhân
Trung ương lần thứ 4 đã chỉ ra những
tài”4.
phương hướng chính cho giáo dục là:
Cuối năm 1946, khi cuộc kháng
Chương trình học phải thiết thực, nhằm đào
chiến toàn quốc bùng nổ, phong trào Bình
tạo nhân tài cho kháng chiến ở tất cả mọi
dân học vụ vẫn tiếp tục được phát triển với
lĩnh vực; học sinh phải vừa học vừa sản
khẩu hiệu: “Mỗi lớp bình dân học vụ là một
xuất, tự túc một phần; tiếp tục phát triển
tổ tuyên truyền kháng chiến”, “Chống mù
bình dân học vụ; chú ý mở trường ở vùng
chữ, chống xâm lăng”. Đồng thời với Bình
có dân tộc thiểu số. Nói cách khác, “phương
dân học vụ, Bổ túc văn hoá, những trường
hướng chính của toàn ngành giáo dục lúc
tập trung đầu tiên cũng được mở ra, trước
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2000, tập 4, tr. 99.
này là công việc giáo dục phải thích hợp với
huấn luyện và học tập. Về đối tượng huấn
thời kỳ kháng chiến”5.
luyện, Người xác định gồm: (i) cán bộ; (ii)
Tháng 1-1948, Hội nghị mở rộng
hội viên của Đoàn thể; (iii) cán bộ các ngành
BCHTƯ Đảng đã chỉ rõ mục đích của giáo
chuyên môn của chính quyền; (iv) nhân dân.
dục là phải phục vụ kháng chiến và kiến
Lý giải việc nhấn mạnh “cán bộ trước hết”,
quốc; đồng thời đề ra những biện pháp cần
Người cho rằng: “vì cán bộ là tiền vốn của
thiết để thực hiện tốt nhiệm vụ nêu trên.
Đoàn thể”.
Tiếp theo đó, Nghị quyết của Hội nghị cán
Như vậy, xuyên suốt thời kỳ đầu
bộ Trung ương ngày 20-5-1948 nhấn mạnh
kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
thêm các công tác cấp thiết mà ngành giáo
và Nhà nước VNDCCH đã có chủ trương
dục phải làm ngay (chỉnh đốn giáo dục, sửa
từng bước cải cách, đổi mới nền giáo dục,
chữa lại chương trình giáo dục các cấp, mở
nhằm phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến
thêm trường…), trong đó đặc biệt chú trọng
quốc. Nằm trong yêu cầu ấy, nhiệm vụ và
đến vấn đề bình dân học vụ. Trong thư gửi
chức năng của giáo dục cũng được xác định
Hội nghị giáo dục toàn quốc tháng 7-1948,
rõ rệt. Về cơ bản, đó là sự kế tục và phát
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khi chỉ rõ mục
triển những quan điểm về một nền giáo dục
tiêu “cần phải có một nền giáo dục kháng
mới của nước Việt Nam mới những năm 1945-
chiến và kiến quốc”6, đã một lần nữa nêu lên
1946.
các nhiệm vụ cấp thiết mà giáo dục phải tiến
2. Năm 1950, cuộc kháng chiến của
hành ngay: sửa đổi triệt để chương trình giáo
chống Pháp đã lớn mạnh về mọi mặt. Đây
dục cho phù hợp với sự nghiệp kháng chiến
là lúc cả dân tộc bước vào giai đoạn quan
kiến quốc; sửa đổi cách dạy và học; đào tạo
trọng của cuộc kháng chiến. Với đà thắng
cán bộ; tiếp tục đẩy mạnh bình dân học
lợi chung, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ
vụ…. Tháng 5-1950, trong bài viết “Nói về
Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ
công tác huấn luyện và học tập” 7 . Chủ tịch
đã quyết định tiến hành cuộc cải cách giáo
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò của công tác
dục lần thứ nhất (1950). Nội dung chính của
bản Đề án cải cách giáo dục là nhằm cải tạo
5 Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục , Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 88.
6 Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục, Sđd, tr.
24.
7 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2000, tập 6, tr.50-51.
nhà trường được xây dựng theo mô hình
giáo dục Pháp thành nhà trường phục vụ
kháng chiến, kiến quốc. Nói cách khác, cần
phải xây dựng một nền giáo dục thực sự
thức khoa học cơ bản có hệ thống, có tính
mang tính chất dân chủ nhân dân. Nền giáo
chất tiên tiến và phù hợp với yêu cầu của
dục mới là nền giáo dục của dân, do dân và
cuộc kháng chiến.
vì dân, triệt để dựa ba trên nguyên tắc “Dân
tộc, khoa học và đại chúng”.
Tư tưởng chỉ đạo của cuộc cải
Đội ngũ giáo viên cũng được chuẩn
bị bằng việc mở các trường và lớp sư phạm
ở Trung ương và các Khu.
cách là: Xác định rõ tinh thần cách mạng của
Cơ cấu nhà trường cải cách gồm có:
nền giáo dục mới và tính chiến đấu của nó, để
Hệ phổ thông 9 năm và hệ thống giáo dục
chống lại quan niệm giáo dục “trung lập” còn
bình dân, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục
khá phổ biến trong đội ngũ cán bộ, giáo viên
cao đẳng và đại học, trong đó hệ thống giáo
và trong nhiều tầng lớp nhân dân. Một số
dục được kết cấu như sau:
môn học mới được đưa vào nhà trường: Thời
sự - chính sách, giáo dục dục công dân, tăng
gia sản xuất… Do điều kiện kháng chiến, do
thiếu thầy và vì chưa thật cần thiết, nên giảm
một số môn: Ngoại ngữ, nhạc, vẽ, nữ công
gia chánh….
Mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục
là xây dựng trường học phổ thông duy nhất
Sơ cấp bình dân: 4 tháng học, dạy
cho người chưa biết chữ.
Dự bị bình dân: 4 tháng học, dạy
ngang trình độ lớp 3.
Bổ túc bình dân: 8 tháng học, dạy
ngang trình độ lớp 8.
Hệ
thống
giáo
dục
chuyên
nghiệp gồm:
9 năm. Thời gian học được rút ngắn: từ 12
Chuyên viên sơ cấp: Lấy học sinh
năm xuống còn 9 năm và chia làm ba cấp:
học xong cấp 1 hoặc bổ túc bình dân vào
cấp I (4 năm); cấp II (3 năm); cấp III (2
học nghề.
năm), nhưng vẫn đảm bảo tính chất liên tục.
Chuyên viên trung cấp: Lấy học sinh
Học sinh phổ thông, sau khi tốt nghiệp
đã học xong lớp 7 hoặc trung cấp vào học
muốn vào đại học phải qua lớp dự bị đại
1-2 năm cho sơ cấp, 2-4 năm cho trung cấp,
học là một năm.
tuỳ theo từng nghề.
Phương châm giáo dục là học đi đôi
với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.
Chương trình học và sách giáo
khoa cũng được xây dựng lại với các kiến
Dự bị đại học: 1-2 năm.
Đại học và Cao đẳng: 3-6 năm.
Biên chế năm học: Từ 1-1 đến 31-12,
kỳ tiến hành song song hai mặt công tác:
học hai kỳ, mỗi kỳ học 4 tháng. Hai đợt
Vừa tiếp tục đẩy tới việc xoá nạn mù chữ,
nghỉ mùa, mỗi đợt 2 tháng.
vừa bước đầu đẩy mạnh công cuộc bổ túc
Như vậy, cuộc cải cách giáo dục
1950 được thực hiện một cách toàn diện,
văn hoá, nỗ lực phục vụ các nhiệm vụ chính
trị lớn.
sâu rộng trong toàn bộ công tác giáo dục và
Một đặc điểm nổi bật của bình dân
ở tất cả các mặt. Cuộc cải cách giáo dục
học vụ thời kỳ này là nỗ lực đi sát hơn với
1950 đã thổi vào ngành giáo dục một sức
những yêu cầu của kháng chiến và kiến
sống mới, đặt nền tảng cho cho việc xây
quốc, trong đó có mục tiêu nâng cao trình
dựng một nền giáo dục dân chủ mới của
độ văn hoá cho cán bộ công nông và phục
nước Việt Nam với ba bộ phận cơ bản: Giáo
vụ cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm. Một
dục thế hệ trẻ, nâng cao trình độ văn hoá
đóng góp khác của bình dân học vụ là phục
của nhân dân lao động và đào tạo cán bộ.
vụ phát động quần chúng giảm tô và cải
Tuy còn một số hạn chế nhất định, nhưng đã
cách ruộng đất, đề ra phương hướng tích
có được những thành quả bước đầu, đáp
cực phục vụ xoá bỏ tình trạng bóc lột ở
ứng được yêu cầu đặt ra lúc bấy giờ.
nông thôn; giáo dục và rèn luyện, bồi dưỡng
3. Trong điều kiện cuộc kháng chiến
văn hoá cho cán bộ xuất thân từ nông dân
đang có những bước phát triển về chất, một
lao động. Cũng cần nhận thấy rằng, trong
công tác được Đảng và Chính phủ tích cực
các đợt phát động giảm tô, có lúc phong
chú trọng đó là đẩy mạnh bình dân học vụ
trào bình dân học vụ bị giảm sút, nhưng sau
và bổ túc văn hoá.
đó đã được chấn chỉnh và tiếp tục phát triển.
Tính đến tháng 6-1950, số người
Tháng 2-1954, Hội nghị giáo dục
được xoá nạn mù chữ trong cả nước lên tới
toàn ngành họp và đã đề ra cho bình dân
hơn 10 triệu người. Đại đa số họ được học
học vụ những phương hướng và nhiệm vụ
qua lớp dự bị bình dân để thoát nạn mù chữ
cơ bản. Hội nghị tập trung bàn về việc phục
một cách chắc chắn và có kiến thức thường
vụ phát động quần chúng giảm tô và thực
dùng phục vụ kháng chiến và nâng cao đời
hiện cải cách ruộng đất, tuyên truyền chính
sống văn hoá. Tình hình này đã tạo thuận
sách ruộng đất và vai trò của nhà trường
lợi cho công tác bình dân học vụ. Từ năm
trong cải cách ruộng đất. Hội nghị nhấn
1951, bình dân học vụ đã chuyển sang thời
mạnh hai nhiệm vụ trọng tâm của ngành
trong thời gian sau đó là: 1- Bổ túc văn hoá
tương lai tốt đẹp với những giá trị đích thực
cho cán bộ công nông, chủ yếu là cán bộ
của hạnh phúc, tự do.
chính quyền và đoàn thể xã; 2- Đề cao chất
Nhìn lại chặng đường 1945 - 1954,
lượng của ngành giáo dục, chủ yếu là ngành
có thể khẳng định rằng, với di sản tư tưởng,
giáo dục phổ thông.
chỉ đạo Chủ tịch Hồ Chí Minh, với với
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống
đường lối, chủ trương, sự nỗi lực của Đảng,
thực dân Pháp xâm lược kết thúc bằng
Nhà nước và ý thức làm chủ đất nước của
thắng lợi của chiến thắng Điện Biên Phủ.
nhân dân, lĩnh vực giáo dục đã gặt hái được
Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Việt Nam
những thành tựu đáng kể, góp phần xứng
bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ
đáng vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc
chính trị khác nhau. Cách mạng Việt Nam
trong cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ,
bước vào giai đoạn mới.
gian khổ, cam go. Nền giáo dục mới của
4. Kết luận
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một
Hồ Chí Minh vạch ra con đường,
nền giáo dục phục vụ mục tiêu “kháng
Người cũng chỉ cho chúng ta công cụ cơ
chiến, kiến quốc”, đáp ứng được những yêu
bản để thực hiện. Điều cốt yếu là chúng ta
cầu thực tiễn của một giai đoạn lịch sử hào
thẩm thấu những tư tưởng đó như thế nào
hùng của dân tộc, với những thành tích to
và vận dụng một cách sáng tạo trên hành
lớn, với bước tiến dài chưa từng có.
trình đầy khó khăn, thử thách để đạt tới một
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6.
4. Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, 1981.
5. Việt Nam quốc dân công báo, số 1, ngày 29-9-1945.