Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Quan điểm và giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.56 KB, 26 trang )

Quan điểm và giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực
của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở việt nam hiện nay
1. Quan điểm nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn
chế tác động tiêu cực của xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời
sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
tôn giáo, vận dụng đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn
giáo và mối quan hệ giữa tôn giáo và xã hội, luận án xin đưa ra một số quan điểm có
tính chất nguyên tắc nhằm phát huy những tác động tích cực của một số xu hướng
biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay
1.1. Phát huy những giá trị tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của xu
hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Thực tế cho thấy, tôn giáo không chỉ có vai trò quan trọng đối với đời sống tinh
thần của một bộ phận quần chúng nhân dân mà còn đóng vai trò rất lớn vào hoạt động
kinh tế. Sự tác động này vừa trực tiếp và vừa gián tiếp.
Tác động trực tiếp, như đã trình bày ở phần thực trạng, đó là kinh tế tôn giáo
đang hoạt động rất mạnh mẽ, dưới các dạng thức: Dịch vụ tâm linh, hàng hóa hóa tâm
linh (đồ ăn thức uống, trang phục phục vụ cho các tôn giáo), du lịch tâm linh,… sự
đóng góp của nó vào nền kinh tế Việt Nam cụ thể là bao nhiêu, chưa có một điều tra,
thống kê nào thực hiện điều này. (Một trung tâm thống kê xã hội học Mỹ đã thống kê
được con số mà tôn giáo đóng góp khoảng 1.200 tỷ USD vào GDP của nước Mỹ mỗi
năm. Con số này bằng sự đóng góp của 10 công ty lớn nhất của Hoa Kỳ cộng lại, bằng
xấp xỉ tổng GDP của 15 quốc gia trung bình trên thế giới – ý kiến của B.Grim trong
Hội thảo Quốc tế “Kinh tế tôn giáo trong Cộng đồng ASEN” ngày 24, 25 tháng 10
năm 2017 tại Trường Đại học Khoa học xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội).
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhìn thấy sự tham gia vào đời sống kinh tế của những hoạt
động tôn giáo trong những hoạt động du lịch tâm linh như: Bái Đính – Tràng An, Yên
Tử - Hạ Long, Tây Thiên – Tam Đảo,…các hàng hóa tâm linh cũng được buôn bán,


trao đổi: tranh, ảnh, tượng,…Trong tương lai gần, những hoạt động ngày càng trở nên


mạnh mẽ, gắn với sự trở lại của tâm thức tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt Nam.
Sự tác động gián tiếp của tôn giáo lên đời sống kinh tế, đó chính là tác động
đến thái độ lao động, đạo đức kinh doanh, sự điều tiết các ham muốn lợi nhuận, ham
muốn mục đích của các cá nhân khi tham gia vào đời sống kinh tế. Đây là sự tác động
mặc dù gián tiếp nhưng lại rất mạnh mẽ vào mục tiêu, định lượng hệ giá trị kinh
doanh. Một nền kinh tế nếu chịu sự tác động bởi những nguyên tắc đạo đức tôn giáo
sẽ tạo ra sự phát triển hài hòa. Phát triển kinh tế gắn với giá trị đạo đức, văn hóa tôn
giáo là sự phát triển bền vững không chỉ đối với kinh tế mà còn đối với văn hóa, xã
hội nói chung.
Mỗi một tôn giáo đều có những giá trị riêng của đời sống đức tin. Nếu Phật giáo
chủ trương “không”, bởi giáo lý “sắc - không”, bởi nhân quả, nghiệp báo,… thì chắc
chắn, những tín đồ Phật tử khi tham gia kinh doanh, buôn bán cũng luôn chú trọng đến
việc “tích đức” cho đời sau và cho con cái. Nếu như vậy, quả thật là đáng quý, bởi đức
tin tôn giáo như một sợi dây vạch giới hạn cho những ham muốn vật chất tầm thường
của con người. Con người sẽ không phải vì những gì không thuộc về mình để có thể
đánh mất đi sự “thanh thản trong lương tâm”, điều này tưởng như dẫn con người ta rơi
vào một mâu thuẫn giữa một bên là khuyến khích làm việc lương thiện còn một bên thì
chạy đua theo cuộc sống vật chất. Vậy tôn giáo có kìm hãm phát triển kinh tế không?
Câu trả lời chắc chắn là không, bởi vì, các tôn giáo cũng đều khuyến khích tín đồ làm
kinh tế, làm giàu cho bản thân mình và làm giàu cho xã hội. Tuy nhiên, cái cách làm
giàu của người tôn giáo đòi hỏi tín đồ của mình phải thực hiện theo các giới răn, theo
giáo lý của mình nên động cơ thúc đẩy làm kinh tế sẽ được kiểm soát bằng những giáo
lý, giáo luật. Điều này góp phần rất lớn vào việc điều chỉnh hành vi kinh doanh, động cơ
làm kinh tế, không phải chỉ cho bản thân mình nữa mà cho toàn xã hội. Chính vì vậy, nếu
kết hợp được mục tiêu phát triển kinh tế gắn với các hoạt động kinh tế trong hoạt động
tôn giáo thì sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế một cách bền vững.
Số người cần được hưởng những chính sách công từ dịch vụ y tế: những người
nghèo, người già không nơi nương tựa, những vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên



bị thiên tai lũ lụt,… trên đất nước ta rất lớn. Ở đó, việc cung cấp các dịch vụ giáo dục,
tư vấn chăm sóc sức khỏe, chăm sóc đời sống tâm lý,.. của các tín đồ diễn ra thường
xuyên. Những khủng hoảng về văn hóa, tâm lý do quá trình toàn cầu hóa và quá trình
công nghiệp hóa cũng đang là những nguy cơ tiềm ẩn, gây bất an, hoang mang trong
đời sống tinh thần của một bộ phận người trẻ cũng như người già ở Việt Nam. Đây
chính là đối tượng đang có nhu cầu khao khát cần những dịch vụ chăm sóc về đời sống
tinh thần và đời sống vật chất.
Mục đích của các tôn giáo là “giải thoát”, là “cứu thế”. Những hoạt động từ thiện
là những hoạt động gắn với tôn giáo, phù hợp với nội dung giáo lý, cách hướng con
người đến cái Chân, Thiện, Mỹ, chăm lo đời sống tinh thần, đời sống vật chất cho con
người. Các tổ chức Phật giáo Việt Nam, Công giáo Việt Nam và các Hội thánh Tin
Lành ở Việt Nam trong những năm qua đã không ngừng làm công tác từ thiện, các dịch
vụ công, giúp đẩy mạnh các hoạt động an sinh xã hội.
Mỗi một chức sắc tu hành của Phật giáo hay Công giáo, Tin Lành cũng là
những người đứng đầu trong các hoạt động an sinh xã hội, an ninh tâm linh. Họ có
khả năng nhập vai rất lớn, có lúc vai trò như một nhân viên Công tác xã hội trong việc
tư vấn tâm lý cho những tín đồ của mình khi gặp phải những khó khăn trong công
việc, trong cuộc sống. Có khi, lại là người đi tiên phong đứng ra kêu gọi ủng hộ, giúp
đỡ trong các chương trình thiện nguyện giúp đỡ những người yếu thế, những người
gặp khó khăn. Có thể nói, sức ảnh hưởng của các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong việc
kêu gọi các hoạt động thiện nguyện cũng như an sinh xã hội là rất lớn.
Mỗi tín đồ của các tôn giáo là những người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia đóng
góp vào các hoạt động an sinh xã hội. Họ cũng sẵn sàng cùng các vị chức sắc trong tôn
giáo mình đứng ra tổ chức các hoạt động thiện nguyên, thậm chí, tự đứng ra để đóng góp
cho các hoạt động này. Có thể nói, hoạt động của các tôn giáo và an sinh xã hội luôn gắn
liền với nhau. Trong cách hiểu ngày nay, an sinh xã hội như một chức năng của tôn giáo
hiện đại. Các tổ chức cũng như tín đồ các tôn giáo đã tích cực hưởng ứng đường lối, chủ
trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt phương châm sống “tốt đời
đẹp đạo”, “Sống Phúc âm trong lòng dân tộc”,…


Điều này được khẳng định trong Văn


kiện Đảng lần thứ XII của Đảng ta: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.
Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều
lệ của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật,
đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước” 1. Vì vậy cần có những
chính sách để khuyến khích các tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia các hoạt động an sinh
xã hội, coi an sinh xã hội là mục đích, phương tiện tu hành của đời sống thực hành tôn
giáo, có như vậy, sẽ phát huy được vai trò cũng như những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và
hạn chế những tác động tiêu cực, làm cho tôn giáo đóng góp vào đời sống xã hội ngày
càng thiết thực, có ý nghĩa hơn.
1.2. Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đồng thời chống lợi dụng tôn giáo
thực hiện các âm mưu chính trị phản động
Khi thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài, trước tiên quan niệm coi tôn giáo là
“mê tín dị đoan” cần phải loại bỏ, thay vào đó bằng nhận thức: “tôn giáo còn là nhu cầu
của một bộ phận nhân dân”, các tôn giáo cũng có thể đồng hành cùng với chủ nghĩa xã
hội, “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện
nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống
việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích Tổ quốc và nhân dân” 2. Tinh thần
này được khẳng định ở Đại hội Đảng lần thứ VIII: “Về tôn giáo, thi hành nhất quán
chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào
của công dân”3. Khẳng định quyền bình đẳng của các tôn giáo, khẳng định Việt Nam
không có tôn giáo nào chiếm vị trí chủ lưu, cũng tức là khẳng định Nhà nước hoàn toàn
đóng vai trò trung lập giữa các tôn giáo: “Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật Nhà nước. Nghiêm
cấm việc xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.165

2 Trần Văn Phòng (chủ biên) (2017), Một số vấn đề triết học trong các Văn kiện Đại hội XII của Đảng, Nxb Lý luận
Chính trị, Hà Nội, tr.115
3 Đảng Cộng sản Việt Nam (1996) Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.126


làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” 4. Có thể nói, đây là một sự chuyển
biến quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. nhận
thức này đã xóa bỏ được tình trạng phân biệt, đối xử với người có tôn giáo với người
không theo tôn giáo, để từ đó có thể thực hiện được nhất quán chính sách tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân, từ đó phát huy được những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, góp phần tạo ra khối đại đoàn kết tôn
giáo, đại đoàn kết dân tộc nhằm thúc đẩy sự ổn định chính trị, kinh tế, phát triển đất
nước. Sự kiên trì trong quan điểm của Đảng ta về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trước
những biến đổi lớn của tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội trong nước cũng
như quốc tế càng khẳng định thêm tính đúng đắn trong nhận thức của Đảng ta nhằm:
“Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc hoặc những hoạt động
tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật” 5.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội ban hành và có hiệu lực là những hướng
dẫn cụ thể hơn quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề tôn giáo, giúp các tôn giáo có
thể phát huy được vai trò của mình đối với đất nước và xã hội, đồng thời giúp các cơ
quan quản lý tôn giáo tốt hơn, có thể ngăn ngừa trước những hành vi lợi dụng tôn giáo
để xâm lược, phá hoại đất nước của kẻ thù.
1.3. Đảm bảo lợi ích dân tộc và hòa bình quốc tế qua các quan hệ tôn giáo Việt
Nam và các tổ chức tôn giáo quốc tế
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hóa của chúng ta không ngừng
được mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu (trên tất cả các lĩnh vực văn hóa, chính trị,
kinh tế và tôn giáo). Tôn giáo là một nhân tố thúc đẩy và mở rộng quan hệ quốc tế bởi
những giá trị nhân văn. Thực tế đã chứng minh trong những năm qua, nhờ những quan hệ
trong hợp tác về tôn giáo cũng giúp cho việc mở rộng các quan hệ chính trị, kinh tế

4 Đảng Cộng sản Việt Nam (1996) Văn Kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.126
5 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.165


(trong đó đặc biệt phải nói đến du lịch) và văn hóa của Việt Nam với bạn bè năm châu.
Qua các diễn đàn Đại hội các nhà lãnh đạo tôn giáo trên thế giới cũng như những sự
kiện tôn giáo được tổ chức ở trong nước cũng như khu vực, một giá trị mới trong đời
sống tôn giáo hiện đại đó chính là xu hướng đối thoại tôn giáo. Xu thế này giúp giảm
bớt những khác biệt về tôn giáo, chính trị, giảm bớt được thái độ kỳ thị cũng như lợi
dụng những sự bất đồng giữa các tôn giáo để lôi kéo, trở thành những vấn đề nóng của
chính trị.
Khi các tôn giáo có thể đối thoại với nhau cũng là lúc sự khác biệt về đức tin tôn
giáo được tôn trọng. Đại hội lần thứ 3 của các nhà lãnh đạo tôn giáo trên thế giới tổ chức
tại Astana (vào đầu tháng 7 năm 2009) gồm các tiểu ban: 1) Các giá trị đạo đức và tinh
thần; 1) Công bằng, hòa bình và an ninh; 3) Môi trường xung quanh và sự hài hòa; 4) Đối
thoại và Hợp tác; 5) Tình đoàn kết trong thời kỳ khủng hoảng. Như vậy, hoạt động của 5
Tiểu ban này nhằm tập trung theo đuổi mục tiêu để ổn định hòa bình thế giới: ủng hộ và
tạo điều kiện cho các nỗ lực của các nhà lãnh đạo và các tổ chức tôn giáo trong việc thiết
lập các cuộc đối thoại liên tôn giáo đích thực, ủng hộ đối thoại giữa các tôn giáo và các
nền văn minh nhằm cải thiện sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau. Đây được xem như là
một nhân tố tạo nên sự sự đoàn kết thế giới.
Đại hội quốc tế Phật giáo Vesak được tổ chức ở Việt Nam 2 lần liên tiếp, năm
2008 ở Hà Nội và năm 2014 ở Ninh Bình và dự kiến tháng 5 năm 2019 sẽ tổ chức lần
thứ 3 ở Hà Nam, là một hoạt động gây tiếng vang lớn trong cộng đồng Phật giáo thế
giới. Thế giới không chỉ biết đến Phật giáo Việt Nam mà thông qua những hoạt động
có tính chất quốc tế này, Phật giáo Việt Nam cũng khẳng định được vị thế trên thế
giới, đồng thời thông qua đó, thế giới sẽ biết đến văn hóa con người, đất nước Việt
Nam.
Thông qua quan hệ quốc tế về tôn giáo, tiếng nói của Việt Nam cũng được vươn

cao trên tầm quốc tế. Đây là những cứ liệu quan trọng, là tiếng nói thể hiện thái độ ủng
hộ hòa bình, phản đối chiến tranh của các tôn giáo. Ví dụ, năm 2008, khi Công giáo thế
giới tổ chức “Ngày giới trẻ quốc tế” (WYD) ở Australia, Hồng y Phạm Minh Mẫn đã gửi
thư đến cho đoàn Việt Nam: WYD ba lần trước ở Pháp, Đức, Canada đều có một sự kiện


mà một số bạn trẻ ở một số nơi coi như một sự tắc nghẽn con đường hiệp thông của các
bạn trẻ Việt Nam. Sự cố đó là lá cờ vàng ba sọc đã được giăng lên trong lúc các bạn trẻ
Việt Nam đến từ nhiều châu lục quy tụ lại để cử hành phụng vụ hay sinh hoạt chung
(Theo Phạm Huy Thông trong Hội thảo “Những chuyển biến quan trọng của đời sống tôn
giáo ở Việt Nam từ năm 1990 đến nay” tại Viện Nghiên cứu Tôn giáo, tháng 12 năm
2017). Từ đó chúng ta thấy được, các hoạt động tôn giáo sẽ là nhân tố giúp củng cố vị
thế của Việt Nam trên thế giới, đồng thời thể hiện rõ thái độ, quan điểm của Việt Nam là
một quốc gia yêu chuộng hòa bình, coi trọng nhân phẩm, quyền con người, trong đó có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người.
Vì vậy, trong quan hệ ngoại giao cũng như trong đường hướng hoạt động của
các tôn giáo, chúng ta phải biết vận dụng khéo léo vấn đề tôn giáo và quan hệ quốc tế,
một mặt thúc đẩy quan hệ ngoại giao của Việt Nam đối với các nước trên thế giới, mặt
khác, thúc đẩy sự phát triển của các tôn giáo, làm cho các tôn giáo của Việt Nam có
cơ hội để phát triển ra thế giới, thông qua đó góp phần củng cố sự ổn định chính trị,
hòa bình của Việt Nam.
2. Một số giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế tác động
tiêu cực của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay
2.1. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng và các cấp chính quyền về các xu
hướng biến đổi tôn giáo hiện nay
Các xu hướng biến đổi tôn giáo Việt Nam cũng như thế giới đang diễn ra phức tạp
Cần phải thấy rằng, hiện nay, các xu hướng biến đổi tôn giáo đang diễn ra mạnh
mẽ, có những xu hướng khác nhau tùy thuộc vào từng bối cảnh cụ thể. Sự xuất hiện
của những xu hướng này là kết quả tác động của hàng loạt các nhân tố, từ kinh tế,

chính trị, đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam cũng như những tác động của đời
sống tôn giáo thế giới.
Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy, hai xu hướng đa dạng hóa tôn
giáo và thế tục hóa tôn giáo được coi là hai xu hướng biến đổi chủ lưu, tuy nhiên, trong
thời gian tới, cùng với sự phát triển của xã hội công nghiệp và sự tự ý thức cá nhân, khi


mà con người sẽ dần rút khỏi không gian sinh hoạt tôn giáo chung sẽ dần lui vào đời sống
cá nhân thì xu hướng cá nhân hóa tôn giáo có thể sẽ là xu hướng chủ đạo, chi phối đời
sống tôn giáo của Việt Nam. Nếu điều này xảy ra, chắc chắn rằng, những hiện tượng tôn
giáo cá nhân, ảnh hưởng của cá nhân trong hoạt động tôn giáo sẽ tăng lên nhanh chóng
và phổ biến. Vì vậy, đối với hoạt động tôn giáo, các cấp ủy đảng, chính quyền cần nhìn
nhận sự biến đổi tôn giáo là một tất yếu cũng với sự biến đổi của các yếu tố xã hội, có
dự báo đúng xu hướng vận động, biến đổi của tôn giáo, giúp cho việc hoạch định các
chính sách phát triển tôn giáo cũng như chủ động ứng xử với những tình huống liên
quan đến tôn giáo dựa trên sự hài hòa giữa tôn giáo và chính trị, bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo của công dân, nhưng cũng đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp
luật, giữ vững được định hướng cũng như sự lựa chọn của Đảng cộng sản Việt Nam.
Khi thừa nhận các xu hướng biến đổi tôn giáo đang diễn ra mạnh mẽ, các cấp
ủy Đảng cũng có thể dự báo được khuynh hướng phát triển, khả năng tác động và ảnh
hưởng theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, từ đó có những biện pháp có tính chất
ngăn ngừa kịp thời, tránh được những hậu quả ngoài ý muốn, gìn giữ được trật tự, an
toàn xã hội.
Nâng cao cảnh giác cho các cấp ủy Đảng trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi
dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện âm mưu và hoạt động “Diễn biến hòa bình”
Đời sống tôn giáo hiện nay dưới tác động của các xu hướng biến đổi tôn giáo
đang diễn ra những diễn biến rất phức tạp. Các hiện tượng tôn giáo, đặc biệt là các
sự kiện và nhân vật tôn giáo thường được lồng ghép trong các sự kiện chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội khác hòng làm mất niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng, chính quyền. Trong thực tế, đã không ít những sự kiện các thế lực thù

địch lợi dụng tôn giáo như một vũ khí nhân quyền, chính trị lợi hại nhằm công kích
sự lãnh đạo của Đảng, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân, để nhân dân có
những hình ảnh xấu về chế độ, chính sách và cá nhân một số các đồng chí lãnh đạo
cấp cao. Chính vì vậy, trong nhận thức của cấp ủy Đảng các cấp phải không ngừng
giáo dục, nâng cao trình độ hiểu biết cũng như thái độ ứng xử tỉnh táo trước những
hiện tượng tôn giáo. Đặc biệt, trong những năm gần đây, vấn đề Tin Lãnh và các Hệ


phái Tin Lành, khi xâm nhập vào các vùng kinh tế Việt Nam, đặc biệt là vấn đề “ba
Tây” (Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ), các âm mưu lợi dụng diễn biến hòa
bình đã theo chân các hệ phái Tin Lành, thông qua vai trò của điểm trưởng, nhóm
trưởng để tuyên truyền, duy trì và củng cố sự lớn mạnh của chúng ở Việt Nam. Tin
Lành ngày nay với thế mạnh về các hoạt động kinh tế, các hoạt động cứu trợ, viện
trợ nước ngoài để chi phối hoạt động của một số công ty, một số lĩnh vực. Cũng
chính nhờ nguồn tài chính dồi dào, các hệ phái Tin Lành hiện nay đang tổ chức,
tuyên truyền, lôi kéo những người chưa theo tôn giáo hoặc những người theo các tôn
giáo khác gia nhập vào các hệ phái Tin Lành. Thậm chí, các tín đồ nước ngoài cũng
đang chịu sức hút mạnh mẽ, bởi lực lượng mục sư hùng hậu, được đào tạo khá bài
bản, lại có lòng “sùng đạo”, tận hiến cho Thiên Chúa. Tầng lớp trí thức, học sinh,
sinh viên và những công chức tại các thành phố lớn đang là đối tượng lôi kéo, dụ dỗ
của các hệ phái Tin Lành. Họ có những hình thức cổ động, tuyên truyền khá mới mẻ
và hấp dẫn, đi vào từng hoàn cảnh, tâm lý của quần chúng để thông qua đó chiếm
lĩnh được cảm tình, niềm tin và sự đồng ý thực hiện phép Bắp têm. Các cấp ủy Đảng
cần nhận thức rằng, sở dĩ Tin Lành có sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian vừa qua
xuất phát từ chính đặc điểm thần học của Tin Lành (khẩu hiệu: chỉ tin vào Kinh
Thánh, chỉ tin vào Thiên Chúa, chỉ tin vào Ân sủng) và nguyên tắc tổ chức của Hội
thánh (Tự dưỡng, tự diễn, tự giáo). Khi nhận thức được điều đó, bản thân các cấp ủy
Đảng sẽ không lúng túng trong việc nhận biết cũng như phân biệt các hệ phái Tin
Lành với các hệ phái gần với nó hoặc các giáo phái, các “Hiện tượng tôn giáo mới”,
từ đó có thể xây dựng một chính sách về tôn giáo cho phù hợp với những điều kiện

và hoàn cảnh đặc thù của từng tôn giáo khi cùng được tạo điều kiện bình đẳng để
phát triển ở Việt Nam.
Nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về các hiện tượng tôn
giáo mới
Kết quả của những xu hướng biến đổi tôn giáo hiện nay ở Việt Nam cũng như
trên thế giới đã dẫn đến một thực trạng đó là ở Việt Nam xuất hiện rất nhiều các Hiện
tượng tôn giáo mới. Các Hiện tượng tôn giáo mới nếu như trước đây chỉ xuất hiện chủ


yếu ở các vùng nông thôn, những vùng quê nghèo, trình độ dân trí thấp thì nay đã xuất
hiện phổ biến ở các thành phố lớn, có đủ các tầng lớp nhân dân tham gia, thuộc nhiều
hệ phái khác nhau. Có những tôn giáo được pha trộn với Phật giáo, có Hiện tượng được
pha trộn với Ki tô giáo và cũng có rất nhiều những Hiện tượng pha trộn với Tín ngưỡng
thờ Mẫu hoặc tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những người có công. Sự hoạt động
của các Hiện tượng tôn giáo mới có cả những tác động tích cực nhưng tiềm ẩn những
ảnh hưởng tiêu cực khôn lường. Các cấp ủy Đảng và chính quyền cần thừa nhận Hiện
tượng tôn giáo mới đang dần trở thành một bộ phận của đời sống tôn giáo Việt Nam,
đồng thời cần phải có những hiểu biết nhất định về những dấu hiệu của nó để có thể
nhận diện được nó trong đời sống tôn giáo. Dựa trên kết quả nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài nước, hiện nay, trên toàn quốc có khoảng trên 80 Hiện tượng
tôn giáo mới, tập trung nhiều nhất tại miền Bắc, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng,
vùng Tây Bắc và một số tỉnh Tây Nguyên. Các Hiện tượng tôn giáo mới có những đặc
điểm như: thường xuất hiện trong một thời gian ngắn, thường gắn với vai trò của người
đứng đầu, là sự pha trộn giữa các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, sợi dây gắn kết giữa
các tín đồ khá lỏng lẻo, nhưng đa số lại có liên kết chặt chẽ với người đứng đầu, hay đổi
tên (một phần lớn là do bị kiểm duyệt chặt chẽ, hoạt động ngoài sự công nhận của Nhà
nước),… Rất khó để có những căn cứ về một Hiện tượng tôn giáo mới, song, qua việc
nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước chúng ta thấy, những Hiện tượng tôn
giáo thỏa mãn các điều kiện: tồn tại niềm tin song song, Cứu thế luận… thừa nhận các
Hiện tượng tôn giáo mới, đó là cách để chúng ta có thể sớm đưa những hoạt động này

vào những hình thức quản lý phù hợp nhằm ngăn chặn sự lợi dụng các Hiện tượng này
hòng gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, có những biểu hiện trái với thuần phong mỹ
tục, ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam.
Các cấp ủy Đảng và chính quyền cũng cần thấy rằng, các Hiện tượng này cùng
với sự phát triển mạnh mẽ các tôn giáo truyền thống khác du nhập vào Việt Nam đã làm
cho thị trường tôn giáo Việt Nam thêm sôi động, đã và đang hình thành một “thị trường
tôn giáo”, và nếu vậy, chắc hẳn nó phải tuân theo quy luật của kinh tế thị trường. Như
vậy, chúng ta cần có một cái nhìn đầy đủ, đúng đắn hơn về vấn đề kinh tế tôn giáo hiện


nay, đâu là những hành vi tôn giáo thuần túy, đâu là hoạt động kinh tế tôn giáo, và có
hay không việc khẳng định tôn giáo cũng trở thành một thành phần kinh tế? Làm được
điều này, thiết nghĩ, cần phải có những nghiên cứu, những sự điều tra có tính xác thực
để có đủ những căn cứ pháp lý khi đưa ra những kết luận. Chừng nào còn chưa có
những nhận thức đúng đắn về những hoạt động này, sự “nhập nhằng” giữa tính “thiêng”
của tôn giáo và cái “lợi” của nền kinh tế nó sẽ còn có những mâu thuẫn, và sẽ có không
ít những kẻ sẽ lợi dụng những hoạt động tôn giáo nhằm trục lợi cá nhân. Khi chưa có
những nhận thức đầy đủ về một vấn đề mới nảy sinh từ xu hướng chuyển hóa sinh hoạt
tôn giáo công cộng sang sinh hoạt cá nhân, hướng vào cá nhân và vai trò của cá nhân
cũng sẽ ngày càng tăng trong sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam trong những năm tới.
Tuyên truyền giáo dục cho các cán bộ, đảng viên, quần chúng về âm mưu của
địch lợi dụng sơ hở, thiếu sót trong thực hiện công tác tôn giáo, kích động, lừa bịp một
bộ phận nhân dân chống lại Đảng, Nhà nước. Kịp thời phát hiện, đấu tranh với những
luận điệu xuyên tạc, phản cách mạng. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
bằng tiếng địa phương để giác ngộ quần chúng không tham gia các hoạt động tuyên
truyền, đấu tranh chống chính quyền của các tôn giáo một cách trái với pháp luật. Để
làm được điều này, các cấp ủy Đảng cần phải được xây dựng, củng cố tại các điểm dân
cư có người theo các tôn giáo. Xây dựng các cấp ủy Đảng trong sạch, vững mạnh là
tấm gương phản chiếu chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, tạo niềm tin cho
quần chúng nhân dân có đạo tin và theo.

2.2. Tăng cường công tác quản lý tôn giáo từ Trung ương đến
địa phương
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo
Công tác tôn giáo là một nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước ta xác định là quan
trọng. Chính vì vây, ngay từ những ngày đầu tiên thành lập Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, chúng ta đã có những chủ trương về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, điều
này lần lượt được thể hiện trong Hiến pháp 1946, Sắc lệnh 234/SL ngày 14. 6. 1955
của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là văn bản mẫu mực trong công tác tôn giáo, thể hiện
rõ nhất tính ưu việt cũng như tiến bộ của Nhà nước trong ứng xử đối với các hiện


tượng tín ngưỡng, tôn giáo trong những ngày đầu độc lập và thực hiện nhiệm vụ mới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến của miền Nam. Sắc lệnh 234 là
một văn bản giá trị đã có sức động viên, khích lệ được đồng bào tôn giáo cũng như
đồng bào có tín ngưỡng tham gia vào cuộc cách mạng Việt Nam.
Đặc biệt, Nghị quyết 24 – NQ/TW của Bộ Chính trị được đánh giá là sự chuyển
biến tư duy của Đảng ta về vấn đề tôn giáo với 3 điểm cần nhấn mạnh đó là: 1). Công
tác tôn giáo vừa phải quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng,
vừa đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng; 2). Nội dung cốt lõi
của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng có đạo; 3). Làm tốt công tác tôn
giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Dĩ nhiên, đến bây
giờ, những điều này không còn là mới mẻ nữa, nhưng có thể nói, ngay những năm cuối
thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Nghị quyết 24 đã làm chuyển đổi nhận thức của không ít cán
bộ Đảng viên, khắc phục được thái độ mặc cảm, phân biệt đối xử đối với đồng bào có
đạo, đồng thời tìm sự tương đồng, phát huy được những giá trị tốt đẹp của các tôn giáo.
Nghị quyết 24 đi vào cuộc sống và đã chứng minh cho sự đúng đắn của nó. Trước
những biến đổi lớn lao của thực tiễn cách mạng, sự chuyến biến bối cảnh trong nước và
quốc tế cũng như những diễn biến của tình hình tôn giáo trong nước, Pháp lệnh về tín
ngưỡng, tôn giáo năm 2004 bao gồm 6 chương, 41 điều quy định khá rõ ràng cụ thể
những quy định về quyền lợi, nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo cũng như trách

nhiệm của các cơ quan trong công tác tôn giáo. Có thể thấy, Pháp lệnh này trong 10
năm đã có những tác động tương đối quan trọng với đời sống tôn giáo.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua tháng 11 năm 2016 là một sự hoàn thiện hệ thống pháp luật về
công tác tín ngưỡng, tôn giáo. Với 12 chương, 75 điều được quy định, có thể nói, Bộ
luật mới đã có những sự đáp ứng tốt những yêu cầu mở rộng phạm vi điều chỉnh
cũng như chi tiết, rõ ràng hơn về các vấn đề như Tư cách pháp nhân của các tổ chức
tôn giáo, về những điều chỉnh trong đào tạo, công nhận các tổ chức tôn giáo, những
quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo dựa trên những căn


cứ thông lệ quốc tế đã thông qua và phù hợp với truyền thống văn hóa cũng như thể
chế chính trị Việt Nam. Lần đầu tiên, những vấn đề về tư cách háp nhân đã được đề
cập đến, đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam trong giai đoạn
mới.
Dĩ nhiên, để một bộ luật đi vào được đời sống, để cho hoàn toàn phù hợp với các
tôn giáo là điều rất khó, bởi cũng chưa có một bộ luật tôn giáo nào trên thế giới có thể
bao trọn được nhu cầu, tâm tư, tình cảm của các tổ chức tôn giáo. Quốc hội cũng đã
tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước, trưng cầu ý kiến của các tập
thể, cá nhân trong nước trước khi xây dựng Luật và chính thức đưa Luật vào hoạt động.
Để Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) đi vào cuộc sống và thực sự trở thành
hướng dẫn cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo cũng như để trở thành phương tiện quản lý
tôn giáo của Nhà nước, chắc chắn sẽ còn cần phải có những văn bản hướng dẫn cũng
như công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có như vậy
mới nâng cao được hiệu quả của công tác quản lý tôn giáo của các cấp quản lý tôn giáo,
đồng thời, các tổ chức, cá nhân tôn giáo mới có những điều kiện mới trong sự phát triển
mới của mình. Có thể thấy, đây là những việc làm thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước ta về quản lý tôn giáo bằng pháp luật, mở rộng điều chỉnh phạm vi của pháp
luật đồng thời phản ảnh những nguyên tắc cơ bản của Đảng, Nhà nước ta trong vấn đề
tôn giáo, làm cho quần chúng tín đồ yên tâm phấn khởi, ngày càng tin tưởng vào đường

lối, chính sách của Đảng .
Tiếp tục hoàn thiện các chính sách, thủ tục hành chính trong quản lý tôn giáo
Song song với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và các văn bản liên quan có
tính chất hướng dẫn thực thi các hoạt động tôn giáo, trong Công tác quản lý tôn giáo
cũng cần dần kiện toàn bộ máy quản lý từ TW đến địa phương, có năng lực và đủ khả
năng để thực thi pháp luật trong hoạt động tôn giáo.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý tôn giáo đó là việc
xây dựng chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở cơ sở gắn với xây dựng, ổn định và phát
triển kinh tế xã hội ở vùng có tôn giáo hoạt động mạnh. Phải có kế hoạch tổ chức các lớp


tập huấn, nâng cao trình độ, năng lực nhận thức chính trị cho các cán bộ chính quyền cơ sở,
cành giác với các hoạt động gây chia rẽ nội bộ. Để làm được điều đó, công tác nắm bắt tình
hình tôn giáo rất quan trọng. Thông qua công tác nắm bắt tình hình đời sống tôn giáo,
chúng ta nắm vững được diễn biến của các hoạt động tôn giáo, những mâu thuẫn, những
khúc mắc, những vấn đề nổi cộm trên cơ sở đó đê ra những chủ trương, đường lối chính
sách kịp thời. Đối với các lực lượng chức năng đặc biệt như: an ninh, công an cần có
những hoạt động điều tra cơ bản trên các địa bàn cụ thể. Các lực lượng điều tra phải thực
hiện một cách nghiêm túc, tuân thủ những quy định của Bộ công an. Đối tượng điều tra là
các trung tâm, trụ sở các tổ chức tôn giáo trong cả nước (và thậm chí là ở nước ngoài).
Kết quả điều tra phải làm rõ về số lượng tín đồ của từng tôn giáo, hệ phái tôn giáo khác
nhau, về thành phần dân tộc, trình độ văn hóa, nghề nghiệp giới tính, độ tuổi, gia đình,..
các mối quan hệ giữa trong và ngoài nước. Nắm vững được các thông số của tín đồ các
tôn giáo là điều kiện tiên quyết để khi có những thay đổi bất thường có thể tư vấn cho các
cấp lãnh đạo, các cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng, kịp thời xử lý.
Công tác quản lý nghiệp vụ của các ngành an ninh, công an, của Ban Tuyên giáo
các cấp cũng là một trong những nghiệp vụ quan trọng trong những biện pháp để phát hiện
kẻ lợi dụng tôn giáo để thực hiện âm mưu chính trị xấu. Trong những năm qua, chúng ta đã
tiến hành các biện pháp quản lý nghiệp vụ và nhanh chóng phát hiện, xử lý các đối tượng
lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng. Vì vậy, cần nâng cao công tác quản lý nghiệp vụ

của các ngành, các cơ quan có liên quan đến đời sống tôn giáo để kịp thời xử lý các diễn
biến có liên quan đến những bất ổn trong chính trị cũng như trong đời sống tôn giáo.
2.3. Tăng cường vận động quần chúng trong công tác tôn giáo
Công tác vận động quần chúng là nòng cốt của công tác tôn giáo
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giữ vai trò là chủ thể của
chính quá trình lịch sử ấy. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam, quần
chúng nhân dân có vai trò cực kỳ to lớn, là lực lượng hùng hậu, có tính quyết định đối
với các chiến công hiển hách của Việt Nam trong các cuộc kháng chiến và cách mạng
(trong thời hiện đại). Chúng ta khắc ghi câu nói của Nguyễn Trãi: người chở thuyền là
dân, người lật thuyền cũng là dân,.. Hồ Chí Minh khi còn sống cũng luôn lấy Dân làm


gốc, coi đó là tư tưởng cốt lõi của cách mạng Việt Nam, cả trong chiến đấu chống kẻ
thù xâm lược lẫn khi xây dựng đất nước hòa bình. Đó chính là bài học để Đảng ta luôn
coi công tác đối với quần chúng nhân dân là nhiệm vụ quan trọng. Làm tốt công tác vận
động quần chúng trong việc bảo vệ, giữ gìn trật tự an toàn, đảm bảo an ninh và toàn vẹn
lãnh thổ là nhiệm vụ có tính chất chiến lược, vừa mang tính chất phòng ngừa cao, vừa
là biện pháp hữu hiệu để có thể thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh chống âm mưu lợi
dụng những vấn đề mới trong đời sống tôn giáo, hòng chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,
gây bất lợi cho cách mạng Việt Nam trong xã hội hiện nay.
Trong đời sống tôn giáo, quần chúng có vai trò cực kỳ quan trọng. Họ vừa là chủ
thể của đời sống tôn giáo đồng thời họ cũng lại bị chi phối bởi đức tin tôn giáo, lại là khách
thể của quá trình quản lý tôn giáo. Chính vì vậy, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để
lợi dụng vấn đề tôn giáo mua chuộc quần chúng bằng cả những điều kiện vật chất để lôi
kéo, tranh thủ sự ủng hộ, tham gia của quần chúng nhân dân là tôn giáo hoặc có cảm tình
với tôn giáo. Trong thực tế chúng ta thấy, ở những cơ sở buông lỏng công tác quần chúng,
chưa thật chú ý đến quần chúng thường hay xảy ra những hiện tượng mất trật tự về an
ninh, quốc phòng, vì đây là môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng, chớp
cơ hội có thể dùng các biện pháp truyền thông mị dân, xuyên tạc bản chất, nguyên tắc
của Đảng và nhà nước ta theo hướng có lợi cho các tổ chức chính trị nước ngoài, gây tâm

lý hoang mang trong quần chúng.
Để làm tốt công tác quần chúng về vấn đề tôn giáo, các cấp ủy chính quyền cần
nhận thấy vai trò to lớn của công tác vận động quần chúng nhân dân, các cấp ủy, chính
quyền địa phương. Các cấp ủy Đảng có nhiệm vụ là vị trí trung tâm, kết hợp chặt chẽ
với các ban ngành, đoàn thể, đồng thời tổ chức các hình thức vận động quần chúng cho
thích hợp, nhất là quần chúng là bà con dân tộc, ở vùng sâu, vùng xa, ở nông thôn, nơi
mà điều kiện dân trí còn thấp so với mặt bằng chung của xã hội, là vùng có nhiều những
phong tục, tập quán sinh hoạt đặc biệt. Vì vậy, trong công tác vận động quần chúng,
muốn có hiệu quả cần phải nghiên cứu kỹ nhưng phong tục, tập quán cũng như đặc
điểm tâm lý, tính cách tộc người để đưa ra những phương pháp vận động quần chúng có
hiệu quả, phù hợp với ngôn ngữ diễn đạt cũng như hình thức sinh hoạt ở từng vùng,


miền, có như vậy mới tạo ra được sự thu hút, gần gũi, gắn bó giữa công tác quản lý với
quần chúng nhân dân là người có đạo. Đồng thời với hình thức vận động rộng rãi, thông
qua các phong trào vận động nhân dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, chúng ta cũng cần chú ý
đến những hình thức vận động đặc biệt đối với đội ngũ chức sắc các tôn giáo nhằm
tranh thủ sự ủng hộ hoặc tạo thiện cảm, cảm hóa họ, động viên, khuyến khích họ thực
hiện chăm lo việc đạo nhưng cũng không quên làm tròn nhiệm vụ công dân Việt Nam,
sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Nội dung của công tác vận động quần chúng nhân dân phải thiết thực, gắn với
thực tiễn đời sống của quần chúng có tôn giáo, dễ hiểu, phù hợp với trình độ và khả năng
nhận thức của tầng lớp tín đồ ở từng vùng, miền. Muốn cho quần chúng nhân dân là
người có tôn giáo sống và làm việc theo Hiến pháp, Pháp luật, trước tiên cần có các hình
thức tuyên truyền, phố biến, giáo dục cho nhân dân nắm vững đường lối chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta. Đối với những trường hợp bị ép buộc, dụ dỗ không tự
giác theo tôn giáo thì giải thích để quần chúng hiểu rõ âm mưu của những kẻ xấu, giúp
họ thôi sinh hoạt tôn giáo, hoặc theo tôn giáo những không tham gia những hoạt động
chống phá, xuyên tạc về Đảng, về Nhà nước. Ở đây, cũng cần lưu ý giáo dục để nhân dân
hiểu rõ sự tách bạch giữa tôn giáo, tín ngưỡng và những hành vi lợi dụng tôn giáo tín

ngưỡng để thực hiện âm mưu chống phá Đảng, chống phá nhà nước. Thiết nghĩ, hiểu
được âm mưu của kẻ thù, bà con nhân dân theo đạo mới có thể chủ động không tham gia,
hoặc đứng ra khỏi những hành vi phản đối, gây rối của kẻ địch khi lợi dụng tôn giáo như
một vũ khí lợi hại, thực hiện mục đích của mình.
Bên cạnh đó, cần có những chương trình hướng dẫn quần chúng nhân dân thủ
tục đăng ký tham gia các tổ chức tôn giáo, nhất là đối với Tin Lành theo đúng quy
định của pháp luật. Làm được điều này, sẽ giúp cho các cơ quan quản lý dễ dàng nắm
bắt về số lượng cũng như tình hình tham gia các tôn giáo của quần chúng nhân dân,
mặt khác, cũng thể hiện được đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân dân.
Trong công tác vận động quần chúng nhân dân là người có đạo, điều quan trọng
là phải nắm bắt được tâm tư, tình cảm của quần chúng nhân dân. Muốn như vậy, các


cấp lãnh đạo, các cơ quan quản lý tôn giáo, đặc biệt là Mặt trật Tổ quốc Việt Nam cần
luôn đi sâu, đi sát vào cơ sở để nắm bắt những diễn biến tâm tư, tình cảm của quần
chúng tín đồ, đặc biệt trước và sau khi ban hành những văn bản pháp luật hoặc thực
hiện các chương trình, dự án. Hiểu được nguyện vọng của nhân dân, nếu là nguyện
vọng chính đáng, cần phải chỉnh sửa thì cần kịp thời để “an dân”, tạo ra sự đồng thuận.
Ngược lại, nếu “nguyện vọng” của nhân dân chỉ vì lợi ích cục bộ địa phương, hoặc vì
lợi ích cá nhân có thể giải thích, thuyết phục để quần chúng hiểu, thấy được lợi ích
chính đáng của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao tinh thần yêu Tổ
quốc, yêu đồng loại của đồng bào có tôn giáo. Có như vậy, mới tạo ra được sự ủng hộ
của các tín đồ tôn giáo, tạo ra sự đồng thuận trong sự lãnh đạo của các cơ quan lãnh
đạo, quản lý. Nắm bắt được những tâm tư, tình cảm chính đáng của nhân dân, đặc biệt
là những nhu cầu về tôn giáo, tín ngưỡng để có thể kịp thời giải quyết những khúc mắc,
cũng là biện pháp để quần chúng nhân dân có tôn giáo thêm niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo quản lý.
Công tác vận động quần chúng dân dân là người có tôn giáo quan trọng là không
ngừng nâng cao giác ngộ chính trị và cảnh giác cách mạng đối với quần chúng để họ có

thể dễ dàng nhận ra những hành vi lợi dụng tôn giáo, chống phá cách mạng, đồng thời
kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những đối tượng tuyên truyền, phát
tán những tài liệu xuyên tạc quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước,
kể cả những hành vi truyền đạo trái phép. Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 khi có
hiệu lực là hành lang pháp lý cao nhất hướng dẫn cho các cơ quan quản lý có thể kịp
thời xử lý các hành vi trái phép này. Trong công tác tôn giáo, nhất là với những điểm
nóng chính trị, lợi dụng tôn giáo, để xử lý được nhanh chóng, cần có những biện pháp
ngăn chặn ngay từ đầu, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, đặc biệt là
lực lượng công an nhân dân, không để lây lan sang các vùng khác nhất là các vùng chưa
có tôn giáo, tránh các sự kiện nhỏ trở thành một vấn đề lớn, gây hoang mang trong dư
luận.
Công tác vận động quần chúng có tôn giáo cần phải được tổ chức một cách
thường xuyên, liên tục, song song hoặc kết hợp với các hoạt động của tổ chức chính trị,


an ninh của địa phương. Đặc biệt, đối với những vùng khó khăn, dân cư còn nhiểu hủ
tục, cần có sự kết hợp khéo léo, linh hoạt giữa cải cách cái cũ và đưa cái mới, cái tiến
bộ vào thay thế cho những cái cổ hủ, lạc hậu, hoặc ngăn chặn những hành vi trái với
thuần phong mỹ tục, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, giữ những nét đẹp, hồn cốt trong
mỗi tộc người, mỗi vùng, miền. Sự hài hòa giữa cái truyền thống và cái hiện đại là một
sự lựa chọn khôn ngoan để cho quần chúng nhân dân có điều kiện thích nghi cũng như
cảm nhận, so sánh những ưu điểm của chế độ mới, càng có thêm căn cứ để quần chúng
tin tưởng vào cán bộ cũng như đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Đưa quần chúng nhân dân có tôn giáo tham gia vào các tổ chức chính trị - xã
hội như: Hội nông dân, hội phụ nữ, công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh,
…Có thể kết nạp vào Đảng những người đủ điều kiện, tiêu chuẩn nhằm tạo điều kiện
cho các tín đồ có cơ hội tham gia vào các hoạt động chính trị xã hội, để họ cũng hiểu
hơn về bản chất, mục đích tốt đẹp của con đường lựa chọn của Đảng, đó là kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa. Nếu được tham gia và các tổ chức chính trị - xã hội, họ
sẽ là những hạt giống đỏ trong các sinh hoạt tôn giáo, đồng thời, thông qua họ, các tổ

chức xã hội cũng có thể nắm bắt được nhưng tâm tư, tình cảm của những người có tôn
giáo một cách dễ dàng hơn. Mặt khác, đưa quần chúng nhân dân là người có tôn giáo
tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội góp phần thúc đẩy phong trào bảo vệ an
ninh tổ quốc, góp phần giữ gìn đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và toàn vẹn
lãnh thổ tại vùng đại bàn có đồng bào sinh hoạt tôn giáo.
Chú trọng, tranh thủ sự ủng hộ, hợp tác của các chức sắc tôn giáo
Chức sắc tôn giáo có vai trò rất quan trọng trong đời sống tôn giáo, đặc biệt đối
với các tín đồ. Có thể nói, đội ngũ chức sắc tôn giáo là nòng cốt của các tổ chức Giáo
hội các tôn giáo. Họ là những người lãnh đạo, điều hành có khả năng hoạt động, chi
phối mạnh mẽ đến đời sống của các tín đồ. Vì vậy, trong công tác vận động quần
chúng nhân dân có tôn giáo, một trong những lưc lượng quần chúng cần thu phục, liên
kết đó chính là hàng ngũ các chức sắc tôn giáo. Đây là bộ phận luôn được Đảng, Nhà
nước quan tâm, coi trọng và đánh giá là lực lượng quan trọng, thậm chí là rất quan
trọng trong công tác tôn giáo.


Thực tế cho thấy, tại các địa phương có đông quần chúng nhân dân có tôn giáo,
sự ảnh hưởng của các chức sắc là vô cùng to lớn. Vai trò của các chức sắc không đơn
giản chỉ là những người chăm sóc đời sống tinh thần, giáo dục đạo đức, phục vụ tâm
linh, thông qua những hoạt động đó, các chức sắc tôn giáo cũng có ảnh hưởng nhất định
đến tình hình chính trị, thậm chí quyết định đến khối đại đoàn kết toàn dân. Có nhiều ví
dụ thực tế đã chứng minh, tại những xứ đạo, đôi khi, tín đồ quần chúng nhân dân không
tuân thủ theo đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, hoặc không chấp hành những
quy định tại địa phương, nhưng khi có sự can thiệp, giáo dục của các chức sắc tôn giáo,
họ sẵn sàng chấp hành và lắng nghe lời dạy bảo của các vị chức sắc đó. Cũng không ít
các cấp chính quyền tại địa phương, trước khi ban hành các quy định, chính sách đã tìm
đến sự đồng thuận của các vị này như là một điều kiện tiên quyết cho sự thành công của
những quyết sách đó. Ngược lại, các chức sắc tôn giáo cũng luôn tìm sự ủng hộ từ các
cấp chính quyền tại các địa phương. Có thể thấy, có một sự gắn bó chặt chẽ giữa lãnh
đạo các cấp chính quyền với các chức sắc tôn giáo tại các vùng có tôn giáo.

Đối với đội ngũ chức sắc của các tôn giáo, chúng ta dễ dàng nhận thấy có ba
lực lượng cơ bản căn cứ trên thái độ đối với cách mạng.
Thường những tôn giáo nội sinh, hoặc tôn giáo đã có lịch sử phát triển ở Việt Nam
lâu năm, có tư tưởng tiến bộ, có tình cảm gắn bó với quê hương, muốn hướng đạo xây
dựng đất nước Việt Nam thì cần động viên, khuyến khích, giúp đỡ, tạo điều kiện để họ
được sinh hoạt tôn giáo bình thường. Trong trường hợp này, chúng ta cũng đã nhận được
những sự đóng góp của các chức sắc tôn giáo trong việc phổ biến, giáo dục các tín đồ tôn
giáo tích cực tham gia phát triển kinh tế, xây dựng lối sống mới, và cũng chính họ là
người đã kiên quyết vạch mặt và loại bỏ những phần tử lợi dụng tôn giáo, lấy danh nghĩa
những hoạt động tôn giáo để tuyên truyền, chống phá cách mạng, thực hiện những âm
mưu chính trị khác ngoài nhiệm vụ truyền đạo. Tuy nhiên, cũng cần có những lưu ý, khi
tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác của các chức sắc này cũng cần phải phù hợp với tình hình,
phù hợp với vị trí, khả năng không để các chức sắc tiến bộ bị cô lập trong các tổ chức
tôn giáo.


Ngược lại, phải chủ động cô lập những chức sắc tôn giáo có tư tưởng cực đoan,
chống đối, thường xuyên vi phạm pháp luật trong quá trình hành đạo, ngăn chặn
những điều kiện thuận lợi để họ truyền đạo, hoặc là phổ biến những tư tưởng có tính
chất kích thích, gây chia rẽ nội bộ tôn giáo, nội bộ nhân dân, ảnh hưởng đến khối đại
đoàn kết dân tộc. Hạn chế việc họ nắm các chức vụ quan trọng trong các giáo hội, có
như vậy mới hạn chế được ảnh hưởng của họ trong đời sống tôn giáo.
Đối với các tầng lớp trung gian, tức là bộ phận các chức sắc tôn giáo không có
tư tưởng tiến bộ nhưng cũng không phải loại cực đoan chống đối cách mạng, chúng ta
cần cảm hóa, giáo dục để họ tiến bộ dần, có cảm tình với cách mạng, với Nhà nước,
để hoạt động tôn giáo của họ chấp hành theo các chủ trương, đường lối, chính sách
pháp luật của Đảng và Nhà nước, tránh tiếp xúc, bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng,
hành động cực đoan. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lưu ý những trường hợp trước
đây ta cấm không được phép hoạt động, nếu có yêu cầu, khi xem xét kết quả của quá
trình trong những trường hợp cụ thể về sự tiến bộ về thái độ chính trị, việc chấp hành

các chính sách pháp luật tốt thì có thể cho phép hoạt động tôn giáo trong những phạm
vi nhất định, có sự quản lý chặt chẽ của các cấp chính quyền.
Trong công tác vận động quần chúng nhân dân có tôn giáo, chúng ta cũng cần
lưu ý việc phân bổ các đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức chính trị, tổ
chức chính quyền là người có tôn giáo và có sự hài hòa giữa các tôn giáo với nhau.
Đây chính là thể hiện sức mạnh đoàn kết của chúng ta, một mặt, đó là kết quả của
ứng xử bình đẳng giữa các tôn giáo, bình đẳng giữa người có tôn giáo và người
không có tôn giáo, thu hút được người có tài, có đức cho đất nước. Khi tạo điều kiện
cho họ đứng vào hàng ngũ lãnh đạo của các tổ chức xã hội là cơ hội để họ có thể nói
lên được những nhu cầu, tâm tư, tình cảm của cá nhân cũng như tổ chức tôn giáo đó,
nếu có những khúc mắc cũng dễ dàng, nhanh chóng giải quyết, tránh được những
phát ngôn không chính thức. Mặt khác, sự tham gia của các chức sắc tôn giáo và
quần chúng có tôn giáo trong các tổ chức chính trị - xã hội sẽ là những nhân tố để
truyền tải nội dung đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào trong sinh hoạt
tôn giáo, giúp cho những sinh hoạt đó theo quy định của pháp luật.


Có thể thấy, công tác vận động quần chúng là công tác quan trọng trong công
tác tôn giáo, nó vừa có tác dụng ngăn ngừa những hiểm họa, những hành vi lợi dụng
tôn giáo và đồng thời nó cũng là biện pháp xử lý triệt để các vấn đề tôn giáo. Công tác
tôn giáo và chính sách tôn giáo là hướng đến việc đáp ứng tốt nhu cầu của quần chúng
nhân dân có tôn giáo cho nên các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền cần làm tốt công
tác vận động quần chúng, làm tốt được việc này, các điểm nóng của tôn giáo sẽ được
giải quyết, các mặt tích cực của tôn giáo sẽ được phát huy góp phần vào việc củng cố,
xây dựng và phát triển đất nước.
2.4. Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào có tôn giáo
Học thuyết Mác – Lê nin chỉ ra rằng, một trong những nguyên nhân quan
trọng dẫn đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của tôn giáo đó là nguyên nhân kinh tế,
thuộc về đời sống xã hội: “sự nghèo nàn của tôn giáo phản ánh sự nghèo nàn hiện
thực”. Vì vậy, muốn khắc phục những hạn chế đồng thời phát huy những tác động

tiêu cực của một số xu hướng biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay một trong những giải pháp có tính then chốt đó chính là cải tạo tồn tại xã
hội – được xem là cơ sở để tôn giáo tồn tại và phát triển, phát triển kinh tế, tăng
cường an sinh xã hội, nâng cao mức sống, điều kiện sống cho nhân dân, đặc biệt tại
những vùng có đông nhân dân có tôn giáo sinh sống. Cụ thể, chúng ta cần:
Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất cho vùng có đông quần chúng theo tôn
giáo
Sự phát triển, ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội là nền tảng vững chắc cho sự
phát triển phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân có tôn
giáo, là biện pháp phòng ngừa cơ bản, có tính chiến lược lâu dài, nhằm triệt tiêu, loại bỏ
những nhân tố nảy sinh, phát triển tội phạm từ bên trong cũng như lợi dụng tác động
của các thế lực thù địch từ bên ngoài. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, đặc biệt trong
giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước phải không ngừng
chăm lo, giải quyết ngày càng tốt hơn những vấn đề dân sinh, nâng cao dân trí, triển
khai xây dựng các thiết chế dân chủ của nhân dân, thực hiện tự do tín ngưỡng, đoàn kết
dân tộc, đoàn kết tôn giáo, gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc và gắn với mục tiêu


chủ nghĩa xã hội, có như vậy mới tạo được sự nhất trí, đồng thuận trong đường lối lãnh
đạo phát triển của Đảng với mục tiêu, đường hướng phát triển của các tổ chức tôn giáo.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định: “Giải quyết hài hòa giữa
mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng
an ninh; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống vật chất của nhân dân.” 6. Để làm được
tốt điều này, chúng ta phải giải quyết hàng loạt những vấn đề có tính quyết định như
sau:
Thứ nhất, cần có chính sách phát triển kinh tế tới từng vùng, miền. Đặc biệt, tại
các vùng tập trung dân cư có tôn giáo thường đó là những vùng còn nghèo đói, khó
khăn như các tỉnh Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, một số vùng nông thôn chiêm
trũng của đồng bằng sông Hồng,… ở đây, hầu hết nhân dân thường xuyên gặp khó khăn

trong việc phát triển kinh tế, hoặc cải thiện tình hình kinh tế. Nạn đói vẫn còn diễn ra,
đặc biệt với các vùng dân tộc thiểu số Tây Bắc, Tây Nguyên. Có thể nói, phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống vật chất là một việc làm vô cùng khó khăn của các cấp chính
quyền. Đối với các vùng dân tộc thiểu số, lời giải của bài toán khó khăn này là viện trợ,
trợ cấp,..Tuy nhiên, đây là kế sách tạm thời, vấn đề lâu dài thì cần trang bị cho người
dân ở những vùng này những chiến lược phát triển kinh tế cụ thể như: cho vay vốn, có
hướng dẫn nuôi – trồng cụ thể, có chính sách kết hợp với các Doanh nghiệp để bao tiêu
sản phẩm làm ra, có như vậy mới tạo tâm lý yên tâm cho người nông dân tham gia sản
xuất, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy tăng năng suất lao động. Phương hướng nhiệm
vụ đã được Đảng đề ra trong văn kiện XII: “Trong xây dựng và thực hiện các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế
trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục

6 Đảng

Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.22-23


xu hướng gia tăng phân hóa giàu - nghèo” 7. Vì vậy cần thực hiện xóa đói giảm nghèo
bền vững, khuyến khích làm giầu chính đáng.
Thứ hai, với các địa phương có các khu công nghiệp phát triển, cũng cần có những
chính sách tạo công ăn, việc làm, giữ vững sự ổn định trong tâm lý của người dân, đặc
biệt là của những người dân được lấy đất xây dựng các khu công nghiệp hoặc giải phóng
mặt bằng để thực hiện các chính sách khác của Nhà nước hoặc địa phương. Trên thực tế,
có rất nhiều địa phương khi giải phóng mặt bằng, thu hồi đất đai thường hay xẩy ra
những hiện tượng kiện tụng, người dân chống đối vì mức giá không thỏa thuận được,…
hoặc đôi khi, sau khi bị mất đất, người dân lại không đáp ứng được yêu cầu công việc
của các công ty được xây dựng ngay trên địa bàn, dẫn đến tình trạng thất nghiệp,… tất
cả đều có thể trở thành cái “cớ” để các thế lực thù địch lợi dụng, bôi nhọ hoặc xuyên tạc

quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, khi có những bất
ổn hoặc sai phạm trong việc xử lý đất đai không thỏa đáng (nhưng vụ việc liên quan
đến đất đai và tôn giáo như vụ nhà Chung, vụ Thái Hà, vụ Cồn Dầu,…) đều dẫn đến sự
phản ứng tiêu cực của đồng bào có tôn giáo, đặc biệt khi họ lại được các thế lực thù
địch khai thác những yếu tố xấu hòng chia rẽ sự đoàn kết nội bộ và lôi kéo một số tín
đồ tôn giáo vốn đã không có thiện cảm với cách mạng, có hiềm khích với một vài lãnh
đạo địa phương hoặc TW, tuyên truyền, chống phá Đảng và Nhà nước ta, gây ra những
luồng dư luận không tốt trong nhân dân, đặc biệt là nhân dân có tôn giáo.
Song song với các chính sách thúc đẩy kinh tế phát triển, chăm lo đời sống vật chất
của người dân, các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương cũng cần quan tâm
đúng mức đến việc phát triển các cơ sở vật chất như điện, đường, trường, trạm tại các vùng
kinh tế khó khăn, giao thông đi lại phức tạp, các điều kiện thiếu thốn,.. Đây là một việc làm
hỗ trợ quan trọng trong việc đảm bảo những sinh hoạt tất yếu cho người dân, nhất là những
vùng người dân ở các địa bàn sinh sống dọc các tuyến biên giới hoặc những khu vực có địa
bàn sinh sống còn nghèo nàn, lạc hậu,…
Nâng cao các dịch vụ chăm sóc ý tế, giáo dục
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.135


Văn kiện Đại hội XII Đảng ta chú trọng đến vấn đề chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân cũng như những vấn đề có liên quan đến giáo dục theo hướng: “đổi mới căn
bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất, chất lượng; tăng
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo” 8 và chủ trương
“Tiếp tục đảm bảo công bằng, giảm chênh lệch mới trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc
sức khỏe nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng” 9.
Trong các yếu tố để nâng cao chất lượng cho người dân, đặc biệt là người dân
có tôn giáo, có thể nói điện, trường và bệnh viện là 3 yếu tố quan trọng nhất. Tại các
tinh miền núi phía Bắc, các tỉnh Tây Nguyên, điều kiện cơ sở vật chất còn vô cùng
khó khăn, Chừng nào giao thông còn chưa thuận lợi, chừng nào cơ sở ý tế còn chưa

đáp ứng được nhu cầu của người dân, chừng đó còn có “khoảng trống” cho các luận
điệu lợi dụng từ các chương trình tài trợ từ thiện vào các vùng đồng bào có đạo Tin
Lành là người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên để phát triển đạo hoặc để có
cơ hội tuyên truyền, xuyên tạc bản chất tốt đẹp của Nhà nước Cộng hóa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Các điều kiện về giáo dục cũng cần được đầu tư, việc giảng dạy bằng tiếng bản
địa, tiếng Kinh cần được chú ý. Thông qua chương trình giáo dục các cấp trang bị cho
đồng bào DTTS nói chung, đồng bào DTTS theo đạo Tin Lành ở Tây Bắc, Tây Nguyên
nói riêng những tri thức về khoa học, về thế giới quan duy vật qua đó giúp cho các tín
đồ Tin Lành sẽ có những lý giải khác với thế giới quan Ki tô giáo, để nhận biết những
thành tựu của khoa học, kỹ thuật của thế giới.
Một phương tiện nữa để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục vùng có tôn
giáo là phát triển những cơ sở truyền thông, cung cấp internet, các phương tiện các
như: máy tính, radio,…để các tín đồ có điều kiện tiếp xúc nhanh nhất với các thông
tin thời sự, chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam cũng như các nước khác trên thế

8 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.27
9 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.138


giới. Đây chính là môi trường giao lưu văn hóa ngắn nhất, nhanh nhất và ít tốn kém
nhất.
Có và duy trì tốt các chính sách đối với những gia đình có công với cách mạng,
chăm lo về cơ sở vật chất và tinh thần cho những người già neo đơn, những hoàn cảnh
khó khăn để nhân dân thấy được sự quan tâm, chia sẻ của Đảng, Nhà nước. Trên thực
tế cho thấy, hầu hết các đối tượng theo các Hiện tượng tôn giáo mới đều là những phụ
nữ, những người yếu thế (một số ý kiến cho rằng đó là “những người bên lề” của xã
hội), đây cũng chính là đối tượng của các thế lực thù địch hay lợi dụng nhằm mục

đích chính trị, nói xấu Đảng, nói xấu chế độ ta. Vì vậy, các cấp chính quyền, các tổ
chức xã hội phải làm tốt công việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho những
đối tượng đặc biệt này, để kẻ thù không có cơ hội nói xấu, bôi nhọ chế độ cũng như
lợi dụng họ để thực hiện những mục đích chính trị khác.
Cần có những chính sách xã hội hóa các hoạt động an sinh xã hội. Trong điều
kiện đất nước còn khó khăn, việc chăm lo đến những hoàn cảnh đặc biệt là quá khả
năng với chúng ta. Vì vậy, đối với những hoạt động phúc lợi, an sinh xã hội (chăm sóc
người già, người cô đơn, trẻ em mồ côi) cần sự chung tay, giúp đỡ của các tổ chức xã
hội, các doanh nghiệp. Thực tế những năm qua, các tôn giáo ở Việt Nam cũng đã làm
rất tốt công việc này và nó trở thành điểm nổi bật trong đời sống tôn giáo Việt Nam.
Tuy nhiên, để các tổ chức tôn giáo có một cơ chế riêng để hoạt động tốt nhất cho xã hội,
Nhà nước, các cấp chính quyền cần có một cơ chế đặc biệt để ủng hộ cho các tổ chức
tôn giáo được làm công tác thiện nguyện theo đúng quy định, cũng tránh những trường
hợp lợi dụng những hoạt động từ thiện, công tác xã hội nhằm trục lợi cho cá nhân.
Tóm lại
Có quan điểm đúng đắn, các biện pháp vừa có thể phát huy những giá trị tích
cực và ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực của tác động của các xu hướng
biến đổi tôn giáo đến đời sống tôn giáo Việt Nam hiện nay là một việc làm có ý nghĩa
quan trọng. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo cũng là những lực lượng sẽ góp phần phát
huy những giá trị tích cực của các tôn giáo, làm cho tôn giáo ngày càng đóng vai trò
lớn vào trong đời sống xã hội. Trên cơ sở đó, các giải pháp được đưa ra như: nâng cao
nhận thức của các cấp ủy Đảng và các cấp chính quyền về các xu hướng biến đổi tôn


×