Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

bài tập nhóm tâm lý học tư pháp3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.75 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Tâm lý học tư pháp là một ngành khoa học độc lập, là cầu nối giữa khoa học
tâm lý và khoa học pháp lý. Tâm lý học tư pháp được coi là chuyên ngành ứng
dụng của khoa học tâm lý. Tâm lý học tư pháp phần lớn nghiên cứu xây dựng
các biện pháp, cách thức tác động vào các hoạt động tố tụng nhằm xác định sự
thật khách quan của vụ án. Trong hoạt động tư pháp để xác định được một cách
đúng đắn trong việc tìm ra sự thật khách quan có nhiều phương pháp tác động,
mỗi phương pháp đều có mặt tích cực và hạn chế riêng. Trong bài tập này bọn
em xin chọn và nghiên cứu đề 05 "phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy
trong điều tra, xét xử vụ án hình sự và thi hành án phạt tù", một trong các
phương pháp tác động tâm lý được sử dụng rộng rãi trong hoạt động tư pháp.

NỘI DUNG
I. Khái quát về phương pháp đặt vấn đề và thay đổi vấn đề tư duy
1. Khái niệm
Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy là phương pháp hướng các quá
trình tư duy của người bị tác động bằng cách đặt cho họ những nhiệm vụ tương
ứng (những câu hỏi), để khi giải quyết những nhiệm vụ này họ buộc phải sử
dụng những thông tin từ mô hình tư duy của sự kiện, sự việc bị che dấu (mà
trước đó học cố tình che dấu).1
Ví dụ: nếu người làm chứng đã khai man rằng suốt buổi tối anh ta ở cùng với
can phạm ở nhà của can phạm. Chủ thể tác động có thể đưa ra các câu hỏi với
người làm chứng (2 người ở nhà làm gì? Có thêm ai không? Can phạm mặc
1

Giáo trình tâm lý học tư pháp, trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, năm 2006, tr 3


quần áo màu gì?....) để trả lời các câu hỏi đó người làm chứng sẽ phải nhớ lại
các chi tiết có trong sự kiện ngồi cùng can phạm trong nhà. Nếu sự kiện đó
không sảy ra thì người làm chứng sẽ không thể có được thông tin để trả lời các


câu hỏi đó. Từ đó người làm chứng sẽ từ bỏ thái độ khai man.
2. Những trường hợp thường dùng phương pháp dặt và thay đổi vấn đề tư
duy
+ Khi người cung cấp lời khai quyên một số tình tiết của vụ án. Trong trường
hợp này việc đặt ra hàng loạt câu hỏi liên quan làm sống lại những mối liên hệ
thần kinh tạm thời và phục hồi lại những ký ức mà họ đã quên.2
+ Khi cần làm thay đổi thái độ, quan điểm, lập trường của đối tượng. Dưới
ảnh hưởng của các vấn đề đặt ra, người bị tác động phải phân tích, xem xét,
đánh giá lại hành vi, cách xử xự của bản thân. Điều này có thể làm cho họ thay
đổi thái độ, quan điểm của bản thân.2
+ Khi người bị tác động khi báo không đúng sự thật, dưới tác động của hàng
loạt vấn đề được đặt ra, tư duy của người bị tác động có thể thay đổi theo chiều
hướng khác nhau, kết quả là làm cho đối tượng bị tác động bị động hoặc mâu
thuẫn trong lời nói. Từ đó ta có thể nhận biết được lời khai có đúng sự thật
không và cung cấp thêm một số thông tin khách quan cho vụ án.2
- Các yêu cầu cần chú ý khi sử dụng phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư
duy:
Sử dụng nhiều câu hỏi khác nhau: nghi vấn, phủ định, khẳng định.
Ngữ điệu câu nói phải phù hợp với câu hỏi.

2
2
2

Giáo trình tâm lý học tư pháp, trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, năm 2006, tr 34, 35


Thể hiện thái độ biểu cảm cùng câu hỏi.
Có thể biểu đạt thái độ riêng của mình về một sự kiện nào đó trong câu hỏi.2
II. Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy trong điều tra, xét xử vụ

án hình sự và thi hành án phạt tù.
1. Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy trong điều tra
Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy là phương pháp tác động tâm lí
hướng quá trình tư duy của bị can bằng cách điều tra viên đưa ra những nhiệm
vụ, những câu hỏi không liên quan đến sự kiện phạm tội đã xảy ra, để khi giải
quyết những nhiệm vụ này hoặc trả lời câu hỏi này bị can phải sử dụng những
thông tin từ mô hình của các sự kiện, sự việc mà trước đây họ cố tình che giấu.
Từ đó, bị can tự rút ra kết luận là không thể giấu diếm được điều tra viên mà
cần phải thay đổi thái độ của mình và khai báo thành khẩn.3
Bản chất của phương pháp này là bằng việc nêu ra các câu hỏi và cách đặt câu
hỏi buộc đối tượng khi trả lời sẽ phải liên hệ với các sự kiện thực tế, tức là
hướng cho tư duy của bị can luôn phải định hướng cho tư duy của bị can luôn
phải hướng tới sự thật, không thể đưa ra những lời gian dối, qua đó cũng làm
cho họ nhận thấy rằng không thể cứ bám lấy cách suy nghĩ, khai báo như cũ.
Nói cách khác, phương pháp này thể hiện ở việc đặt ra nhiệm vụ định hướng,
phát triển các quá trình tư duy ở bị can. Từ đó, bị can dần dần bị dẫn dắt đến
chỗ phải thừa nhận sự vô lí trong lời khai của mình, đồng thời giúp họ lựa chọn
thái độ khai báo tích cực. Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy trong điều
tra bao gồm những dạng sau :
-Thứ nhất : Điều tra viên đặt ra một loạt câu hỏi cụ thể chi tiết để xác định sự
thiếu rõ ràng về những thông tin mà bị can đã khai nhận về các sự kiện. Điều
2
3

/>

tra viên sẽ đặt ra các câu hỏi để hỏi sâu về những tình tiết cụ thể mà nếu các sự
kiện đó không có thật thì bị can sẽ trở nên lúng túng và đưa ra những câu trả lời
mâu thuẫn. Từ đó, bị can hiểu được sự khai báo dan dối là không lừa dối được
điều tra viên.

Ví dụ: A là bị can trong vụ án trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, A tạo ra tình huống
ngoại phạm bằng cách khai báo với cơ quan điều tra rằng, vào thời điểm xảy ra
vụ án, A đang chơi tại nhà B. Do có sự thống nhất từ trước với B, nên B đã thừa
nhận. Điều tra viên sử dụng phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy với A
bằng cách đưa ra những câu hỏi như: A đến nhà B lúc mấy giờ? Bằng phương
tiện gì? Ai ra mở cửa cho A? A, B ngồi ở đâu? Đồ đạc trong nhà bày biện như
thế nào? Thông qua cách tác động này điều tra viên đã tìm ra những mâu thuẫn
trong lời khai của bị can và buộc họ phải từ bỏ thái độ khai báo gian dối.
-Thứ hai :Điều tra viên đưa ra câu hỏi cho bị can, buộc bị can khi trả lời
những câu hỏi đó phải liên tưởng đến hành vi phạm tội hoặc hành vi che giấu
tội phạm của mình. Từ đó, bị can cũng hiểu rằng cơ quan điều tra biết hết sự
kiện tội phạm của mình.
-Thứ ba: Điều tra viên đưa ra những câu hỏi khác với sự chuẩn bị của bị can,
khiến cho bị can trở nên lúng túng không thể sử dụng những câu hỏi giả tạo đã
chuẩn bị trước.
Ví dụ: Trong vụ trộm cắp 12 viên kim cương của bà H ở quận 10, thành phố
Hồ Chí Minh, hướng điều tra nhằm vào bà B là người giúp việc của bà H. Khi
bắt đầu hỏi cung, điều tra viên không hỏi “ Có phải chị đã lấy 12 viên kim
cương không?” mà lại hỏi “Chắc 12 viên kim cương đó phải có giá mấy trăm
triệu chứ chẳng ít”. Ngay lập tức bà B cãi “Làm gì đắt giữ vậy, cao lắm chỉ hơn
một trăm triệu đồng là cùng”. Điều tra viên tiếp tục hỏi “Hơn một trăm triệu


đồng không nhiều à? Liệu chị đã có số tiền ấy chưa?” , “Tôi đã từng có số tiền
lớn như vậy” – bà B trả lời. Qua những câu trả lời này, điều tra viên thấy B
quan tâm một cách bất bình thường đến giá cả của 12 viên kim cương.Từ đó,
điều tra viên tiếp tục đấu tranh khai thác bà B buộc bà B phải nhận tội.
Các trường hợp được điều tra viên sử dụng phương pháp đặt và thay đổi vấn
đề tư duy là :
- Khi bị can quyên một số tình tiết vụ án.

- Cần làm cho bị can thay đổi thái độ, lập trường để họ xem xét đánh giá, hành
vi xử sự của bản thân.
- Khi bị can khai báo gian dối, không đúng sự thật.
Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp này, điều tra viên cần phân biệt trường
hợp bị can cố ý khai báo gian dối với trường hợp bị can có khả năng diễn đạt
kém trong trạng thái tinh thần không bình tĩnh. để việc áp dụng phương pháp
này có hiệu quả, điều tra viên cần có kế hoạch trước. Tức là điều tra viên nên
thiết kế một bảng câu hỏi chi tiết và có tính logic để dẫn dắt bị can tới sự thừa
nhận lời khai của mình là không đúng sự thật.
2. Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy trong xét xử vụ án hình sự
Xét xử là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất mà tâm lý của các chủ thể
tham gia tố tụng, nhất là bị cáo chịu nhiều tác động lớn từ nhiều yếu tố. Tâm lý
của bị cáo chính là nhân tố ảnh hưởng đến toàn bộ giai đoạn xét xử. Để giải
đoạn xét xử có thể diễn ra thuận lợi nhất, Hội đồng thẩm phán, Viện kiểm sát
Nhân dân và một số chủ thể có quyền và nghĩa vụ khác sử dụng nhiều phương
pháp để tác động vào tâm lí vào những chủ thể tham gia tố tụng theo hướng
tích cực. Trong những phương pháp đó, phải kể đến phương pháp đặt và thay


đổi vấn đề tư duy.
Mục đích của phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy trong giai đoạn xét
xử là hướng quá trình tư duy của người cung cấp lời khai bằng cách đưa ra các
câu hỏi liên quan đến vụ án, để họ trả lời buộc phải sử dụng thông tin từ sự
kiện, sự việc bị che giấu.
Khi sử dụng phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy cần phải chú ý đến
giai đoạn hình thành lời khai ở người được xét hỏi, đó là giai đoạn nhớ lại mô
hình vụ án, nó giúp họ khôi phục lại trong tư duy điều mà họ đã khai ở giai
đoạn điều tra. Quá trình xét xử phải giúp cho những người dự phiên toàn phát
hiện được bản chất thật của vụ án một cách dần dần, rõ ràng thông qua các câu
hỏi khác nhau về những điểm có mâu thuẫn, đặc biệt là làm thay đổi tư duy của

những người có liên quan trực tiếp đến vụ án.
Phương pháp này được áp dụng trong một số trường hợp sau:
-

Khi người cung cấp lời khai quên một số tình tiết của vụ án. Việc này sẽ

làm sống lại những ký ức, những tình tiết mà họ quên.
Ví dụ: M bị đưa ra xét xử với tội danh giết người. Tại phiên tòa, Thẩm phán
đã liên tục đưa ra các câu hỏi liên quan đến vụ án để kiểm tra và đánh giá lời
khai trước đó của bị cáo M có đúng với lời khai tại phiên tòa hay không. Sau
đó, thẩm phán có thể đặt thêm những câu hỏi có liên quan đến những điểm
chưa rõ trong quá trình gây án, về động cơ, mục đích, cách thức tiến hành,... từ
đó làm cho M dần nhớ được những chi tiết đã quên trong quá trình gây án.
-

Khi người bị tác động khai báo không đúng sự thật:

Ví dụ: khi tiến hành xét xử N với tội danh tham ô tài sản, Hội đồng thẩm phán
đưa ra các câu hỏi liên quan đến cách thức thực hiện, thời gian bắt đầu thực


hiện tội phạm, có đồng phạm hay không? Nhưng N không trả lời trọng tâm câu
hỏi mà chỉ trả lời quanh co, chối tội hoặc trả lời không đúng với sự thật của vụ
án.
Trong tình huống trên, khi N tìm cách chối tội bằng cách trả lời không đúng,
thì lúc này, trong đầu của N đồng thời tồn tại hai mô hình tư duy về vụ án, một
mô hình về diễn biến của vụ án do N sáng tạo ra nhằm che đậy hành vi phạm
tội của mình và một mô hình phản ánh đúng sự thật khách quan về vụ án. Để
lời khai của mình có sức thuyết phục, N cố gắng tìm cách làm cho mô hình tư
duy giả trở thành thật. Nhưng khi bị Hội đồng thẩm phán liên tiếp đưa ra một

loạt các câu hỏi, N dễ rơi vào trạng thái căng thẳng, khó kiểm soát nội dung câu
hỏi và nội dung câu trả lời của mình. Từ đó làm bộc lộ ra những điểm không
tương thích với nhau trong vụ án.
3. Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy trong thi hành án phạt tù
Thi hành án phạt tù là một trong những hoạt động quan trọng nhất trong quá
trình giải quyết vụ án. Hoạt động thi hành án phat tù là công đoạn cuối cùng,
bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện. Hoạt động thi
hành án phạt tù được hiểu là việc cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật thi hành án phạt tù bằng cách buộc phạm nhân phải chịu
sự quản lí, giam giữ, giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội.
Nhiệm vụ của hoạt động này nhằm mục đích cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân
cách, văn hóa, kĩ năng lao động nhằm mục đích làm cho người thụ án trở thành
một công dân tốt trong xã hội, mặt khác hoạt động thi hành án còn có vai trò
ngăn ngừa, răn đe những kẻ đã và đang có ý định phạm tội. Chính vì vậy, trong
giai đoạn thi hành án phạt tù thì hoạt động giáo dục và cải tạo cá nhân người
phạm tội là mục tiêu quan trọng của các cán bộ trại giam. Để việc giáo dục, cải
tạo người phạm tội đật được kết quả cao nhất thì việc sử dụng những phương


pháp tác động tâm lý đối với phạm nhân là điều tất yếu.4
Trong giai đoạn thi hành án phạt tù: Khi cầm thay đổi thái độ, quan điểm, lập
trường của đối tượng bị phạt tù. Dưới ảnh hưởng của các vấn đề đặt ra, người
bị tác động phải phân tích, xem xét, đánh giá lại hành vi, cách xử xự của bản
thân. Điều này có thể làm cho họ thay đổi thái độ, quan điểm của bản thân.
Cụ thể là khi bước vào giai đoạn thi hành án phạt tù thì bản thân cá nhân
người phạm tội bị cách li ra khỏi xã hội, bị quản lí chặt chẽ và bị ràng buộc bởi
nhiều hạn chế hoặc các quy định của pháp luật. Ở góc độ giáo dục, các hạn chế
và quy định đã làm phát sinh nhiều tiêu cực không có lợi. Đối với con người tự
do, thoải mái là một nhu cầu tất yếu và cần thiết. Với phạm nhân mà phần lớn
có lối sống tự do, vô kỉ luật, không tôn trọng kỉ cương, luật pháp thì việc hạn

chế tự do và các quy định nghiêm ngặt khác của pháp luật là một bức xúc lớn
đối với họ. Chính những xung đột giữa nhu cầu tự do, nhu cầu vật chất… và
các quy định, nội quy chặt chẽ hạn chế tự do đã dân đến nhiều trạng thái tâm lí
tiêu cực của những bất mãn, thờ ơ, thiếu niềm tin vào tương lai, bàng quan với
tập thể, với các yêu cầu của cơ quan thi hành án. Chính vì vậy, việc đặt vấn đề
và thay đổi vấn đề tư duy trở nên cần thiết hơn boa giờ hết, nhờ phương pháp
này, cán bộ trại giam có thể làm thay đổi thái độ, lập trường, quan điểm của
phạm nhân. Dưới ảnh hưởng của các vấn đề mà cán bộ trại giam đặt ra, bản
thân người phạm nhân bị tác động ít nhiều rồi từ đó trong tâm lí phạm nhân
hình thành sự phân tích, xem xét, đánh giá lại hành vi, cách suy nghĩ, cư xử của
bản thân. Điều này có thể làm cho họ đi đến quyết định thay đổi thái độ, quan
điểm của bản thân.
Ví dụ: Trong một vụ án gây chấn động cả nước năm 2011, Lê Văn Luyện một
sát thủ máu lạnh đã ra tay sát hại hai vợ chồng chủ tiệm vàng Ngọc Bích cùng
4

Nguyễn Thị Hồng Uyên, năm 2017


với đứa con 18 tháng tuổi và con gái lớn bị chặt đứt một cánh tay, sau khi gây
án, Luyện cướp đi số tiền gần 1 tỷ 300 triệu đồng. Với mức án phạt 18 năm tù,
Luyện thụ án tại trại giam số 3 thuộc Tổng cục 8- Bộ Công An. Trong những
ngày đầu vào trại, Luyện đã được các đại ca, đại bàng trong tù thổi vào đầu
những suy nghĩ tiêu cực. Đang buồn bã, chán nản vì "tù lâu, án dài", cộng với
cá tính ngang tàng... nên Luyện phớt lờ mọi quy định có lần Luyện đã đánh cả
cán bộ trại giam. Sau những lần bị phạt cùm đầu tiên, Luyện càng thêm hung
hãn, căm tức các cán bộ trại giam. Lúc này trong đầu Luyện chỉ muốn trốn trại
và nung nấu cách thoát ra. Trong những ngày tháng Luyện bị cùm chân trong
buồng kỉ luật, cán bộ trại giam đã thường xuyên xuống thăm, phân tích cho
Luyện thấy điều hơn, lẽ phải. Mặc dù Luyện phạm kỷ luật nhưng các cán bộ

không tỏ thái độ ghét bỏ, mà rất kiên trì thuyết phục để luyện hồi tâm chuyển
ý.Cán bộ trại giam khuyên giải Luyện nhiều điều, còn khuyên Luyện đọc sách
về đạo Phật trong Tủ sách Hướng thiện của Trại. Cùng với cách nói chuyện nhẹ
nhàng, tình cảm như bậc cha chú nói với con mà cán bộ trại giam đã cảm hóa
được Luyện, đã thay đổi được những suy nghĩ tiêu cực trong đầu Luyện. Từ đó
trở đi, Luyện ý thức hơn trong việc chấp hành nội quy của trại giam và hăng hái
tham gia các hoạt động tập thể của trại.
III. Ý nghĩa của phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy đối với tâm
lý học tư pháp
- xác định sự thật khách quan của vụ án một cách đầy đủ, toàn diện
- đạt được mục đích chung của hoạt động tư pháp
- khắc phục những động cơ tiêu cực, khơi dậy những động cơ tích cực ở bị
can tạo điều kiện cho việc xác lập chứng cứ được nhanh chóng, đúng đắn và
khách quan


- kích thích sự tích cực hoạt động của bị can, giúp cho quá trình xác lập chứng
cứ về sự việc phạm tội được chính xác đúng pháp luật.
- có vai trò thúc đẩy quá trình điều tra của vụ án trực tiếp đối với người làm
chứng, lời khai của học làm mở ra một lối phá án mới cho điều tra viên goáp
phần xử lý vụ án.
IV. Hạn chế của phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy đối với hoạt
động tư pháp trong thực tế và biện pháp khắc phục
1. Hạn chế của phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy đối với hoạt
động tư pháp trong thực tế
Hướng quá trình tư duy của người bị tác động bằng cách đặt cho họ những
nhiệm vụ tương ứng (câu hỏi) để khi giải quyết những nhiệm vụ này họ buộc
phải sử dụng thông tin từ mô hình tư duy của sự kiện, đó là phương pháp đặt và
thay đổi vấn đề tư duy. Cụ thể: Đặt ra một loạt câu hỏi chi tiết để khám phá sự
thiếu rõ ràng về một khối lượng lớn những thông tin của đối tượng đã đưa ra lời

khai không đúng về sự kiện
Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy có tác động tích cực đối với hoạt
động tư pháp, giúp người bị hại tái hiện lại những tình tiết cần thiết để họ quên
hoặc nhầm lẫn , phục hồi lai những kí ức trong tình tiết mà họ đã quên. Tuy
nhiên, phương này gặp phải 1 số những hạn chế nhất định. Không phải lúc nào,
người bị hại cũng đủ tỉnh táo để kể diễn biến lại cho cơ quan điều tra, hơn nữa
đặc biệt khi bị hỏi cung, tâm lí của họ thường bị phân tán, lo sợ, căng thẳng nên
các nhà điều tra lấy lời khai phải rất mệt mỏi để đấu tranh tâm lí với bị can, bị
cáo. Khi đặt ra liên tục, dồn dập những câu hỏi thì càng gây căng thẳng hơn cho
tâm lí của đối tượng bị hỏi.
Ví dụ: Trong 1 vụ giết người cướp tài sản, bị cáo N trong quá trình hỏi cung


quanh co chối tội, trả lời quanh co, vòng vo, nói vào khoảng thời gian án mạng
xảy ra mình không đi ra ngoài mà chỉ ở nhà ngồi xem tivi. Lúc này các cán bộ
điều tra sẽ đặt ra các câu hỏi: Anh ở nhà với ai? Lúc mấy giờ? Xem chương
trình gì? Xem xong tivi thì anh làm gì? Có ai làm chứng cho việc vào khoảng
thời gian đó anh ở nhà? Anh đã từng quen và gặp mặt nạn nhân chưa?...Những
câu hỏi liên tục và xoay quanh vụ án khiến bị can rơi vào tình trạng lo sợ,
khủng hoảng đôi khi khó khăn hơn cho việc lấy lời khai khi tâm lí của bị can
không vững
Thêm một hạn chế nữa là, việc vận dụng phương pháp này trên thực tế đòi hỏi
người tiến hành hoạt động tư pháp như các cán bộ điều tra, kiểm sát viên, điều
tra viên phải có chuyên môn nghiệp vụ tốt, tâm lí cũng vững vàng, không được
nôn nóng, kích động mà phải thật điềm tĩnh, khôn khéo để có thể đặt ra các câu
hỏi tư duy tác động tới nhận thức của bị can, bị cáo và làm thay đổi tư duy của
họ để họ khai báo đúng sự thật của vụ án.
2. Một số biện pháp khắc phục hạn chế của biện pháp đặt và thay đổi vấn
đề tư duy
Đề xuất một số biện pháp khắc phục:

Thứ nhất, xuất phát từ việc điều tra viên sẽ đặt hàng loạt câu hỏi để người
khai báo trả lời thì để đạt được hiệu quả cao, các câu hỏi phải mang tính hệ
thống, có liên quan đến vụ án.
Thư hai, khi sử dụng phương pháp này điều tra viên cần phân biệt trường hợp
bị can cố ý khai báo gian dối với trường hợp bị can có khả năng diễn đạt kém
trong trạng thái tinh thần không bình tĩnh. Để việc áp dụng phương pháp này có
hiệu quả, điều tra viên cần có kế hoạch trước. Tức là điều tra viên nên thiết kế
một bảng câu hỏi chi tiết và có tính logic để dẫn dắt bị can tới sự thừa nhận lời


khai của mình là không đúng sự thật.
Thứ ba, Điều tra viên phải có thái độ và tâm lý vững vàng không được nôn
nóng và kích động trước phản ứng của người khai báo.

KẾT LUẬN
Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy là phương pháp tác động tâm lý
được sử dụng phổ biến trong một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự,
nhằm mục đích chủ yếu là xác định sự thật khách quan, tìm lại công bằng cho
các đối tượng tham gia hoạt động tố tụng. Phương pháp tác động tâm lý nào
cũng có điểm tích cực và tiêu cực riêng. Để sử sụng một cách hợp lý và có hiệu
quả các phương pháp tác động tâm lý trong hoạt động tố tụng cần phải xác định
đúng mục đích, chú ý tới những điều kiện, hoàn cảnh tác động, nội dung và tâm
lý của người bị tác động. Chủ thể thực hiện tác động tâm lý phải nắm vững kiến
thức chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức, có kỹ năng giao tiếp cao để thực
hiện các phương pháp tác động tâm lý có hiệu quả.
MỤC LỤC

1. Giáo trình tâm lý học tư pháp, trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công An
Nhân Dân, năm 2006
2. Giáo trình tâm lý học đại cương, trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công

An Nhân Dân, năm 2008
3. Giáo trình tâm lý học pháp lý, Đặng Thanh Nga, Nguyễn Hồi Loan.
4. />

hoi-cung-bi-can.htm
5. />6. />7. />
PHỤ LỤC
Một số hình ảnh trong các hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án phạt tù




×