BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LỚP: 02-ĐHQLĐĐ3 – KHOA: QUẢN LÍ ĐẤT ĐAI
TIỂU LUẬN MÔN XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ TÀI: XÃ HỘI HỌC NÔNG THÔN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
CHỦ YẾU
Giáo viên bộ môn: Vũ Thị Hạnh Thu
TP HCM, THÁNG 09/2015
LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội học là một môn khoa học cụ thể nằm trong hệ thống các môn khoa
học về xã hội và nhân văn. Xã hội học là môn học nghiên cứu về nhiều
khía cạnh trong đời sống xã hội con người và được chia ra thành nhiều
chuyên ngành xã hội học khác nhau. Các chuyên ngành này là một bộ phận
của xã hội học gắn lý luận xã hội học đại cương vào việc nghiên cứu các
hiện tượng của một lĩnh vực cụ thể, nhất định của đời sống xã hội. Và
trong bài tiểu luận này nhóm mình sẽ cùng các bạn tìm hiểu kỹ hơn về một
chuyên ngành xã hội học. Đó là xã hội học nông thôn
Xã hội học nông thôn là một ngành khoa học quan trọng trong xã hội học.
Xã hội học nông thôn nghiên cứu các hiện tượng xã hội, vấn đề xã hội
cũng như quá trình hình thành và phát triển của xã hội nông thôn từ xưa
đến nay. Từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá, phân tích một cách khác
quan nhất về xã hội nông thôn của các quốc gia trên thế giới nói chung và
xã hội nông thôn của Việt Nam nói riêng. Đồng thời dựa trên những kết
quả đó các cấp nhà nước, chính quyền sẽ đưa ra những chính sách, đường
lối phù hợp cho từng vùng.
Bài tiểu luận này là sự đóng góp, cố gắng của từng thành viên trong nhóm.
Tuy nhiên, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình biên soạn.
Mong thầy cô và các bạn sẽ có những ý kiến đóng góp giúp bài tiểu luận
của nhóm được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !!!
PHẦN 1:KHÁI QUÁT VỀ XÃ HỘI HỌC NÔNG THÔN
Xã hội học nông thôn là một nhánh của xã hội học chuyên biệt nghiên cứu về nguồn gốc, sự tồn tại
và các quy luật chung cho sự phát triển và hoạt động của nông thôn như một cộng đồng xã hội.
1.1 Nông thôn là gì?
Nông thôn là vùng lãnh thổ sinh sống của tập hợp dân cư chủ yếu của những người làm nông
nghiệp và những nghề khác có liên quan trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Mật độ dân nông thôn
không cao, kết cấu hạ tầng kém tiện nghi . Tập hợp này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức
khác; phân biệt với đô thị. Phát triển nông thôn: là một quá trình tất yếu cải thiện một cách bền vững
về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng sống của dân cư nông thôn.
1.2.
Xã hội học nông thôn là gì?
Xã hội học nông thôn có tên Tiếng Anh là Rural Sociology, là bước phát triển tri thức của xã
hội học. Xã hội học nông thôn là một phạm trù lịch sử, nói tới một hình thái kinh tế-xã hội. Xã hội
học nông thôn là một cấu trúc xã hội chỉnh thể từ các khía cạnh: chính trị, kinh tế, văn hóa trong
tương quan với xã hội tổng thể, xã hội nông thôn là một thành tố cấu thành (bên cạnh xã hôi đô thị)
thì xã hội nông thôn còn có những nét đặc thù riêng biệt và có tính độc lập tương đối.
Xã hội học nông thôn là một chuyên ngành xã hội học nghiên cứu về xã hội nông thôn,
khám phá ra các quy luật phát triển của xã hội nông thôn, nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện các cách thức tổ chức xạ hôi nông thôn, cơ cấu và các chức năng, những mục tiêu và khuynh
hướng phát triển của nó.
• Một số định nghĩa xã hội học nông thôn:
Ôxi-Pốp-1990: “ Vấn đề trung tâm của xạ hội học nông thôn là nghiên cứu quá trình tái tạo
xã hội, xác lập các mức độ phù hợp của các điều kiện, mục tiêu và kết quả của quá trình đó”
Bertrand-1972: “ Xã hội học nông thôn nghiên cứu mối quan hệ của con người trong hoàn
cảnh môi trường nông thôn”
Summer-1991: “Xã hội học nông thôn nghiên cứu tổ chức xã hội và các quá trình xã hội đặc
trưng cho những khu vực địa lý có dân số tương đối nhỏ và mật độ thấp”
Tô Duy Hợp-1997: “Xã hội học nông thôn nghiên cứu động lực và tình hình đời sống nông
thôn…”
Lý Thư Kinh-1989: “Xã hội học nông thôn là khoa học thông qua những nghiên cứu vầ mối
quan hệ, cơ cấu xã hội, chức năng và hành vi xã hội ở vùng nông thôn để nói lên sự phát
triển của xã hội nông thôn, những quy luật biến đổi xã hội nông thôn.”
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng-1997: “Xã hội học nông thôn là một lĩnh vực nghiên cứu
của xã hội học chuyên biệt, nó nghiên cứu về nguồn gốc, sự tồn tại và phát triển nông thôn
như là một cộng đồng xã hội.
1.3.
Lịch sử hình thành xã hội học nông thôn
Xã hội học nông thôn là một ngành khoa học quan trọng trong xã hội học. Xã hội học nông
thôn là chuyên ngành xã hội học ra đời muộn so với các chuyên ngành xã hội học khác (xã hội học
đô thị, xã hội học gia đình, xã hôi học văn hoá, xã hôi học pháp luật.). Xã hội học nông thôn bắt đầu
hình thành ở Mỹ, sau đó tràn sang châu Âu và toàn thế giới cho đến ngày nay.
Xã hội học nông thôn được phát triển mạnh mẽ ở Mỹ trong những năm 20,30 của thế kỉ
XX.Người ta cho rằng vào năm 1907 Tổng Thống Roosevelt Theodore (1858-1919) đã quyết định
thành lập "Ủy ban đời sống nông thôn" nhằm tập trung nghiên cứu các vấn đề của xã hội nông thôn
như sự suy sụp của xã hội nông thôn Mỹ ở các giai đoạn suy thoái (1890-1920), những vấn đề của
đời sống nông thôn, lệch lạc tâm lý trong đời sống nông thôn. Các báo cáo, các thông tin thu lại tạo
cơ sở đầu tiên cho việc hình thành xã hội học nông thôn.
“Ủy ban đời sống nông thôn” được đặt dưới sự lãnh đạo của Dean Bailey học giả xuất sắc
về nghiên cứu nông thôn. Ông đã tiến hành phát 500.000 bản hệ tới người nông dân và những người
phụ trách nông thôn sau thu về 100.000 bản với mục đích phân tích, dự báo sự sai lệch và biến dạng
của xã hội học nông thôn. Bản báo cáo này trở thành Hiến chương xã hội học nông thôn.
Năm 1917 các nhà Xã hội học Mỹ đã thành lập Ban Xã hội học nông thôn dưới sự lãnh đạo
của Tiến sĩ Galpin. Một số cuốn sách về xã hội học nông thôn được xuất bản, như: "Xã hội học nông
thôn" của giáo sư J.M. Gillettee (1916); cuốn "Sách tra cứu hệ thống về xã hội học nông thôn" được
xuất bản năm 1930. Các tên tuổi lớn nghiên cứu về XHH nông thôn: Sorokin, Zimmerman, Galpin,
Taylor, Kolb, Sims, Smith, Landisredfeld, DwightSandrson. Năm 1935, tạp chí "Xã hội học nông
thôn" ra mỗi tháng một kỳ, năm 1937, "Hội xã hội học nông thôn Mỹ" được thành lập. Đây là
những mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của chuyên ngành Xã hội học nông thôn.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, xã hội học nông thôn được phát triển mạnh ở Châu Âu.
Xã hội học nông thôn châu Âu đã phát triển mạnh mẽ từ những thập kỷ 60 của thế kỷ XX đến nay.
Các khuynh hướng, các trường phái xã hội học khác nhau cũng đưa ra các cách tiếp cận và cách giải
thích khác nhau về đời sống xã hội ở nông thôn về cơ cấu xã hội cũng như sự chuyển hóa các cơ
cấu, về mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị. Năm 1957, "Nhóm công tác Xã hội học nông thôn
châu Âu" được thành lập, sau đó "Cơ quan Xã hội học nông thôn châu Âu" ra đời. Năm 1964, giới
xã hội học nông thôn châu Âu và Hiệp hội xã hội học nông thôn Mỹ đã tiến hành tổ chức Đại học
thế giới về Xã hội học nông thôn lần thứ nhất. Đại hội Xã hội học nông thôn lần thứ hai vào năm
1968 tại Hà Lan.
Hàng loạt các công trình nghiên cứu như: "Một thị trấn Hoa Kỳ" của J.M.Williams, "Đồi
Quaker"- Warran Wilson, Lang Hoosiser-Newell Sims... Là những công trình điển hình về nông
thôn Mỹ, đây là các tài liệu thống kê, mô tả lịch sử, cùng với nó là những kỹ thuật phỏng vấn điền
dã.
Pitirim sorokin (1889-1968)
1.4.
Đối tượng , chức năng của xạ hội học nông thôn
1.4.1 Đối tượng của xã hội học nông thôn
Hiện vẫn có những khác biệt khi quan niệm về đối tượng của xã hội học nông thôn. Xã hội
học nông thôn nghiên cứu về cái gì trong xã hội nông thôn, cho đến nay vẫn còn chưa thống nhất.
P.L. Vogte: “XHH nông thôn nghiên cứu động lực và tình hình đời sống nông thôn, dựa vào
đó để phát triển và duy trì văn hoá nông thôn một cách có hiệu quả và khoa học.”
C.C. Tagler: “XHH nông thôn là thảo luận mối quan hệ lẫn nhau của nhân dân nông thôn,
đồng thời còn thảo luận chế độ xã hội nông thôn với mức sống và các vấn đề xã hội nông thôn của
nó”.
D.Sanderson: XHH nông thôn cần thiết "nghiên cứu tổ chức xã hội nông thôn".
Nguyễn Thế Phán (ĐH KTQD HN): Đối tượng của XHH nông thôn là:
1- Nghiên cứu tính quy luật của xã hội nông thôn;
2- Nghiên cứu những hiện tượng xã hội nông thôn, những vấn đề liên quan đến sự tồn tại, vận
động và phát triển của xã hội nông thôn;
3- Nghiên cứu các chính chính sách kinh tế- xã hội đối với nông thôn, cơ sở- phương pháp luận
khoa học xã hội của chiến lược và sách lược cải tạo nông thôn cũ, xây dựng nông thôn mới.
Tống Văn Chung: Đối tượng nghiên cứu của xã hội học nông thôn là:
123456-
Nghiên cứu các quan hệ xã hội ở nông thôn;
Nghiên cứu các quy luật chi phối, điều tiết các quan hệ xã hội nông thôn;
Nghiên cứu các sự kiện xã hội ở nông thôn;
Nghiên cứu các hiện tượng xã hội, các quá trình xã hội ở nông thôn;
Nghiên cứu các nhóm xã hội nông thôn trong tổng thể cơ cấu xã hội nông thôn;
Nghiên cứu các cộng đồng xã hội, những khía cạnh hoạt động, vai trò của chúng ở nông
thôn;
7- Nghiên cứu sự hiện diện và vận hành của các thiết chế xã hội nông thôn;
8- Nghiên cứu những vấn đề xã hội trong hoạt động kinh tế của người dân nông thôn.
Tô Duy Hợp:cho rằng có 2 trục chính về đối tượng nghiên cứu của xã hội học nông thôn.
Thứ nhất, Các vấn đề tương quan và tương tác giữa xã hội học nông thôn với môi trường,
bao gồm: Đô thị hoá nông thôn;Tính độc lập tương đối và sự phụ thuộc căn bản của xã hội nông
thôn vào xã hội tổng thể;Công nghiệp hoá nông nghiệp và hiện đại hoá xã hội nông nghiệp- nông
dân-nông thôn;Bảo đảm cân bằng sinh thái nhân văn ở địa bàn nông thôn và cả ở địa bàn đô thị.
Thứ hai, Các vấn đề tương quan và tương tác nội bộ xã hội nông thôn, bao gồm: Vị thế, vai
trò của các nhân vật xã hội nông thôn (nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức;Các cơ cấu
nhân khẩu, lao động nghề nghiệp, phân tầng xã hội của các nhóm xã hội nông thôn. Thực trạng và
xu hướng biến đổi của chúng; Các thiết chế xã hội nông thôn: thực trạng và xu hướng biến đổi của
các thiết chế cơ bản như kinh tế, chính trị, gia đình, giáo dục, y tế, tôn giáo, khoa học, thể thao ở
nông thôn; Các vấn đề xã hội khác như lối sống nông thôn, văn hoá nông thôn, văn minh nông
nghiệp, tổ chức và quản lý xã hội nông thôn.
Các quan điểm nêu trên, về cơ bản đã nêu bật được đối tượng nghiên cứu của chuyên ngành
XHH nông thôn. Nói ngắn gọn: đối tượng của XHH nông thôn là nghiên cứu tổng thể về xã hội
nông thôn và hành vi con người trong xã hội nông thôn, những quy luật và tính quy luật xã hội,
những biểu hiện, cơ chế và các quan hệ xã hội ở nông thôn.
1.4.2 Chức năng của xã hội học nông thôn
Xã hội học nông thôn cung cấp những tri thức cần thiết ở cả hai khía cạnh: Thứ nhất là
những tri thức lý luận về xã hội học nông thôn. Thứ hai, XHH nông thôn cung cấp những tri thức
cần thiết để hiểu biết thực trạng xã hội nông thôn Việt Nam.
Xã hội học nông thôn sẽ cung cấp và làm giàu thêm vào hệ thống tri thức nhân loại về xã hội
nông thôn nói chung và nông thôn Việt Nam nói riêng.
Xã hội học nông thôn bằng hoạt động nghiên cứu của mình sẽ cung cấp kho thông tin quý
giá cho công tác quản lý, điều hành xã hội; là cơ sở quan trọng giúp các nhà quản lý, hoạch định
chính sách trong hoạt động quản lý và xây dựng các chính sách, đường lối phát triển nông thôn nói
riêng và phát triển đất nước nói chung.
PHẦN 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU CỦA XÃ HỘI HỌC NÔNG THÔN
* Một số khái niệm quan trọng
Địa vị xã hội chỉ sự xác định vị trí xã hội trong một cơ cấu xã hội. Mỗi một vị trí xã hội của
cá nhân được gọi là địa vị và hành vi mong đợi từ những người có địa vị đó.
Vai trò xã hội là khái niệm chỉ một tập hợp các mong đợi, quyền và nhựng nghĩa vụ được
gán cho một địa vị xã hội cụ thể. Nó là tập hợp các khuôn mẫu ứng xử theo những yêu cầu nhất định
của xã hội.
Di động xã hội ở nông thôn là khái niêm chỉ sự thay đổi vị thế xã hội của các thành viên
trong xã hội nông thôn, từ vị thế xã hội này sang một vị thế xã hội khác.
Di động xã hội có hai loại: Di động dọc là sự chuyển dịch vị trí xã hội của cá nhân hay một
nhóm xã hội từ địa vị xã hội này sang địa vị xã hội khác. Di động ngang là khái niệm chỉ sự chuyển
đổi những địa vị xã hội của các cá nhân, nhóm xã hội trong cùng một tầng lớp xã hội.
Thăng tiến xã hội là một dạng đặc thù của di động xã hội, chỉ sự nâng cao vị thế xã hội do
nhu cầu phát triển xã hội và nhằm thỏa mãn lợi ích cá nhân của con người trong xã hội.
2.1. Vấn đề về cơ cấu xã hội ở nông thôn
2.1.1 Khái niệm
Cơ cấu xã hội là cách tổ chức của một xã hội và cho thấy tính chất tổ chức của nó trong một
giai đoạn lịch sử nhất định. Cơ cấu xã hội còn là toàn thể các mối liên hệ tương đối ổn định giữa các
yếu tố trong cùng một hệ thống xã hội
Nói đến cơ cấu xã hội nông thôn là đề cập đến cách thức tổ chức hệ thống xã hội nông thôn
và hệ thống các địa vị, vai trò xã hội của các chủ thể hành động . Xã hội nông thôn có tính đặc thù là
một tổng thể xã hội nên nó có tính đa dạng phức tạp trong cấu trúc và hoạt động. Vì vậy, về mặt cơ
cấu xã hội nông thôn cũng rất đa dạng, phong phú với nhiều mối liên hệ tương tác phức tạp ở trong
tổng thể xã hội nông thôn. Có nhiều loại cơ cấu xã hội nông thôn, tuy nhiên xét theo tầm quan trọng
và vai trò của các loại cơ cấu mà người ta thường chú ý đến một số loại cơ cấu nông thôn nhất định.
2.1.2 Các loại cơ cấu nông thôn
Cơ cấu lao động-nghề nghiệp xã hội: là loại hình cơ cấu xã hội cơ bản ở nông thôn, thường
người ta phân tích theo hai loại cơ cấu lao động nghề nghiệp. Cấu trúc lao động nghề nghiệp theo
chiều ngang( có những ngành nghề nào và hoạt động của chúng như: nông nghiệp, hỗn hợp, phi
nông…), và cấu trúc lao động nghề nghiệp theo chiều dọc ( cấu trúc nghề nghiệp theo một loại
ngành nghề như cán bộ HTX-nông dân, nghề nông: lao động chính- lao động phụ, nghề thủ công:
thợ cả, thợ, thợ phụ…)
Cơ cấu dân số xã hội nông thôn: những dấu hiệu để xem xét như: quy mô dân số, phân bố
dân số, cấu trúc dân số theo giới tính, độ tuổi số son…Khi nghiên cứu cơ cấu dân số xã hội nông
thôn người ta thường rất chú ý đến các nhóm dân số đặc thù ở nông thôn như: nhóm cao tuổi, nhóm
trẻ em, nhóm thanh niên, nhóm phụ nữ…
Cơ cấu văn hóa xã hội nông thôn: Được thể hiện ở sự khác biệt của các tiểu văn hóa xã hội.
Hệ thống vai trò của các tiểu văn hóa phản ánh những giá trị và chuẩn mực xã hội đối với các thành
viên, các dấu hiệu để phân tích cơ cấu văn hóa xã hội là: các cộng đồng dân tộc(sắc tộc), yếu tố địa
lý( làng này với làng khác), tín ngưỡng( tôn giáo của dân cư ở làng đó)
Cơ cấu giai cấp xã hội ở nông thôn: Trong xã hội nông thôn có nhiều nhóm xã hội theo nghề
nghiệp, mức sống, tồn tại các loại giai tầng khác nhau: nông dân, trí thức, cán bộ viên chức, buôn
bán…. Tuy nhiên giai cấp chủ yếu và đầy đủ nội hàm của khái niệm giai cấp ở nông thôn Việt Nam
cũng chỉ có nông dân.
2.1.3 Hiện trạng cơ cấu xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay
*Đối với cơ cấu dân số
Tính đến 1/4/2011, dân số Việt Nam là 87.610.947 người, trong đó dân số nông thôn chiếm
69,4% trong khi nông dân hiện nay mới sử dụng 40% thời gian cho sản xuất nông nghiệp, còn lại
60% thời gian là nông nhàn.
Tỷ lệ dân số ở nông thôn so với thành thị cao hơn nhưng điều kiện sinh hoạt, mức thu nhập
lại thấp. Hơn nữa, người dân nông thôn với quan niệm “nhiều con nhiều phúc” nên số con trong
những gia đình ở nông thôn thường nhiều nhưng điều kiện chăm sóc kém kéo theo những vấn đề
cho xã hội.
*Đối với cơ cấu lao động – nghề nghiệp
Những năm gần đây nông thôn Việt Nam đang có nhiều biến đổi mạnh mẽ do trong quá trình
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã chuyển một phần không nhỏ đất
nông nghiệp sang xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch và đô thị mới…Thu hút
đầu tư là vấn đề được hầu hết các tỉnh, thành phố quan tâm, thậm chí được đặt ở vị trí ưu tiên hàng
đầu để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tỉnh nào càng nhiều có dự án đầu tư thì diện tích đất
nông nghiệp càng bị thu hẹp.
Việc triển khai đào tạo nghề cho người lao động còn chậm, chưa phù hợp với đối tượng lao
động ở nông thôn, nên kém hiệu quả. Việc đào tạo chuyển đổi nghề cho người lao động ở nông thôn
cũng gặp không ít khó khăn, bất cập. Trình độ văn hóa thanh niên thấp. Chất lượng các trung tâm,
trường dạy nghề chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, nên sau khi học nghề, các đối tượng này khó
cạnh tranh khi đi tìm việc làm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Các doanh nghiệp đều có
nhu cầu tuyển lao động trẻ (dưới 35 tuổi), lao động trên 35 tuổi rất khó tìm được việc làm, trừ khi
học là người nhà, họ hàng của các chủ doanh nghiệp tư nhân. Mặt khác, người nông dân Việt Nam,
do đặc điểm của lối sống, xã hội ở nông thôn, vốn rất thụ động, chưa thích nghi ngay được với sự
thay đổi này.
Thiếu việc làm là nguyên nhân chính dẫn đến thu nhập thấp, không ổn định. Trong những
năm mới chuyển đổi đất nông nghiệp, đời sống của nhân dân được cải thiện, thu nhập bình quân đầu
người tăng lên. Nhưng đó là sự tăng lên giả tạo, không bền vững, do người dân nhận được số tiền
đền bù, giải phóng mặt bằng. Ví dụ: Ngân sách của Tỉnh Ninh Bình tăng đột biến năm 2006, 2007,
2008 so với năm 1991 cũng chính từ việc này. Tiền đền bù giải phóng mặt bằng người dân chỉ nhận
một lần, nhưng các thế hệ con cháu lại tiếp nối đời này qua đời khác. Nguy cơ tái đói nghèo không
còn là chuyện xa lạ cũng không phải là của thế hệ sau mà chính ngày hôm nay. Đó là chuyện của
một tỉnh, một địa phương. Bên cạnh đó chính những chuyển biến về thu nhập làm cho cơ cấu giai
cấp ở nông thôn cũng có nhiều thay đổi.
*Đối với cơ cấu văn hóa
Hiện nay, cơ cấu văn hóa nông thôn cũng có nhiều chuyển biến đáng kể, do chịu nhiều tác
động của nền kinh tế thị trường trong thời đại mới. Một số hình thức văn hóa nông thôn về nghi lễ
cưới xin, ma chay đã có một số thay đổi nhất định. Nếu như trước đây những nghi thức cưới hỏi rất
cầu kỳ, phức tạp về mặt nghi lễ. Như một lễ cưới thường tuân theo các nghi thức như: lễ gia tiên, lễ
ăn hỏi, lễ lại mặt, lễ chạm ngõ… Còn ngày nay thì tùy vào từng nhu cầu cụ thể của gia đình, những
tập tục trên cũng được các gia đình ở nông thôn cắt giảm cho phù hợp hơn giúp tiết kiệm kinh tế, đỡ
tốn kém, gòn gàng, không gây ảnh hưởng phức tạp cho xã hội.
Gần đây, lễ hội truyền thống được phục hồi ở nhiều địa phương, tạo nên một sinh hoạt văn
hóa cộng đồng phong phú, bổ ích. Tuy nhiên, bên cạnh những cái được như: là dịp để cộng đồng
dân cư tìm lại cội nguồn văn hóa thông qua thực hành lê hội, tăng cường tình đoàn kết cộng đồng,
gia đình trong làng xóm, mở ra môi trường sinh hoạt văn hóa, giải trí cho người nông dân…, hoạt
động lễ hội ở nông thôn cũng như đô thị đang rất phức tạp, nảy sinh nhiều hiện tượng không phù
hợp với chuẩn mực đạo đức và văn hóa của nước ta.
2.2 Vấn đề về phân tầng xã hội nông thôn
Phân tầng xã hội là khái niệm chỉ sự phân bố các thành viên xã hội, một cộng đồng xã hội
thành những tầng lớp xã hội khác nhau về địa vị kinh tế(hay tài sản, của cải), địa vị chính trị( hay
quyền lực), địa vị xã hội(hay uy tín) cũng như một số khác biệt về trình độ văn hóa, nghề nghiệp,
nơi cư trú, lối sống…Phân tầng xã hội là một biểu hiện trực tiếp cụ thể các quan hệ xã hội bất bình
đẳng giữa các cá nhân, các nhóm xã hội…
2.2.1 Các kiểu phân tầng xã hội ở nông thôn
Sự phân tầng xã hội còn được đánh giá dựa trên những khía cạnh nhau, ở những thời kỳ lịch
sử khác nhau sẽ có những cách phân tầng xã hội khác nhau. Một số kiểu phân tầng xã hội ở nông
thôn hiện nay:
Phân tầng theo kinh tế: Phân tầng theo kinh tế là hiện tượng xã hội mang tính khách quan,
nó tồn tại trong điều kiện kinh tế-xã hội. Biểu hiện trực tiếp của sự phân tầng xã hội về kinh tế là sự
phân hóa giàu- nghèo ở nông thôn không chỉ là hiện tượng kinh tế mà còn là vấn đề lớn của xã hội.
Do nhiều yếu tố kinh tế xã hội khác nhau đẩy mạnh sự phân tầng này như: nghề nghiệp, vốn, số con,
lao động, vị trí xã hội, quyền lực chính trị, vị trí địa lý khả năng tiếp cận cơ may… mà nhiều gia
đình giàu lên hoặc nghèo đi. Có nhiều cách đo lường về phân tầng kinh tế như: đo về thu nhập, về
chi tiêu, về sở hữu ruộng đất và phương tiện lao động, về cơ sở vật chất và phương tiện sinh hoạt…
Phân tầng theo văn hóa: Sự phân tầng này tuy chưa phổ biến như phân tầng kinh tế nhưng
hiện nay đang có dấu hiệu hình thành xu hướng . Những thay đổi về văn hóa bao giờ cũng đi sau
thay đổi về kinh tế xã hội. Một số gia đình ở nông thôn trở nên giàu có, họ có điều kiện cho con cái
học hành, mua sắm trang thiết bị… Hình thành một lối sống mới-kiểu lối sống ở tầng lớp trên trong
xã hội nông thôn. Từ đó dẫn đến sự phân tầng về văn hóa. Thông qua một số nghiên cứu gần đây
cho thấy những dấu hiệu xuất hiện về hai loại văn hóa cư dân ở nông thôn hiện nay: loại văn hóa
của nhóm vượt trội (thường là người giàu, cán bộ, công chức trí thức ở nông thôn) và văn hóa của
đa số cư dân nông thôn.
Phân tầng theo tuổi tác: Xã hội truyền thống rất coi trọng người lớn tuổi( bảy mươi phải học
bảy mốt). Hiện nay điều đó không còn nặng nề nhưng đã trở thành một đạo lý truyền thống tốt đẹp
cần lưu giữ. Tuy nhiên ở nhiều vùng nông thôn Bắc Bộ, nông thôn miền núi phía Bắc, nông thô Tây
Nguyên thì tiếng nói của người già còn rất có trọng lượng
Phân tầng theo giới: Cũng là một đặc trưng của phân tầng xã hội truyền thống phương Đông,
tuy mức độ đã giảm bớt rất nhiều nhưng vấn đề về phân biệt giới tính ở nông thôn Việt Nam ở hình
thức này hay hình thức khác vẫn còn tồn tại hoặc trong gia đình hoặc trong xã hội.
2.2.2 Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội nông thôn Việt Nam hiện nay
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế không trực tiếp gây nên sự nghèo đói, nhưng lại làm tăng khoảng
cách giàu – nghèo, đẩy nhanh tốc độ phân cực giữa các nhóm lao động khác nhau. Việc phân cực
này có nhiều nguyên nhân của nền kinh tế thị trường, một trong những nguyên nhân cơ bản là do sự
phát triển mất cân đối giữa khu vực thành thị với khu vực nông thôn, giữa các ngành nghề kinh tế và
giữa cung và cầu lao động.
Tự do hóa thương mại mang lại những cơ hội tăng việc làm và thu nhập cho toàn bộ xã hội nhưng
không phải là những cơ hội ngang bằng cho tất cả người lao động, bởi điều kiện tiếp cận cơ hội ở
các nhóm dân cư khác nhau. Đối với lao động nông thôn, do trình độ văn hóa thấp, tay nghề kém,
thiếu vốn và kinh nghiệm nên khả năng cạnh tranh trong thị trường lao động, hàng hóa bị hạn chế.
Khi sản phẩm nông nghiệp bị cạnh tranh gay gắt chỉ các hộ có vốn, có tri thức, nhanh nhạy với thị
trường mới có thể tạo ra các hàng hóa có sức cạnh tranh với hàng ngoại, còn nông dân là không thể.
Mặt khác, nông sản được nhập khẩu tự do làm cho sản xuất nông sản trong nước bị dư thừa khiến
thu nhập của nông dân bị giảm sút. Điều này không chỉ tạo ra sự phân hóa giàu - nghèo trong nội bộ
nông thôn, mà còn khoét sâu thêm sự bất bình đẳng về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông
thôn.
2.3. Vấn đề về thiết chế xã hội ở nông thôn
Phát triển xã hội ở nông thôn là cả một hệ thống các thiết chế chính trị-xã hội. Những thiết
chế ở nông thôn giúp quản lý và điều hành sự vận động xã hội nông thôn một cách ổn định và tốt
đẹp. Có rất nhiều thiết chế xã hội nông thôn được đặt ra để điều chỉnh các mối quan hệ cũng như
kiểm soát những chuẩn mực ở cộng đồng nông thôn. Một số thiết chế xã hội cơ bản ở nông thôn
như: thiết chế làng xã nông thôn, thiết chế gia đình-dòng họ nông thôn, thiết chế chính trị nông thôn.
Bên cạnh đó còn có những thiết chế kinh tế nông thôn, thiết chế giáo dục nông thôn, thiết chế y tế
nông thôn, thiết chế tôn giáo-tín ngưỡng nông thôn…
Thiết chế xã hội là một tập hợp bền vững của các giá trị chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm
vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã hội.
Thiết chế có hai chức năng chủ yếu. Thứ nhất là khuyến khích, điều hòa hành vi của con
người phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của thiết chế và tuân thủ thiết chế. Thứ hai là ngăn
chặn, giám sát những hành vi lệch lạc do thiết chế quy định.
2.3.1 Thiết chế làng ở nông thôn
Làng là từ chỉ đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng hoàn chỉnh nhất của người nông dân Việt. Làng
đối với người Viêt Nam là một chỗ dựa vững chắc về đời sống vật chất và tinh thần cho người nông
dân và người cư trú ở nông thôn. Làng ở nông thôn tồn tại lâu dài trong lịch sử, nó đã được khẳng
định như một đơn vị hành chính-kinh tế, là một đơn vị xã hội có văn hóa. Vì vậy, sự vận động và
phát triển của xã hội nông thôn, của quốc gia đều có sự đóng góp của làng. Từ góc độ xã hội học có
thể thấy rằng, về cơ bản thì xã hội nông thôn thông qua làng, là một cộng đồng tự quản lý chặt chẽ,
làng đã đào luyện lối ứng xử, làng luôn lấy mục tiêu hòa nhập vào cộng đồng để hoàn thiện mình
cũng như quan tâm đến lợi ích cộng đồng, đặt kợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Làng còn
đào luyện những người có kỹ năng tổ chức sản xuất nông nghiệp, tạo nên một nếp sống, lối ứng xử
có bản sắc văn hóa riêng phù hợp với điều kiện cư trú sản xuất ở nông thôn.
Về cơ cấu chính trị của làng thể hiện bao gồm Ban quản lý làng và các Đoàn thể. Ban quản
lý làng là những người làm nhiệm vụ quản lý làng trong đó người đứng đầu là trưởng thôn hay
trưởng bản, trưởng ấp… Ban quản lý làng thường là những cá nhân có uy tín, có ảnh hưởng được
dân bầu ra và được đại diện của chính quyền công nhận là ông chủ tịch xã. Họ thực thi song song
hai nhiệm vụ, một mặt thực hiện tính chất tự quản của làng, giải quyết các mâu thuẫn giữa các thành
viên trong làng, mặt khác thực thi những chỉ thị của chính quyền đến những người dân trong làng.
Tính tự trị của làng rất cao không ít tác giả cho rằng: ngay cả khi chính quyền nhà nước sụp đổ thì
cũng không ảnh hưởng đến làng.
Trước hết là quan hệ giữa “phép vua” với “lệ làng”. Làng xã có lệ làng - các quy phạm xã
hội của cộng đồng làng xã được soạn thảo thành văn với những tên gọi như hương ước, hương đoan,
hương lệ, hương khoán, khoán lệ… Lệ làng không phải là pháp luật của Nhà nước, nhưng đối với
mỗi làng xã, tùy từng thời điểm và hoàn cảnh, có giá trị thay thế, ngang bằng, thậm chí cao hơn
pháp luật của quốc gia. Hương ước là sự bổ sung cho pháp luật, là “cánh tay nối dài” của Nhà nước.
Tuy nhiên, khi chính quyền trung ương suy yếu, khi “phép vua” không phù hợp với lòng dân thì
“phép vua thua lệ làng”. Tuy nhiên, dù mối quan hệ này thay đổi theo chiều hướng nào thì vai trò tự
chủ của làng xã trong việc giữ gìn ANTT, xử lý tội phạm là tương đối ổn định.
Làng còn là một cộng đồng tín ngưỡng- văn hóa. Làng là một tổng thể xã hội đặc thù, vì vậy
văn hóa làng phản ánh tổng thể xã hội đặc thù của nó. Nó được thể hiện qua: hệ thống tổ chức, hệ
thống các tôn giáo tín ngưỡng, luật tục của làng, hệ thống văn hóa dân gian, phong tục-tập quán, các
thiết chế văn hóa…
Những năm gần đây, tình hình tội phạm ở nông thôn diễn biến hết sức phức tạp, số vụ vi
phạm pháp luật và tội phạm có chiều hướng gia tăng, xuất hiện nhiều loại tội phạm mới với quy mô,
tính chất, hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Tệ nạn xã hội đang tràn về nông thôn, làm cho địa bàn
này vốn được coi là vùng yên tĩnh, thuần khiết trước đây đang có những biến động với đầy đủ tính
chất phức tạp của xã hội thời kỳ mở cửa, kinh tế thị trường, hội nhập. Cùng với việc tiến hành đồng
bộ các biện pháp, việc phát huy vai trò của thiết chế làng xã và kế thừa các kinh nghiệm của thế hệ
trước trong sự nghiệp ngày nay là cần thiết
Tóm lại làng Việt Nam là một thiết chế độc đáo, thực hiện quản lý cư dân bằng hương ước
và luật pháp. Với tính chất tự quản chặt chẽ, thiết chế làng đóng vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
2.3.2 Gia đình và dòng họ
Nhà thờ họ gia tộc Trịnh ở Xuân Thành, Nghi
Xuân, Hà Tĩnh
Tập thể họ Nguyễn làng Hành Quần tỉnh
Nam Định
Làng, đơn vị xã hội cơ bản ở nông thôn, phần đáng kể được hình thành từ các dòng họ, quan
hệ thân tộc, gia đình. Ở một phương diện nào đó, có thể nói, các dòng họ là những thành tố cấu
thành xã hội nông thôn và làng là đơn vị cơ bản.
Gia đình, dòng họ trong quan niệm của đa số người dân vẫn đóng vai trò quan trọng. Điều
này thống nhất ở các nhóm đối tượng khác nhau về giới, lứa tuổi, mức sống, nghề nghiệp… Nghiên
cứu tại hai địa phương Tam Sơn và Đồng Kỵ(Bắc Ninh) cho thấy trong tổng số 420 hộ gia đình
được phỏng vấn, có 97 - 99,6% khẳng định hiện nay gia đình, dòng họ vẫn rất quan trọng.
Người dân đánh giá cao vai trò của gia đình hiện nay vì họ cho rằng, gia đình là nơi không
chỉ đáp ứng nhu cầu tình cảm mà còn là nơi tốt nhất cho việc dị dưỡng tuổi già, sự phát triển của trẻ
em…Trong tâm tưởng của người dân dòng họ có cũng có vai trò không kém. Gần 100% số người
được hỏi cho rằng đến nay, các khẩu ngữ dân gian như: “một giọt máu đòa hơn ao nước lã”, “xảy
cha còn chú, xảy mẹ bú dì” vẫn đúng, số người phủ định chỉ có từ 0.5% đến 3.5%. Thậm chí, quan
niệm của đa số người dân còn khẳng định gia đình, dòng họ hiện nay có vai trò lớn hơn trong quá
khứ và ở tương lai vai trò đó vẫn sẽ tiếp tục được phát huy.
Dòng họ trong các làng xã-nông thôn có quá trình và tạo dựng nên đã trở thành cái đảm bảo
giá trị tinh thần cho mỗi thành viên trong dòng họ. Ở một chừng mực nhất định như trong ứng xử,
mỗi thành viên xuất hiện ngoài xã hội, còn có chỗ dựa tinh thần và thế lực của gia đình và dòng họ.
Là thành viên của gia đình, dòng họ, mỗi người đầu phải tuân theo những quy ước, quy định vừa có
tính khách quan, vừa có tính chủ quan của thiết chế xã hội này. Đó là những quy định về thứ bậc
theo huyết thống, những quy ước về sinh hoạt dòng họ như lễ tế họ, giỗ chạp mồ mả, hình thành
ruộng họ, quỹ họ… Những quy định, quy ước đó vừa hình thành những khuôn mẫu hành động
những giá trị để định hướng cho con người tồn tại và phát triển.
Trong phạm vi không gian là làng-xã, mối quan hệ của những người cùng dòng họ, huyết
thống, cùng tổ tiên, có lúc đã trở thành mối quan hệ cơ bản nhất, chặt chẽ nhất. Quan hệ họ hàng đã
tạo nên sự đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, động viên nhau những lúc khó khăn, kể cả những
thành đạt của các thành viên trong các lĩnh vực đời sống, sản xuất, học hành. Quan hệ họ hàng là
một trong những cơ sở hình thành nên tình cả quê hương, cội nguồn, có giá trị trong đời sống tinh
thần của người nói chung và của người nông dân nói riêng.
Về mặt văn hóa tinh thần, nhờ việc tạo ra niềm đồng cảm dựa trên huyết thống, dòng họ từ
xưa đến nay vẫn là một chỗ dựa vững chắc đối với mỗi cá nhân trong cộng đồng. Không chỉ dừng
lại ở quan niệm, việc đề cao dòng họ về phương diện văn hóa tinh thần còn được thể hiện trong các
hành vi cụ thể của mỗi người, như sự tham dự của họ vào các ngày giỗ tổ, trong việc sửa sang từ
đường, xây cất mồ mả tổ tiên, xin cưới, ma chay… Sự tham gia nhiệt thành và tâm huyết của người
dân vào các hoạt động trên khẳng định vai trò của dòng họ vẫn còn quan trọng trong đời sống cộng
đồng dân cư làng, xã.
Với những điều kiện lịch sử, xã hội nhất định, quan hệ dòng họ, thân tộc cũng dễ làm nảy
sinh tính chất cục bộ, hẹp hòi trong sự đánh giá, nhìn nhận các dòng họ khác, hoặc trong ứng xử ở
cộng đồng. . Nhiều quan niệm cho rằng, cuộc sống gia đình với sự lo toan cơm áo gạo tiền làm tiêu
hao nhiều thời gian, sức lực, các chuẩn mực gia đình gò bó, cản trở tự do cá nhân.Cùng với các hiện
tượng tâm lý, xã hội khác, quan hệ dòng họ cũng có thể bị lợi dụng trong việc tranh chấp quyền lực
của cá nhân, hay một dòng họ nào đó trong làng-xã. Tuy vậy, thiết chế dòng họ, thân tộc từ xưa đến
nay, chưa khi nào giữ vai trò quyết định đối với mọi mặt đời sống của làng-xã nói riêng và của nông
thôn nói chung
Vai trò của gia đình, dòng họ với những giá trị tốt đẹp và đặc trưng trong nếp sống không
những không bị mai một mà còn thích ứng, biến đổi và được bảo lưu bền vững ở các làng xã sống
chủ yếu bằng nông nghiệp. Đó là việc duy trì các bữa ăn chung hằng ngày, việc tổ chức các ngày lễ
tết trong năm, thăm nom cha mẹ, mối quan hệ chặt chẽ giữa ông bà,cha mẹ và con cái trong phạm vi
gia đình, việc liên kết làm ăn kinh tế trong dòng họ…Đây là những nét đẹp và biểu hiện khẳng định
sức sống bền vững của gia đình, dòng họ trong lối sống thôn làng của người Việt.
2.4. Vấn đề văn hóa nông thôn
Mỗi cộng đồng xã hội nông thôn đều có hệ giá trị văn hóa riêng, do đó có sắc thái riêng đặc
trưng cho cộng đồng xã hội đó. Có nghĩa là mỗi làng xã nông thôn truyền thống đều có tiểu văn hóa
riêng của làng. Tất cả các tiểu văn hóa làng xã tập hợp nên nền văn hóa nông thôn và tạo nên tính đa
dạng và nhiều bản sắc. Văn hóa nông thôn mang đậm nét dân gian, được thể hiện rõ nét qua các
hoạt động lễ hội, hệ thống nghệ thuật, hát xướng dân gian…Văn hóa nông thôn có một sức sống vô
cùng mạnh mẽ dù trải qua nhiều biến động của lịch sử nhưng nhiều nét văn hóa độc đáo vẫn tồn tại
trong xã hội nông thôn hiện nay. Văn hóa nông thôn giàu tính nhân văn, tính hiện thực và tính biểu
tượng.
2.4.1 Văn hóa vật chất ở nông thôn
Văn hóa vật chất hay còn gọi là văn hóa vật thể là một bộ phận trong nền văn hóa tổng thể
của nhân loại. Nó bao gồm toàn bộ các tư liệu sản xuất và các tư liêu tiêu dùng của con người, có
nghĩa là mọi giá trị vật chất, vật thể với tư cách là kết quả lao động mà con người lao động sáng tạo
ra.
Phân tích từ khía cạnh cấu trúc vật chất của văn hóa nông thôn, chúng ta thấy rằng hầu như
mọi làng ở nông thôn đề có đình,chùa , miếu- những văn hóa riêng giúp con người thỏa mãn nhu
cầu tinh thần của mình. Ở đó, họ được thờ cúng tổ tiên- người sáng lập làng, được sinh hoạt trong
những phạm vi xã hội nhất định như sân đình để họp toàn dân, chùa để các cụ bà lễ bái, đền miếu là
để thờ cúng.
Văn hóa vật chất còn là cây đa, con đò, ngôi nhà, hay con đường làng quanh co…Nhà của
người Việt không chia thành những buồng nhỏ như phương Tây, còn giữa hai nhà cạnh nhau thường
được ngăn bằng những rặng cây (dâm bụt, mồng tơi…) để hai nhà dễ qua lại trao đổi, giúp đỡ lẫn
nhau. Ở Tây Nguyên có ngôi nhà Rồng là nơi hội hợp của cả dân làng vào những ngày lễ hay ngôi
nhà sàn với những nét truyền thống ngàn năm. Ngoài ra ở các làng quê còn có cổng làng, lũy tre,
giếng nước…tạo nên môi trường sinh thái hài hòa, phù hợp với điều kiện sản xuất và trình độ văn
minh ở nông thôn. Như vậy có thể nói văn hóa vật chất nông thôn rất đa dạng và phong phú, mang
đậm nét bản sắc mà không thể lẫn vào bất kỳ một nền văn hóa nào.
Chùa Hương
Nhà sàn của dân tộc Hrê
Trong đời sống văn hóa người Việt, cây đa - bến nước - sân đình đã đi vào tâm khảm mỗi
người chúng ta, từ nông thôn đến thành thị, như một trong những hình ảnh tốt đẹp nhất khi hướng
về cội nguồn. Đây cũng là nơi người nông dân nghỉ ngơi sau những giờ lao động mệt nhọc hoặc khi
ở xa trở về làng cũng như khi đi khỏi làng, là nơi để trẻ nhỏ nô đùa, nhặt búp, hái lá, chơi những trò
chơi dân gian, và cũng không ít mối tình nơi thôn dã đã nên vóc nhớ “bến nước, sân đình, gốc đa”
“Em đang dệt vải quay tơ
Bỗng đâu có khách đưa thơ tới nhà
Hẹn giờ ra gốc cây đa
Phượng hoàng chả thấy thấy gà buồn sao!...”
Cây đa- bến nước- sân đình đã trở thành hình ảnh thân thuộc, gắn liền với vùng thôn quê Việt Nam
2.4.2 Văn hóa tinh thần ở nông thôn
Văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật thể là những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục,
tập quán, lễ hội, giá trị, chuẩn mực,... tạo nên một hệ thống. Là sản phẩm của hoạt động trí óc và
tâm linh của con người. Đời sống xã hội là cơ sở hình thành văn hóa phi vật thể. Nó được tạo dựng
và lưu giữ, bổ sung và phát triển theo tiến trình phát triển của xã hội loài người
Văn hóa tinh thần đáp ứng nhu cầu văn hóa, hình thành khuôn mẫu để củng cố hành vi ứng
xử, lối sống của các thành viên trong xã hội nông thôn. Nông thôn Việt Nam hiện còn lưu giữ khá
nhiều phong tục đặc sắc khẳng định sức mạnh, tính tích cực của phong tục, tập tục trong sinh hoạt
văn hóa ở nông thôn. Thể hiện rõ nét nhất của văn hóa tính thần ở nông thôn là những phong tục tập
quán, những lễ hội của từng địa phương. Phong tục tập quán của người Việt Nam vô cùng phong
phú , đa dạng thể hiện ở nhiều lĩnh vực như ma chay, cưới hỏi. Thời Hùng Vương khi đám cưới đôi
trai gái trao nhau một nắm đất và một gói muối, nắm đất tượng trưng cho lời nguyền gắn bó đất đai,
gói muối tượng trưng cho tình nghĩa đậm đà. Hay một số làng vẫn duy trì phong tục nộp cheo cho
làng “Nuôi lợn thì phải vớt bèo-Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng-Lấy vợ mười heo không cheo
cũng mất”…Trong tục ma chay nông thôn cũng có những nét riêng, có tục “cha đưa mẹ đón” , tục
áo tang cha thì mặc áo từ sống lưng ra, tang mẹ thì mặc sống lưng vô.
Trong tín ngưỡng – tôn giáo ở nông thôn cũng rất đa dạng. Một số vùng nông thôn vẫn duy
trì thờ cúng , sùng bái tự nhiên như thờ Giàng, thờ Bà Đất, Bà Nước, Ông Địa, Thần Tài…Người
Khơmú có tục thờ quả Hồ Lô không giống như người Kinh thường treo hồ lô trên gác bếp để lấy
giống. Bên cạnh đó những nét văn hóa giải trí của vùng nông thôn Việt Nam cũng được thể hiện
qua các lễ hội là nơi lưu giữ lại những nét văn hóa dân gian cổ truyền như: Hội Đền Hùng gắn với
hát Xoan, Hôi Lim gắn với hát quan họ, Hội Chăm ở Sóc Trăng gắn với đua ghe, Hội Đồ Sơn gắn
với thi chọi trâu…
Một số lễ hội ở vùng nông thôn Việt Nam:
Lễ hội đua bò Bảy Núi, An Giang
Là một lễ hội của đồng bào dân tộc Khmer, Nam bộ, được tổ chức cùng lê hội Đôn ta (lễ
cúng ông bà), 29-8 đến mùng 1-9 âm lịch (nếu tháng thiếu thì từ 29-8 đến mùng 2-9 âm lịch.
Lễ gội đầu có nghĩa ý hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh của người Thái
Vào chiều 30 Tết Nguyên đán, người Thái trắng ở Sơn La có tục gội đầu để xua đi tất cả
những gì không may mắn trong năm. Họ còn chuẩn bị những bát nước gạo đã được ngâm cho chua
rồi xối từ từ lên tóc, gợi lên mọi điều tốt đẹp cho ngày mai bước vào năm mới thật tinh khôi. Lễ gội
đầu kết thúc là đến cuộc vui đua thuyền giữa nam và nữ.
Lễ hội Tịch Điền diễn ra vào sang mùng 7 Tết tại xã Đọi Sơn (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà
Nam): Trong cuốn "Việt lược sử" biên soạn vào thời Trần, năm Đinh Hợi (987) vua Lê Đại Hành về
cày tịch điền ở Đọi Sơn, mở đầu phong tục đẹp để các vị vua triều đại sau noi gương khuyến nông
để cầu một mùa màng bội thu, nhiều thắng lợi.
Những chú trâu to khỏe được trang trí nhiều hình ảnh mùa xuân được người dân Đọi Sơn đem ra
đồng. Bô lão mặc áo vàng tái hiện cảnh vua Lê Đại Hành xuống đồng cày 3 sá ruộng đầu tiên.
2.5 Lối sống của cư dân nông thôn
Lối sống là tổng thể những nét căn bản đặc trưng hoạt động sống hằng ngày của các cá nhân,
các nhóm và các tập đoàn trong những điều kiện nhất định về mặt lịch sử nhằm thể hiện họ về mọi
mặt. Nông thôn-cộng đồng dân cư chiếm hơn 80% dân số Việt Nam, có một lối sống mang tính chất
đặc thù.
Nông thôn Việt Nam gắn với nền nông nghiệp nên lối sống của nông thôn được hình thành
bằng cơ sở hoạt động làm nông nghiêp. Điều đó có nghĩa là cư dân nông thôn Việt Nam sống trong
quan hệ chặt chẽ với tự nhiên. Việc ứng xử với môi trường tự nhiên đã tạo ra hai khả năng: những gì
có lợi cho mình thì con người giữ, những gì là khó khăn thì phải ra sức ứng phó. Từ nền sản xuất
nông nghiệp và quá trình chống chọi với thiên nhiên tạo nên lối sống đề cao tính cộng đồng. Lối
sống cộng đồng là sợi dây đoàn kết cộng đồng nông thôn, tạo nên sự chia sẻ giữa những người dân
với nhau (“một miếng khi đói bằng một gói khi no”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “anh em như
thể tay chân”, “bầu ơi thương lấy bí cùng tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”)
Lối sống cư dân thích nghi với điều kiện nghèo khó, đề cao tính tiết kiệm. Người dân nông
thôn quen với tính tự cung tự cấp, cơ cấu bữa ăn thiên về thực vật là chính “ăn không rau như đánh
nhau không có người gỡ-Ăn không rau như nhà giàu chết không kèn trống”. Ngay cả đồ uống cũng
chỉ dùng cuốc lùi chưng cất từ gạo ngon hay thuốc lào hái lá phơi khô rồi cho vào điếu mà hút.
Người nông thôn sống rất tiết kiệm “có dưa,chừa rau, có cà thì tha gấp mắm-thịt cá là hoa, tương cà
là gia bản”. Ngày nay, tuy mức sống đã được cài thiện nhưng đặc tính này vẫn tồn tại trong mỗi
người dân nông thôn.
Tính cục bộ của lối sống nông thôn thể hiện rõ nhất ở cách sống “phép vua thua lệ làng”.
Nhiều khi những hủ tục lạc hậu vẫn cứ tồn tại mặc dù không tuân thủ theo Pháp luật. Tục nộp cheo
cho làng ở một số làng quê vẫn còn tồn tại mặc dù nhà nước đã có quy định cấm tục lệ này.tục tảo
hôn, trọng nam khinh nữ…Tính cộng đồng của cư dân nông thôn thể hiện rõ nét, riêng biệt so với
đô thị.
Người nông dân coi trọng tình nghĩa, coi trọng chữ tâm, chữ tín và đạo hiếu(kính lã đắc thọ).
Nhiều khi cho nhau vay mượn cũng chỉ cần lời nói miệng. Xã hôi học nghiên cứu tác động lối sống
cư dân nông thôn đến xã hội nông thôn. Những đặc trưng trong lối sống cư dân nông thôn đều có
những mặt tích cực và những mặt tiêu cực nhất định.
Tóm lại, xã hội hiện đại bên cạnh những cái mới đang nảy sinh và phát triển những giá trị
truyền thống của xã hội nông thôn Việt Nam vẫn được duy trì và củng cố. Vượt qua lũy tre làng để
nghiên cứu các phong tục tập quán, tín ngưỡng, cơ cấu xã hội, văn hóa…trên cơ sở đó hoạch định
những chính sách xã hội phù hợp nhằm nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người
dân nông thôn.
PHẦN 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHO NHŨNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI HỌC Ở NÔNG THÔN
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Giải quyết về việc làm dân cư nông thôn
Lực lượng lao động ở nông thôn là một nguồn lao động vàng thế nhưng vẫn chưa được sự quan tâm
sâu sắc.Vì vậy để có được nguồn la động tốt cần đào tạo nghề cho lao động nông thôn .Trong trình
tự đào tạo cho người lao động nông thôn phải đi lần lượt theo trình tự phổ cập tiểu học đến phổ cập
trung học cơ sở, trang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ bậc sơ cấp đến các bậc cao
hơn.Đồng thời lồng ghép vốn hỗ trợ đào tạo từ các chương trình khuyến nông, sự hỗ trợ của các tổ
chức quốc tế để tổ chức các khóa tập huấn, đào tạo kinh nghiệm thực tế ngắn hạn về canh tác, sản
xuất nông nghiệp hiệu quả bền vững cũng như xây dựng các trường nghề tại ngay các địa phương
để người lao động ở đó có điều kiện theo học nghề.
Thứ tư, hỗ trợ kinh phí cho con em nông thôn theo học các trường chuyên nghiệp, đại học để học
nâng cao trình độ về phục vụ quê hương hoặc xin vào các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ góp phần
chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn.
* Việc đào tạo nghề cho người lao động nông thôn thực sự có hiệu quả cần chú ý một số điểm sau:
- Đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu sử dụng lao động thật sự của các
doanh nghiệp trên địa bàn, đồng thời dựa trên nhu cầu nghề nghiệp thực tế của về nghề nghiệp của
người nông dân chứ không phải theo trào lưu, thành tích. Vì vậy, khi tổ chức các khóa học, khóa tập
huấn cho người dân cần tiến hành điều tra nhu cầu thực tế của họ ở từng địa phương, của các doanh
nghiệp trên địa bàn.
- Công tác đào tạo cần có sự tham gia của các cấp chính quyền, đoàn thể tại địa phương. Cần lồng
ghép vốn hỗ trợ cho các tổ chức ở địa phương như: Hội Nông dân, Hội phụ nữ …… để tổ chức các
khóa học tập huấn. Thực tế cho thấy, địa phương nào có sự quan tâm, tham gia sát sao của chính
quyền địa phương thì có phong trào đào tạo đạt kết quả cao.
- Khi tổ chức các khóa học cần lưu ý đến tính mùa vụ sản xuất và tình hình điều kiện thực tế của
từng địa phương như trình độ của người dân, tập quán sinh sống, tập quán canh tác. Để có cách bố
trí nội dung và thời gian học tập và phương pháp truyền đạt phù hợp.
- Đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải gắn với giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao
động, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng an sinh xã hội, góp phần xây dựng bộ mặt nông thôn
mới và phát triển bền vững. . về lao động.
3.2 Rút ngắn khoảng cách phân hóa giàu-nghèo, nâng cao thu nhập cho dân cư ở nông thôn
Để nâng cao đời sống cũng như hỗ trợ cho đời sống của người dân ở nông thôn Đảng và Nhà nước
luôn có những chính sách quan tâm sâu sắc tới đời sống của họ. Đường lối công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông thôn luôn được quan tâm nhằm thu hẹp khoảng cách giàu- nghèo của người dân ở
nông thôn và thành thị đồng thời tạo mọi điều kiện tốt nhất cho dân cư nông thôn như:
Một là, tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ công. Tăng vốn ngân sách đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là cho các vùng sâu, vùng xa, hạ tầng thương
mại phục vụ lưu thông hàng hóa nông - lâm - thủy sản.
Hai là, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách hỗ trợ nông nghiệp và nông dân. Các chính sách
về quyền sử dụng đất; chính sách kết hợp giữa kinh tế nhỏ “hộ gia đình” với các doanh nghiệp trong
sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm; cụ thể hóa chính sách phối hợp 4 nhà
(nhà sản xuất, nhà doanh nghiệp, Nhà nước, nhà khoa học); chính sách an sinh xã hội cho nông dân
như bảo hiểm y tế, hỗ trợ con em nông dân nghèo trong giáo dục, hỗ trợ đào tạo nghề và tìm việc
làm, bảo hiểm cho nông dân khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào những mục đích khác...
Ba là, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp tạo hành lang pháp lý thông thoáng để khuyến khích mạnh hơn
nông dân và doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn. Đồng thời, đầu tư tăng cường năng lực thông tin và xúc tiến thương mại.
Bốn là, chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động thuần
nông, tăng tỷ trọng lao động làm các ngành nghề phi nông nghiệp. Tạo điều kiện cho lao động nông
thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ra nước ngoài.
Năm là, tăng cường năng lực của các cơ sở đào tạo và có chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho nông
dân, nhất là thanh niên; triển khai rộng hệ thống khuyến nông, tăng cường đào tạo kỹ năng nông
nghiệp.
Sáu là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu chọn tạo các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất
lượng cao phù hợp với từng vùng sinh thái, trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học. Tăng
cường biện pháp phòng chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi. Bảo vệ, phát triển rừng; xây dựng,
quản lý hệ thống thủy lợi...
Bảy là, tiếp tục đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
3.3 Phối hợp giữa thiết chế làng xã, gia đình-dòng họ với những chính sách pháp luật của Nhà
nước
Một là, phát huy vai trò của chính quyền, các lực lượng nòng cốt ở cơ sở (dân phòng, tổ tự quản,
Công an xã, dân quân tự vệ, tổ an ninh nhân dân..) tạo thành một thế trận nhân dân trong phòng
chống tội phạm, giữ gìn ANTT. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân
tham gia PCTP trở thành phong trào thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” là một
trong các chủ trương, giải pháp quan trọng.
Hai là, phát huy vai trò của nhân dân trong việc phát hiện, phòng ngừa tội phạm. Nhân dân chính là
tai mắt cho lực lượng CAND, giúp đỡ lực lượng CAND thực hiện các hoạt động nghiệp vụ cơ bản.
Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, cộng đồng dân cư nông thôn ở Việt Nam được kết cấu tương
đối chặt chẽ, ổn định bởi các quan hệ xã hội và cả các yếu tố địa lí, lãnh thổ nên sự xuất hiện của
các nhân tố mới, bất thường, ngoại lai nói chung (bao gồm cả những sự việc có dấu hiệu hình sự, tội
phạm, người phạm tội) dễ bị phát hiện, bị tố giác, bị lên án. Đây là điều kiện thuận lợi để khuyến
khích người dân cung cấp thông tin về tội phạm, giúp đỡ ngăn chặn, phát hiện tội phạm…
Ba là, phát huy vai trò của hòa giải ở cơ sở để giảm thiểu nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Hòa giải
ở cơ sở và vai trò giảm thiểu nguyên nhân, điều kiện phạm tội của hòa giải ở cơ sở là vấn đề không
mới ở Việt Nam cũng như trên thế giới và rất gần so với các luận điểm, luận thuyết hiện đại về tư
pháp phục hồi, xử lý chuyển hướng… Việc xử lý ngay các mâu thuẫn, hiềm khích có nguy cơ dẫn
tới các hành động phạm tội là một chiến lược PCTP hiệu quả, đồng thời thể hiện tính nhân văn trong
việc gìn giữ tình làng nghĩa xóm, tránh cho các bên liên quan khỏi nguy cơ trở thành người phạm tội
và người bị phạm tội.
Bốn là, phát huy vai trò của dư luận xã hội, các quy phạm đạo đức, tôn giáo, tín ngưỡng, các quy
phạm của dòng tộc, làng xã trong việc răn đe, giáo dục ý thức pháp luật. Cần nhận thức pháp luật
chỉ là một trong các quy phạm xã hội điều chỉnh hành vi của con người. Ngoài trách nhiệm tuân thủ
pháp luật, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước, người dân Việt Nam còn rất nặng về các quan hệ với
gia đình, dòng họ, làng xóm, còn chịu sự điều chỉnh của các quy phạm tôn giáo… Việc kết hợp tổng
hợp các quy phạm xã hội, định hướng dư luận xã hội; phát huy vai trò của những người có uy tín
trong dòng họ, cộng đồng, tôn giáo để phòng ngừa các hành vi tiêu cực, phạm tội ở địa bàn nông
thôn luôn mang lại hiệu quả cao.
3.4 Xóa bỏ những văn hóa nông thôn chưa phù hợp với pháp luật Nhà nước
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, chú trọng
vào các đối tượng có uy tín trong cộng đồng như: Già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ; những
người có nhận thức tương đối đầy đủ về những tập quán lạc hậu để họ tuyên truyền con cháu thực
hiện nếp sống văn minh,các cán bộ trong thôn, bản tích cực đưa thông tin về cơ sở nhằm góp phần
tuyên truyền giáo dục, nâng cao nhận thức về việc xóa bỏ các hủ tục lạc hậu tới người dân. Đồng
thời gắn việc bài trừ hủ tục lạc hậu với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
với phương châm lắng nghe tâm tư nguyện vọng của bà con, khơi dậy và phát huy những phong tục
tập quán tốt đẹp, xây dựng đời sống tiến bộ, lành mạnh theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà
nước.
Tăng cường việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số; phân
tích rõ tác hại của các hủ tục, luật tục. Vận động nhân dân từng bước xóa bỏ các hủ tục lạc hậu
không còn phù hợp với đời sống hiện tại, gây lãng phí, tốn kém.
Bên cạnh việc loại trừ các hủ tục, tập tục lạc hậu cần gắn liền với xây dựng môi trường văn hóa
tiến bộ, lành mạnh, thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao, bổ ích và thiết
thực giúp bà con nâng cao nhận thức về pháp luật, xóa đói giảm nghèo, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Hướng dẫn Ban chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” các huyện,
thị xã, thành phố xây dựng quy ước, hương ước cho bản, vận động bà con thực hiện tốt nội dung
quy ước đã đề ra.Việc xây dựng quy ước được thực hiện trên cơ sở thảo luận có sự tham gia của bà
con trong bản, do người dân trong bản tự thống nhất. Trong quy ước đưa ra hình thức xử phạt, khen
thưởng cụ thể. Vận động các dòng họ lớn trong bản xây dựng quy ước dòng họ về thực hiện nếp
sống văn minh
Coi trọng việc biên soạn tài liệu, các chương trình văn hoá tuyên truyền về thực hiện nếp sống
văn minh trong việc tang phù hợp với từng đối tượng, từng dân tộc bằng cả hai thứ tiếng phổ thông
và tiếng dân tộc. Nhằm đáp ứng các yêu cầu về cập nhật thông tin giúp nâng cao nhận thức của
đồng bào trong việc xóa bỏ các hủ tục lạc hậu không còn phù hợp.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự phát triển kinh tế xã hội,
văn hóa nông thôn đang đứng trước những thuận lợi cơ bản cũng như
những thách thức không nhỏ. Sự biến động về quy luật phát triển và thực
trạng biểu hiện của kinh tế, văn hóa, xã hội ở nông thôn vẫn đang diễn ra
một cách nhanh chóng và chắc chắn sẽ có những thay đổi trong tất cả
những yếu tố đã nêu.
Nhưng dù có biến đổi thế nào, thì với những gì được thể hiện, xã hội
nông thôn vẫn giữ được cho mình những hằng số văn hóa. Đó là sinh hoạt
văn hóa mang đậm nét dấu ấn, phong vị văn hóa văn minh nông nghiệp
trồng lúa nước với cơ cấu tổ chức xã hội thôn làng tương đối khép kín, nay
có điều kiện để trở thành một pháo đài, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở;
là sự bền vững phong phú, đa dạng của các hoạt động văn hóa dân gian
thôn làng kết hợp với sự gia tăng ngày càng nhiều hình thức sinh hoạt và
hưởng thụ ngày càng hiện đại, tạo điều kiện cho người dân sáng tạo và
phát triển nhiều hơn, cao hơn; là dân trí ngày càng được nâng cao bởi sự
phát triển kinh tế hộ, kinh tế làng, khiến mức sống của người dân tăng lên
khá ổn định, gia tăng khả năng học tập, dịch chuyển, giao tiếp dưới nhiều
hình thức; là ý chí vươn lên của người nông dân trong tất cả các lĩnh vực
học tập vốn có truyền thống từ xưa (với lệ khuyến học); là rất nhiều nét
đẹp trong giao tiếp, ứng xử, thực hành văn hóa của người nông dân…
Với hành trang văn hóa ấy người nông dân đang tự nâng mình để xây
dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày càng
giàu đẹp, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất
phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển ngày càng hiện đại, có
mặt bằng dân trí và văn hóa cao.