Tải bản đầy đủ (.doc) (170 trang)

Luan van con nguoi trong tho van nguyen cong tru

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.53 KB, 170 trang )

Mở đầu
1.

lí do chọn đề tài.

1.1. Nguyễn Công Trứ (1778-1858), tự là tồn chất, hiệu ngộ
trai, biệt hiệu Hi Văn, còn có tên huý là Củng. ông không
chỉ là một Yy Viễn tớng công tài ba, một nhà nông học hiện
đại có công rất lớn trong công cuộc khoai hoang cho nhân
dân hai huyện Tiền Hải- Kim sơn mà còn là một nhà thơ
lớn của dân tộc( ông sáng tác với nhiều thể loại: thơ nôm,
hát nói, phú).
Trong sáng tác thơ văn của Nguyễn Công Trứ, thơ nôm
chiếm vị trí quan trọng và đầy ý nghĩa. Cho đến nay
tiếp thu cả thi pháp truyền thống và thi pháp học hiện đại
đã có nhiều công trình nghiên cứu về thơ nôm Nguyễn
Công Trứ nhng hầu hết chỉ khám phá về mặt t tởng, phong
cách nghệ thuật chứ cha

đi sâu vào quan niệm nghệ

thuật về con ngời trong thơ ông.
1.2. Nguyễn Công Trứ là một con nguơì đầy mâu thuẫn,
phức tạp. Bởi vậy đọc thơ ông luôn có cảm giác đầy mới lạ
đan xen nhau, nhận thức con ngời ông mỗi lúc mỗi khác và
cần phải khám phá tìm hiểu. Dờng nh ai cũng ý thức đợc
tầm cỡ của nhà thơ trong làng văn Việt nam nhng đến nay
vẫn cha có nhà nghiên cứu nào thực sự đặt vấn đề Con
ngời trong thơ ông nói chung, thơ nôm nói riêng một cách
cụ thể, toàn diện.ý thức đợc điều này nên tôi chọn đề tài
Con ngời trong thơ nôm Nguyễn Công Trứ không chỉ có ý


nghĩa đối với một tác giả văn học cụ thể mà còn đối với thi
pháp học hiện đại về con ngời trong văn học nói chung, văn
-1-


học Trung đại nói riêng.Đề tài vì vậy có ý nghĩa về mặt lí
thuyết.
1.3. Thơ nôm Nguyễn Công Trứ đã đợc chọn một số bài
giảng dạy ở trong nhà trờng phổ thông. áp dụng cả thi pháp
học truyền thống, thi pháp học hiện đại ,tiếp thu những ý
kiến, những phát hiện tơng đối mới mẻ của các nhà nghiên
cứu trớc đây, tôi mong muốn đề tài Con ngời trong thơ
nôm Nguyễn Công Trứgóp phần không nhỏ vào công việc
phục vụ giảng dạy ở các trờng đại học, cao đẳng, phổ
thông.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

2.1. Từ trớc đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về
cuộc đời, sự nghiệp, một số biểu hiện con ngời trong thơ
văn ông. đã có một số công trình

nghiên cứu chính về

cuộc đời của uy viễn tớng công đầy thăng giáng, cách
nhìn nhận của ngời đời có lúc lên thác , xuống ghềnh.
Thậm chí có thể xem ông nh một hiện tợng văn học nên
khó tránh khỏi những sai sót do góc độ nhìn hoặc thế giới
quan của mỗi nhà nghiên cứu. Đó cũng vì thơ văn ông là

biểu hiện sự đa tính, phức hợp, đầy mâu thuẫn và nhiều
ẩn số về con ngời của chính nhà thơ. Đứng ở phơng diện
này ông là con ngời thế này nhng khi ông đứng ở phơng
diện khác ông lại là một cá nhân hoàn toàn khác lạ().ngời
ta nói con ngời Nguyễn Công Trứ có sự phân thân là vì
vậy.
Theo nh tôi đợc biết hiện có khoảng trên 30 công trình
nghiên cứu và bài viết về con ngời và thơ văn ông. Đây cha
-2-


phải là con số lớn để xứng với tầm vóc của nhà thơ trong
văn đàn dân tộc nhng đó cũng là một kết quả đáng khích
lệ,đa ông vào vị trí nhất định trong các tác giả lớn của
dân tộc.
2.2 Nghiên cứu con ngời trong thơ nôm Nguyễn Công Trứ là
một vấn đề hoàn toàn mới mẻ, cha đợc ai nghiên cứu. Trong
qúa trình làm luận văn, chúng tôi quan tâm đến các công
trình đã đợc công bố sau:
Lê Thớc, Hoàng Ngọc Phách, Trơng Chính(1958) Thơ
văn Nguyễn Công Trứ nxbvh.hn. Có thể nói đây là
một công trình nghiên cứu khá toàn diện đầu tiên về
thơ văn Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên các tác giả này chủ
yếu xem xét thơ văn ông từ nội dung t tởng của tác
phẩm, phát hiện một số biểu hiện của con ngời tác giảđó là con ngời nho giáo, chịu ảnh hởng nặng nề của
nho, phật, lão. Trong ông có cả con ngời hữu chí và
cả con ngời hành lạc. Ông không chỉ giỏi thơ văn mà
còn có tài trong cả hát ca trù. Ngoài sáng tác thơ nôm
ông còn sáng tác rất nhiều bài ca trù có giá trị, thể
hiện đợc chí nam nhi, nợ tang bồng. Ngoài ra trong

phần giới thiệu tác giả còn chỉ ra tính chất hiện thực
trong thơ văn nói về nhân trình thế thái. Những phát
hiện về giá trị nghệ thuật: thơ ông hay trớc hết là do
cái không khí phóng khoáng, không chịu gò bó vào
vào khuôn sáo(tr36). Điều đặc biệt ít thấy trong thơ
văn của các nhà nho trong văn học Trung đại ở chỗ
Nguyễn Công Trứ nói nhiều đến tình ái( tình ái của
-3-


chính bản thân mình) - một tối kị về mặt nội dung
tác phẩm văn học Trung đại. Thơ ông là một thứ thơ
đại chúng đã vận dụng rất nhiều tục ngữ, thành ngữ,
lời thơ thơ giản dị, dễ hiểu và dễ thuộc đối với ngời
đọc.
Trong văn học Việt nam nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa
đầu thế kỉ XIX(1976),Nguyễn Lộc nxbđh và thcn.hn (tái
bản lần thứ 3 nxbgdhn)đã giành sự u ái đặc biệt cho rằng:
Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ có vị trí đáng kể trong
văn học Việt nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX. Thơ văn
Nguyễn Công Trứ bao hàm một nội dung khá phức tạp, kết
tinh một trạng thái ý thức của thời đại: vừa ca tụng con ngời
hoạt động lại vừa ca tụng lối sống hởng lạc, cầu nhàn; vừa
ca tụng nho giáo lại vừa ca tụng đạo giáo; vừa lạc quan tin tởng lại vừa bi quan thất vọng; vừa khẳng định mình lại
vừa phủ định mình (tr497).Nguyễn Công Trứ là một khối
mâu thuẫn lớn. Nghiên cứu về thơ ông, Nguyễn Lộc tập
trung vào 3 chủ đề chính: chí nam nhi, cuộc sống nghèo
khổ và thế thái nhân tình.Đặc biệt một phát hiện mới mẻ
nhất về biểu hiện con ngời trong thơ văn ông là triết lí cầu
nhàn , hởng lạc. Tuy nhiên tác giả trong công trình này nhận

xét về phơng diện t tởng Nguyễn Công Trứ còn nhiều hạn
chế. Ông xa lìa lập trờng nhân dân trong các vấn đề xã
hội. Việc quan tâm của ông đến đời Sống nhân dân chỉ
bó hẹp trong hoạt động thực tiễn, là sự quan tâm trên ý
thức hệ nho giáo-một ý thức hệ thống trị trong suốt thời kì
Trung đại. Chính vì vậy cho nên trong thơ văn Nguyễn
-4-


Công Trứ thiếu hẳn một chủ nghĩa nhân đạo rộng rãi, ít
nhiều có tính chất bình dân đã đợc phát huy trong sáng
tác của các nhà thơ ở những thế kỷ trớc (tr?). Bàn về nghệ
thuật Nguyễn Lộc cho rằng: thơ văn ông không chạm trổ,
đẽo gọt ,mộc mạc, nôm na mà Vẫn gây xúc cảm(tr514).
Ông là ngời có công trong việc đa hát nói trở thành một thể
thơ dân tộc độc đáo.
Chu Trọng Huyến lại có cái nhìn khá toàn diện hơn về
con ngời Nguyễn Công Trứ từ thở thiếu thời cho đến khi
mất trong cuốn Nguyễn Công Trứ con ngời và sự
nghiệp(1995) nxbkhxh. Tác giả trong công trình này
không nhìn ở phơng diện chí làm trai hay mộng công
danh mà là sự khẳng định thơ văn ông tồn tại với thời gian
chính ở giá trị hiện thực đợc thể hiện ở văn chơng ông với
phong cách ngang tàng, dân giã mà giàu chất nhân văn
triết lí(TR197).với phong cáh ngang tàng, ngất ngởng đó,
Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình là: một cây bút tài
hoa, uyên bác. Đây cũng là biểu hiện mới của con ngời tài tử
xuất hiện đầu thế kỉ XVIII. Ngoài ra ở chơng (?) tác giả
còn khẳng định sự đóng góp quan trọng của Nguyễn
Công Trứ trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc ở đủ các

thể loại văn vần, đặc biệt câu đối nôm.đến Nguyễn
Công Trứ câu đối nôm đợc dùng để tự vịnh, tự trào với
nghệ thuấtử dụng văn chơng quốc âm dí dỏm, điêu
luyện(tr210)
_Tại Hà Nội, ngày 15 tháng 2, năm 1944 đã diễn ra cuộc Hội
thảo khoa học bàn về Nguyễn Công Trứ. Tại Hội thảo các
-5-


nhà nghiên cứu đã có nhiều bài phát biểu, những chuyên
luận khác nhau khi đánh giá về con ngời ông. Năm1996 tất
cả những bài này

đợc tập hợp và in trong cuốn sách

"Nguyễn Công Trứ- con ngời, cuộc đời và thơ (nhiều tác
giả- Hội nhà văn Hà Nội). Trong cuốn sách này nổi lên nhiều
bài đáng chú ý nh Trơng Chính "phong cách Nguyễn Công
Trứ, tác giả cho rằng đặc điểm nổi bật nhất của toàn bộ
thơ ông là thơ nôm: Nguyễn Công Trứ là ngời luôn lạc quan,
tin tởng ở tài năng của mình Tú khí giang sơn chung đúc
lại( trời đã sinh ra mình là có chủ ý) để thi thố tài năng.
Tuy nhiên vẫn có lúc nhà thơ buồn vì thế thái nhân tình
nhng không Vì thế mà làm ông nản chí. Hễ nói chuyện
tang bồng hồ thỉ, chuyện anh hùng vẫy vùng là nhà thơ lại
hăm hở, sôi nổi(tr68). Đứng trên lập trờng nho giáo để
đánh giá, Nguyễn Công Trứ là con ngời chuẩn mực với lí tởng trí quân, trạch dân.Tất nhiên những ngời thờng có
trách nhiệm với đời thờng không tránh khỏi những ngang
trái do chính cuộc đời mang lại.


Nguyễn Công Trứ cũng

thuộc vào số đó, cuộc đời đã từng tôn ông lên đỉnh vinh
quang nhng cũng đã đẩy ông xuống đáy của xã hội, làm
anh lính thú. Chính vì thế chúng ta thấy càng về sau ông
càng có thái độ ngất ngởng kiểu nh cỡi bò vàng đeo đạc
ngựa
Từ góc độ con ngời, bài viết Tính hiện đại của
Nguyễn Công Trứ của Vơng Trí Nhàn lại phát hiện sự trởng
thành con ngời cá nhân ở Nguyễn Công Trứ. Đây cũng là
một kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với việc tìm hiểu
-6-


thơ văn ông nói chung và là một cơ sở khoa học cho tất cả
những ngời đang nghiên cứu về ông.Vơng Trí Nhàn nhìn
Nguyễn Công Trứ xuất phát từ cá tính sáng tạo của ngời
nghệ sĩ: lần đầu tiên trong văn học Việt nam một nhà
thơ tự nói về mình bằng một đại từ ở ngôi thứ 3(ông).
Nghĩa là tác giả nhìn mình nh một kẻ khác. có vẻ
Nguyễn Công Trứ đi rất gần quan niệm phân thân, trong
con ngời có vẻ có hai ba con ngời khác nhau. đó là quan
niệm khá mới mẻ so với hoàn cảnh đơng thời. Ngoài ra tác
giả còn phát hiện Nguyễn Công Trứ đi rất gần với một quan
niệm hiện sinh, chỉ thấy cuộc đời này là quan trọng, ngoài
ra từ chối mọi nghi thức ràng buộc, dù chúng đã hết sức phổ
biến. Tuy nhà nghiên cứu này cha đặt vấn đề nghiên cứu
riêng về quan niệm con ngời trong thơ nhng những kết
luận của ông về nhà thơ lại có khả năng gợi mở một cái
nhìn mới về quan niệm con ngời trong thơ văn Nguyễn

Công Trứ.
Phạm Vĩnh C khi bàn về "Thơ hành lạc của Nguyễn Công
Trứ với dòng thơ an lạc", xem đó là mảng sáng tác rất đặc
sắc lâu nay vẫn đợc coi là thơ văn cầu nhàn hởng lạc hay
là thơ văn hành lạc chiếm một vị trí đáng kể . Tác giả
khẳng định Nhu cầu hởng thụ của con ngời, nâng nó lên
thành một triết lí có sức thu phục nhân tâm thì không
mấy ai làm đợc nh Nguyễn Công Trứ (tr122). ở Nguyễn
Công Trứ hành lạc lẫn hành đạo, cả sự hởng thú vui lẫn việc
thực hiện sứ mệnh của ngời anh hùnh trên đời đều là sự
chơi, cuộc chơi. Tác giả khẳng định rằng: Bậc trợng
-7-


phu vì vậy vừa khao khát công danh, vừa vô cầu yên sở
ngộ, vừa hăng say nhập thế, vừa biết thanh thản xuất thế,
vừa biết hành vừa biết tàng, coi hành tàng thực chất không
khác gì nhau( hành tàng bất nhị kì quan). Nguyễn Công
Trứ luôn thể hiện cái khí phách cứng cỏi, bản lĩnh cao cờng
của mình trong thơ.Ông vừa diễu cợt ngời đời, vùa diễu cợt
bản thân mình: tiếng cời tự trào xuyên suốt qua sáng tác
của Nguyễn Công Trứ từ buổi thiếu thời đến buổi già nua
là biểu hiện của năng lực làm chủ bản thân phi thờng.(131)
Với công trình Từ điển văn học Việt nam( từ nguồn
gốc đến Tk XIX)-Lại Nguyên Ân(1997)nxbgd,hn nhà nghiên
cứu phát hiện ở Nguyễn Công Trứ có những ý chí, khát
vọng của kiểu anh hùng thời loạn, cái cốt cách tài tử, phong lu, sự khẳng định mạnh mẽ cá nhân nh một thực thể xã hội
và riêng t với ít nhiều giá trị thực tại và khát vọng tự do. Sự
khẳng định và sự tự khẳng định chí nam nhi ở
Nguyễn Công Trứ mạnh mẽ khác thờng nh dự báo sự xuất

hiện con ngời cá nhân ở văn học thế Thế kỉ XX.
Trần Ngọc Vơng với cuốn Nhà nho tài tử và văn học Việt
nam (1999)nxbđhqg,hn. Công trình này thuộc nghiên cứu
về loại hình tác giả. Nhà nghiên cứu đã xếp Nguyễn Công
Trứ là một trong 13 nhà nho tài tử của văn học Việt nam. ở
chơng III: Nhà nho tài tử và sự phát triển của văn học Việt
nam trong các thế kỉ XVIII_XIX. Trần Ngọc Vơng khẳng
định:Trớc Nguyễn Công Trứ không ai nói nhiều đến tài trai,
chí tang bồng, chí nam nhi, chí trợng phu, đến khát vọng
làm ngời đến nh vậy (T131).
-8-


Cuốn "Phạm Thái - Nguyễn Công Trứ - Cao Bá Quát, Vũ Dơng Quý tuyển chọn và biên soạn. nxbgd 1999.
Năm 2003 xuất hiện công trình: Nguyễn Công Trứ tác
gia và tác phẩm do Trần Nho Thìn giới thiệu và tuyển
chọn. Có thể nói đây là một công trình khoa học đầy đủ
và toàn diện từ trớc đến nay nghiên cứu về Nguyễn Công
Trứ. Ngoài một số các bài đã trích dẫn trong: Nguyễn Công
Trứ con ngời, cuộc đời và thơ còn có những bài có giá trị
khoa học rất cao mà các tác giả mới su tầm đợc. Trong dó
phải kể đến bài : Nguyễn Công Trứ và thời đại chúng ta
của Trần Nho Thìn. Tác giả bài viết đứng từ quan điểm
thời hiện đại nhận xét nhân vật- tác giả..?
Từ 1954-1975 nhiều quan điểm đứng trên lập trờng
giai cấp phê phán Nguyễn Công Trứ ( đàn áp cuộc khởi
nghĩa, đại biểu của giai cấp thống trị). Đến 1980 một bài
viết của Trơng Chính đã đánh dấu cho mốc lịch sử mới
nghiên cứu về ông. Trơng Chính cho rằng: cái cảm giác về
khối mâu thuẫn lớn ở Nguyễn Công Trứ chỉ là do việc xem

xét từng bài thơ, tách rời từng con ngời và thơ ca(), từ đó
đến nay ngời ta mới có nhãn quan mới trong đánh giá con
ngời Nguyễn Công Trứ. Tác giả cũng đề cao chí nam nhi,
chí lập công danh, nợ tang bồng của Ông. Chí nam nhi của
ông là tinh thần nhập thế tích cực của nhà nho, là thực
hiện lí tởng trí quân, trạch dân. Mặt khác ông còn thể
hiện nhu cầu hởng thụ cá nhân. Tất nhiên trong thơ văn
Nguyễn Công Trứ còn thiếu vắng hẳn đề tài về cuộc sống
của nhân dân. Trần Nho Thìn cũng đề cập tới yếu tố hành
-9-


lạc, triết lí cầu nhàn, hởng lạc trong thơ Nguyễn Công Trứ
biểu hiện rất rõ. Đây không phải là một phát hiện mới nhng
điều đó cũng chứng tỏ các nhà nghiên cứu đã đồng nhất
trong quan điểm nhìn nhận con ngời của nhà thơ. Với bài
của Lê Thớc: sự nghiệp và thi văn của uy viễn tớng
công(1928) tuy cha có phát hiện mới về t tởng và con ngời
Nguyễn Công Trứ,nhng đây là công trình biên khảo đầu
tiên có ý nghĩa nền tảng làm t liệu khi nghiên cứu. Lê Thớc
phân chia các giai đoạn trong cuộc đời và đánh giá nhà
thơ theo tiêu chí laapj công, lập đức, lập ngôn. lu trọng l lại
tìm thấy niềm hoài niệm về một thời cao đẹp phóng
khoáng của những con ngời Việt nam quá khứ: Bâng
khuâng nhớ tiếc một cái gì không bao giờ còn nữa, một cái
gì rất Việt nam, nhớ tiếc một thời khoáng dật, to nhớn, rộng
rãi và kiêu sảc(tr100). đứng trên lập trờng của thế hệ trí
thức mới, Nguyễn Bách Khoa trong: "Tâm lí và t tởng
Nguyễn Công Trứ"(1944) phê phán quan niệm duy tâm về
anh hùng, về cá nhân. Có thể nói tác giả bài viết này là một

trong số ít ngời Việt nam lần đầu tiên đứng trên lập trờng
duy vật biện chứng, quan điểm giai cấp để phân tích t tởng và thi văn Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên cách tiếp cận
này bên cạnh những mặt mạnh, những u việt so với cách
tiếp cận khác còn bộc lộ một số hạn chế dễ thấy do sự nhận
thức, nắm bắt và vận dụng phơng pháp cha nhuần nhuễn.
Dù sao khi đặt đối tợng nghiên cứu vào bối cảnh xã hội cụ
thể, ông cũng đã chỉ ra đợc một số vấn đề mới mẻ về t tởng của Nguyễn Công Trứ mà trớc đó cha ai nói đến nh
- 10 -


ngời anh hùng thời loạn, t tởng hành lạc( tuy nhiên cách
giải thích hành lạc lại không thuyết phục lắm. ông cho rằng
hành lạc là một cách để đẳng cấp sĩ phu phản ứng lại sự
hỗn xợc của bọn thơng nhân, phú hộ giàu có và từng một
thời khinh miệt giới sĩ phu đẳng cấp củaNguyễn Công
Trứ ). Nguyễn Bách Khoa còn cho rằng do hoàn cảnh lịch sử
của thời đại nói chung và do hoàn cảnh đáng thơng
củaNguyễn Công Trứ nói riêng đã đẻ ra tâm lí yếm thế
của đẳng cấp thống trị. Nguyễn Công Trứ vốn là đẳng
cấp này, nên cũng không tránh đợc tâm lí yếm thế. ở ông
có hai phơng diện: quan niệm nhân sinh ảo mộng và thái
đọ cầu nhàn và thoát tục. Đây cũng là một phát hiện có ý
nghĩa đối với nghiên cứu về con ngời trong thơ nôm
Nguyễn Công Trứ. Không chỉ đợc nghiên cứu trong nớc mà
còn ở nớc ngoài cũng có một số công trình nghiên cứu thơ
văn ông, trong đó phải kể đến Nguyễn Khắc Hoạch với bài
viết: Lí tởng kẻ sĩ trong thi văn và ngoài cuộc đời Nguyễn
Công Trứ ( Văn hoá á châu- sài gòn, số 10 tháng
1.1959).Bài viết không đi sâu vào nghiên cứu t tởng tác giả
mà tìm hiểu quá trình trởng thành cho đến cuối đời của

nhà thơ. Và mỗi giai đoạn nh vậy có một lí tởng, một cách
sống riêng. Thời xuất chính ông tích cực hành đạo, thời ẩn
dật ông lui vào hậu trờng hởng cuộc đời nhàn lạc( ý tác
giả) của ngời đã làm tròn nhiệm vụ. Quan trọng hơn Phạm
Thế Ngũ nhìn từ những khuynh hớng thời đại đi đến quan
niệm sống của tác giả đã có cái nhìn tơng đối toàn diện
và sâu sắc trong bài: "Sáng tác của Nguyễn Công Trứ" cũng
- 11 -


đề cập đến những phơng diện biểu hiện của quạn niệm
con ngời nh: Chí nam nhi, quan niệm công danh, quan
niệm hởng nhàn, triết lí nhân sinh. đặc biệt tác giả bài
viết thấy điểm tơng đồng và khác biệt giữa Nguyễn Công
Trứ và một số nhà nho trớc nh: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Hàng v.v.v ,đồng thời chỉ ra đặc điểm
nghệ thuật thơ luật của ông nguyễn

thiên về lí trí: Cả

những bài tình cảm của ông cũng nghiêng về trào lộng.
Lại không phải cái trào lộng mềm mại duyên dáng của hồ
xuân hơng mà là một cái trào lộng cục cằn, bộc tuệch,
kém thi vị(238). Ngoài ra còn có một số bài viết khác có giá
trị về khoa học nh: Chơng Thâu, Vũ Ngọc Khánh, Kiêm ĐạtNguyễn Minh, Nguyễn Tài Th v..v.
Trên đây là những công trình tiêu biểu đã nghiên cứu
về Nguyễn Công Trứ, ngoài ra còn có hàng chục bài viết,
tiểu luận khác cũng có giá trị về mặt khoa học. Ngời ta
tìm thấy ở ông một nhân cách lớn, là ngời có chí khí, có
tài nhng cũng là con ngời đầy mâu thuẫn, phức tạp. tuy

nhiên những công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ
mới chỉ đóng góp nhất địnhtrong việc phát hiện nội dung
t tởng, hình thức nghệ thuật,phản ánh hiện thực, quan
niệm sốngv..v ở thơ văn ôngmột số bài có đề cập đến phơng diện biểu hiện của quan niệm nghệ thuật về con ngời
trong thơ văn Nguyễn Công Trứ nhng còn tản mạn, hoặc mới
chỉ khai thác ở một phơng diện nào đó, một góc độ nào
đó chứ cha có sức khái quát,cụ thể, đầy đủ dới góc độ thi
pháp học.
- 12 -


Chính vì vậy, nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ vẫn còn
là một đề tài hấp dẫn cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
văn học và những ngời yêu thích thơ văn ông.
Luận văn này là côngtrình đầu tiên đi sâu tìm hiểu,
nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con ngời trong thơ
nôm Nguyễn Công Trứ một cách đầy đủ và toàn vẹn
hơn.
3. Đối tợng, phạm vi và giới hạn của đề tài.
3.1. Đối tợng.
Nh tên đề tài đã nêu, đối tợng nghiên cứu là Con ngời
trong thơ nôm Nguyễn Công Trứ. Con ngời ở đây biểu
hiện trên hai phơng diện: con ngời tác giả và đối tợng mà
nhà thơ nói tới. Nhng luận văn chủ yếu nghiên cứu con ngời
ở phơng diện thứ nhất. Vấn đề này cho đến nay vẫn cha
có một công trình khoa học nào nghiên cứu cả.
Nguyễn Công Trứ sáng tác nhiều thể loại khác nhau: thơ
nôm, hát nói, phú, thơ chữ hán.Trong đó thơ nôm chiếm vị
trí quan trọng nhất. Bởi vậy đề tài này chúng tôi chỉ khai
thác ở mảng thơ nôm.

3.2. Phạm vi, giới hạn.
Luận văn tìm hiểu Con ngời trong thể loại thơ nôm
NGuyễn Công Trứ là chủ yếu. Tuy nhiên trong quá trình
nghiên cứu chúng tôi còn sử dụng, liên hệ đến các bài thơ
thuộc các thể loại khác trong sáng tác của ông và kết hợp các
yếu tố nh: liên hệ đến cuộc đời, thời đại ảnh hởng đến t
tởng trong thơ văn NGuyễn Công Trứ.

- 13 -


-Nghiên cứu Con ngời trong thơ nôm Nguyễn Công Trứ về
văn bản thơ của tác giả, chúng tôi dựa vào cuốn thơ văn
Nguyễn Công Trứ của nhóm tác giả: Lê Thớc, Hoàng Ngọc
Phách, Trơng Chính giới thiệu, hiệu đính.nxb cục văn họcbộ văn hoá HN 1958. đây là công trình khảo cứu đáng
tin cậy nhất về Nguyễn Công Trứ cho đến lúc này. Tuy
nhiên trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có tham khảo
thêm một số tài liệu khác về thơ văn

Nguyễn Công Trứ

để đối chiếu, chọn lựa một số tác phẩm cần thiết.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1.Nguyễn Hữu Sơn trong

Vấn đề con ngời cá nhân

trong văn học cổ có nói : Dù trực tiếp, hay gián tiếp, hay do
sự ý thức về đối tợng có khác nhau, song bản thân vấn đề
con ngời cá nhân trong văn học nói chung, trong văn học cổ

nói riêng vẫn là đối tợng khảo sát tiềm tàng của các nhà
nghiên cứu. Bởi lẽ con ngời là chủ thể sáng tạo đồng thời
cũng là đối tợng nhận thức, phản ánh của văn chơng. Nghiên
cứu con ngời trong tác phẩm văn học tức là nghiên cứu hình
tợng con ngời đợc thể hiện trong ấy nh thế nào. Qua đó cho
chúng ta thấy đợc quan niệm nghệ thuật về con ngời của
tác giả.
Trong Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử cho rằng: quan
niệm nghệ thuật về con ngời là nguyên tắc lí giải, cắt
nghĩa, cảm thụ của chủ thể bằng các phơng tiện nghệ
thuật không thể lí giải một hệ thống văn thơ mà bỏ qua
con ngời đợc thể hiện ở trong đó. Vấn đề quan niệm nghệ
thuật về con ngời thực chất là vấn đề tính năng động của
- 14 -


nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực, lí giải con ngời
bằng các phơng tiện nghệ thuật, là vấn đề giới hạn, phạm
vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là
khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của
đới sống(Tr)
Nghiên cứu con ngời trong thơ nôm Nguyễn Công Trứ tức là
khám phá hình tợng con ngời trong thơ ông. Tù đó chúng ta
thấy nhà thơ quan niệm về con ngời, nhận thức về con ngời có gì đặc biệt so với những tác giả trớc đó và có đóng
góp gì cho sự phát triển văn học về sau.
4.2.Nh chúng ta đều biết, giới thuyết về con ngời nói
chung, con ngời trong tác phẩm văn học nói riêng hiện nay
có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu, tìm hiểu
sâu và kĩ lỡng về nó. Để tránh sự lặp lại không cần thiết,
trong luận văn này chúng tôi không đi vào cụ thể vấn đề

này nữa mà đi sâu vào sự biểu hiện của quan niệm nghệ
thuật về con ngời trong thơ nôm của Nguyễn Công Trứ. Tất
nhiên khi nghiên cứu tôi ý thức sâu sắc rằng: muốn nghiên
cứu con ngời trong thơ nôm Nguyễn Công Trứ phải xuất
phát từ những tiền đề, những lí luận chung về con ngời
trong tác phẩm văn học, vị trí của nó trong tác phẩm văn
học.
4.3.Vận dụng thi pháp học vào nghiên cứu con ngời trong
thơ nôm Nguyễn Công Trứ , chúng tôi khai thác ở 3 mảng:
Con ngời nhà nho hành đạo, con ngời nhà nho tài tử, a con
ngời nhà nho ẩn dật. Thực ra đây là những vấn đề đã đợc
phát hiện và nghiên cứu trong các công trình nghên cứu
- 15 -


khoa học nh :Trần Đình Hợu, Phạm Vĩnh C, Trần Ngọc Vơng
v.v Bởi vậy đề tài của chúng tôi tiếp thu những ý kiến
đánh giá của các nhà nghiên cứu và bằng những cố gắng
của mình,chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ bé để
nghiên cứu con ngời trong thơ ông một cách cụ thể, toàn
vẹn mang tính khoa học hơn .Khi nghiên cứu Con ngời
trong thơ nôm Nguyễn Công Trứ, chúng tôi cũng đề cập
đến con ngời và quan niệm nghệ thuật con ngời trong văn
học Trung đại, sự ảnh hởng của các học thuyết nho, phật,
lão đối với các nhà nho thời xa nói chung, với Nguyễn Công
Trứ nói riêng.
5.

Phơng pháp nghên cứu.


5.1. Phơng pháp thống kê, phân loại.
5.2 Phơng pháp phân tích, miêu tả.
5.3. Phơng pháp so sánh, đối chiếu.
5.4. Phơng pháp tổng hợp.
6.

Đóng góp của luận văn.
Đây là công trình đầu tiên tập trung nghiên cứu con

ngời trong thơ nôm Nguyễn Công Trứ một cách toàn diện,
đầy đủ . Kết quả nghiên cứu cũng có thể đợc vận dụng vào
công tác giảng dạy thơ văn Nguyễn Công Trứ vào các trờng
THPT, Cao Đẳng và Đại học.
7. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, nội dung chính của luận
vă gồm 3 chơng.
Chơng 1: Con ngời nhà nho hành đạo trong thơ nôm
Nguyễn Công Trứ.
- 16 -


Chơng 2: Con ngời nhà nho tài tử trong thơ nôm Nguyễn
Công Trứ ..
Chơng 3: Con ngời nhà nho ẩn dật trong thơ nôm Nguyễn
Công Trứ.

Chơng 1.
Con ngời nhà nho hành đạo trong thơ
nôm Nguyễn Công Trứ
M.Gorki nói văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả

và biểu hiện con ngời. Con ngời là đối tợng chủ yếu của
văn học,là điểm nhìn chính yếu của chủ thể sáng tạo.
Con ngời trong tác phẩm văn học lại đợc các nhà văn, nhà
thơ thể hiện qua thế giới nhân vật.Với văn xuôi, đó là
những nhân vật có tên có tuổi, cũng có thể không tên,có
ngoại hình, có diễn biến tâm lí,có số phận, với thơ,thể
hiện ở nhân vật trữ tình( nhân vật trữ tình có thể là
tác giả, cũng có thể là đối tuợng để tác giả phản ánh).
Nhân vật chính là phơng tiện cơ bản để nhà văn khái
quát, tái tạo hiện thực cuộc sống một cách hình tợng.Con
ngời đợc miêu tả trong văn học đâu chỉ là sự phản ánh
hiện thực cuộc sống một cách đơn thuần mà khi đã trở
thành một điển hình, một hình tợng nghệ thuật thì nó
góp phần biểu hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn
về con ngời một cách toàn diện và tập trung nhất.Bởi vậy
con ngời trong văn học không chỉ thể hiện hình tợng con
ngời đó nh thế nào trong tác phẩm mà quan trọng hơn
thể hiện quan điểm, t tởng , nghệ thuật xây dựng nhân
vật để tạo cho mình một phong cách riêng, một chỗ đứng
- 17 -


riêng trong cái chung của mọi ngời. Cái riêng đó chính là
đóng góp của tác giả đối với một trào lu hay rộng hơn là
một nền văn học. Tất nhiên mỗi thời đại trào lu văn học
đều xây dựng cho mình một mô hình chung về con ngời. Nhng trong mỗi thời kì lịch sử ấy, mỗi tác giả trong một
phạm vi nào đó lại có những kiến giải khác nhau về con
ngời, thậm chí tạo nên một sự đột biến trong quan niệm
về con ngời khiến cho sự khám phá thế giới trở nên đa
dạng và luôn là vô hạn. Nghiên cứu con ngời trong thơ nôm

Nguyễn Công trứ cũng đợc soi xét từ những góc nhìn ấy.

1.1.Con ngời nhà nho hành đạo trong văn học
Trung đại.
Con ngời hành đạo trong văn học Trung đại thực chất
chính là bóng dáng của nhà thơ đợc gửi gắm qua hình tợng nhân vật trong tác phẩm của mình.Bằng các phơng
tiện nghệ thuật mỗi nhà thơ thể hiện quan niệm nghệ
thuật về con ngời khác nhau tạo nên diện mạo riêng cho tác
giả.Nghiên cứu về kiểu tác giả văn học Trung đại( một
đặc điểm cơ bản của loại hình văn học Trung đại), các
nhà nghiên cứu có đa ra nhiều cách phân loại khác nhau
nhng chung quy lại có 2 cách phân loại cơ bản:
Nhìn từ góc độloại hình thể loại văn học có kiểu tác giả
thơ và kiểu tác giả văn.
Nhìn từ góc độ loại hình t tởng, văn hoá có kiểu tác giả
thiền gia và kiểu tác giả nho gia.
Kiểu tác giả thiền gia ở văn học Trung đại Việt nam
tuy chiếm số lợng không đông nhng đánh dấu một mốc
- 18 -


quan trọng trong lịch sử văn học Việt nam. Phật giáo vào
nớc ta từ rất sớm, hình thành hai dòng :

dân gian và

cung đình, ảnh hởng khá sâu sắc vào văn học. đã có
nhiều ý kiến khẳng định ở Việt nam không có dòng văn
học phật giáo. Thực ra dòng văn học phật giáo ở Việt nam
phát triển mạnh vào thời lí-trần mà các giả là các thiền s,

phật tử. Tuy nhiên kiểu tác giả và dòng văn học này chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất địn, đặc biệt từ khi nho
giáo xuất hiện, chiếm vị trí chính thống từ thế kỉ XV_
hết thế kỉ XIX thì không đợc xem trọng nh trớc và nhờng
lại địa vị cho kiểu tác giả nhà nho. ở Việt nam cũng nh ở
Trung Quốc,Triều Tiên, Nhật Bản trong một thời gian dài
nho giáo đợc coi là ý thức hệ chính thống ảnh hởng rất lớn
đến văn học nghệ thuật, đặc biệt về phơng diện t tởng.

1.1.1.ảnh hởng của nho giáo vào văn học Trung
đại.
Theo quan niệm của nho giáo, văn học có một nguồn gốc
linh thiêng, một chức năng xã hội cao cả. nho giáo hy vọng
dùng văn chơng để giáo hoá, động viên, tổ chức, hoàn
thiện con ngời, hoàn thiện xã hội. Những xã hội chịu ảnh
hởng nho giáo phải đề cao văn hoá, văn hiến, coi trọng kẻ
có học và biết làm thơ vănChính vì vậy nho giáo tạo
tâm lí hiếu học, tôn s trọng đạo, khuyến khích, động
viên các sĩ tử đi thi để lập công danh. Nho giáo cũng
hình thành khuôn khổ cho lối sống khắc kỉ, phục lễ
nhờng trên kính dới quân thần, phụ tửđối với con ngời dới thời phong kiến.
- 19 -


Nho giáo ảnh hởng tới văn học với t cách là một học thuyết,
tức là một hệ thống các quan điểm về thế giới, xã hội, con
ngời, lí tởngTheo GS Trần Đình Hợu trong cuốn Nho giáo
và văn học Việt nam trung cận đạicho rằng: nho giáo
ảnh hởng trực tiếp đến văn học qua thế giới quan của ngời
viết. Cách nho giáo hiểu quan hệ giữa thiên đạo và nhân

sự, sự tồn tại của trời, sự chi phối của đạo, lí, mệnh; cách
nho giáo hình dung thực tế, vạn sự, vạn vật và lẽ biến
dịch; cách nho giáo hiểu cổ kim( lịch sử); cách nho giáo
hình dung xã hội, sự quan trọng đặc biệt của cơng thơng, đòi hỏi con ngời có trách nhiệm, có tình nghĩa chi
phối cảm xúc, cách suy nghĩ, làm cho con ngời quan tâm
hàng đầu đến đạo đức, lo lắng cho thế đạo, nhân
tâm, băn khoăn nhiều về lẽ xuất xử() ở nhà nho tâm hết
sức quan trọng.(t51-52).
Nghiên cứu về kiểu tác giả nhà nho, theo Trần đình Hợu
và một số nhà nghiên cứu khác nh Trần ngọc Vơng, Lại
nguyên Ân đều cho rằng: trong quá trình vơn lên làm hệ
t tởng chính thống, nho giáo đã triển khai trong thực tế
hai định hớng ứng xử rõ rệt: hành- tàng tơng ứng với hai
vấn đề xuất xử trong văn học Trung đại. Từ đây hình
thành hai loại hình nhà nho đợc coi là chính thống: nhà
nho hành đạo và nhà nnho ẩn dật. Dĩ nhiên ngời hành đạo
vẫn coi là mẫu ngời chủ đạo, bởi nếu không có mẫu ngời
này làm sao có sự thắng lợi của nho giáo ở cơng vị ý thức
hệ nhà nớc chính thống.

- 20 -


Vậy nhà nho hành đạo thực hiện những chức năng gì và
có vị trí nh thế nào trong xã hội?

1.1.1.1. Thực hiện lí tởng nho giáo.
Nhìn chung các nhà nho ngày xa tiến đến con đờng
công danh bằng khoa cử văn chơng, để đáp ứng đợc mô
hình tu thân: vinh thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

nhà nho hành đạo cũng vậy muốn giúp đời trớc hết phải tự
rèn luyện bản thân để cai trị đất nớc, để giúp nhân
dân có cuộc sống ổn định, no ấm. Nhà nho hành đạo
bao giờ cũng trao cho mình chức năng của một vị thiên
sứ.
Nhà nho hành đạo về cơ bản đợc thể chế hoá thành bộ
máy quan liêu của triều đình chuyên chế. Dới triều đại
Hán Vũ Đế, nhà nho đã nắm giữ hầu hết những cơng vị
chủ chốt trong các bộ, các nội các từ địa phơng cho đến
cấp huyện. Khi đã nắm vững hầu hết những quyền lực
trong tay( dĩ nhiên trừ ngôi vua, quân đội và các vùng
phiên trấn) các nhà nho hành đạo nỗ lực triển khai việc
ứng dụng lí luận nho giáo vào quản lí xã hội. Họ sẵn sàng
dẫn thân nhập cuộc thực hiện lí tởng: trí quân, trạch
dân, mong ớc một xã hội phong kiến mẫu mực theo mô
hình Nghiêu- Thuấn. Bởi vậy trong các sáng tác văn chơng,
hình tợng tác giả nổi lên với t cách là con ngời hoạt động
cho xã hội, u thời mẫn thế, sẵn sàng xả thân thủ nghiã.
Sáng tác của nhà nho hành đạo mang màu sắc đạo lí,
tính quy phạm cao trên cả hai phơng diện : nội dung và
hình thức nghệ thuật.
- 21 -


Một xã hội công bằng hay bất công, phát triển hay tụt
hậu, thậm chí có những triều đại dễ bị loạn lạc đều phụ
thuộc rất nhiều đến lớp trí thức này. Ngời hành đạo không
chỉ là những ngời có trí tuệ, đợc đào tạo bài bản của các
học thuyết nho giáo, phật giáo, lão trang mà còn là những
ngời có tâm, có chí.Cái tâm của họ luôn hớng về nhân

dân, triều đại. Với họ trị quốc, an dân là nhiệm vụ cao
cả,là niềm hạnh phúc, thậm chí có ngời xem đó là nơi để
thoả mãn chí tang bồng hồ thỉ, công hiến tài năng của
mình cho dân tộc.
Con ngời hành đạo mang trong mình hệ thống giáo lí
của nho giáo, những vấn đề thuộc về phạm trù đạo lí
khuyên răn con ngời sống có nhân cách, giữ vững trật tự
cơng thờng: nhân-lễ- nghĩa-trí-dũng;vua tôi- cha- con vợ
chồngv.v Đối với họ gia đình hạnh phúc, xã hội ổn định
phải có trật tự trên dới, phải nghiêm khắc giữa các khoảng
cách nhất định. Mỗi ngời, mỗi gia đình đều phải tuân
thủ những luật lệ đề ra của vơng triều và sẽ bị xử phạt
nghiêm khắc, thậm chí bị xử tử nếu đi trái với đạo lí đã
quy định. Tất nhiên quan niệm về cuộc sống của con ngời
hành đạo dới thời phong kiến bên cạnh những u điểm còn
có những hạn chế nhất định đối với với việc phát huy cá
tính sáng tạo của mối con ngời. Bởi họ bị bó hẹp vào một
khuôn khổ nhất định, bị kiểm soát về mọi mặt. Điều
này không những không làm cho xã hội phát triển mà còn
ảnh hởng tới sự phát triển của văn học Trung đại. Trong một
thời gian dài văn học Trung đại ở nớc ta phát triển trong
- 22 -


những quy định ngặt nghèo về sáng tạo dới chế độ
phong kiến. Điều này lí giải tại sao hồn thơ của những tác
phẩm văn học Trung đại lại giống nhau đến nh vậy.

1.1.1.2.Lí tởng trung quân.
Dới thời phong kiến, ngời dân đợc đặt trong mối quan hệ

với triều đại: trên là vua chúa, dới là thần dân. Vua chính
là thiên tử đợc cấp cho một ý nghĩa gần nh hiện thực, kẻ
duy nhất có mệnh( chân mệnh đế vơng)tức là kẻ duy
nhất đợc thiên phụ giao cho thay mình cai trị thiên hạ, đợc
thâu tóm mọi quyền lực và của cải vào tay mình.Thiên hạ
nh những con chiên phải phục tùng theo mệnh lệnh của
vua chiếu xuống.phổ thiên chi hạ mạc phi vơng thổ, suất
hải chi tân mạc phi vơng thần.cái gì dù cái đó tầm thờng
cách mấy mà chẳng là của vua, ai dới gầm trời mà chẳng
phải là bề tôi của vua? Vì c dân c trú theo đơn vị huyết
tộc và dòng họ, các quan hệ thân tộc có vai trò vô cùng to
lớn, nên hoàng đế thiên tử vừa phải là một ngời duy nhất(
Bầu trời không thể có hai mặt trời, nớc không thể có hai
vua), nhng đồng thời là ngời của một dòng họ xác định.
Trời giao nớc về nguyên tắc cho ngời có đức, có đại đức,
mà đại đức là hiếu sinh, là biết thơng xót, chăm sóc nuôi
dỡng các sinh mệnh khác. Bám vào nguyên lí đó mà trong
suốt lịch sử tồn tại của mình, nho giáo luôn nhắc nhở, đề
cao, nhấn mạnh hay quyết liệt đòi hỏi ngời làm vua luôn
phải tự thể hiện là ngời chí đức. Nho giáo quy định đã
ở thân phận bề tôi thì phải quân sử thần tử, thần bất
tử, bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong, bất hiếu( Vua
- 23 -


khiến bề tôi phải chết, bề tôi không chịu chết là không
trung; cha bảo con quên mình, con không quên mình là
con bất hiếu). Tất nhiên trong quá trình cai trị đất nớc
những bậc Đại Vơng đều rất cần đến vai trò của tầng lớp
nho sĩ. đó là những con ngời có học vị đợc thăng quan

tiến chức bằng con đờng khoa cử. Bởi vậy tầng lớp nho sĩ
đều là những con ngời tài giỏi. Không những tài thơ văn
mà họ còn có tài thao lợc, tài kinh bang tế thế.
Nho sĩ có một vinh dự đợc gần gũi với vua, đợc sát cánh
bên vua để cai trị đất nớc, giúp dân có cuộc sống yên
ổn, kinh tế phát triển. Đặc biệt với nhà nho hành đạo,
trách nhiệm với đất nớc càng nặng nề hơn. Họ dành toàn
tâm toàn lực, đa đức và tài để phò vua dựng nớc. Bởi
vậy tầng lớp này đôi lúc dễ dẫn đến ngu trung, thực hiện
theo thánh chỉ của vua truyền đến mà quên đi lẽ phải,
điều lợi cho dân.Ngời ẩn dật căn cứ vào thực tế có lí khi
chê trách hay nhạo báng những nhà nho hăm hở khi nhập
cuộc là ăn phải bả phù hoa say mê thế lợi, nổi chìm
theo thế tục.
Phải chăng Nguyễn Công Trứ của chúng ta trong hai
lần chống cuộc khởi nghĩa của nông dân: Nông Văn Vân
và Phan bá Vành cũng đợc giới sử học nghiên cứu dới góc độ
này?

1.1.3. Biểu hiện con ngời nhà nho hành đạo
trong văn học Trung đại.
Văn học nho giáo chính thống là một thứ văn học chí
thiệnphải hoàn toàn phù hợp với những tiêu chuẩn đạo
- 24 -


đức, đợc đo bằng nhũng thớc đo đạo đức. Ngời xa có nói
thi dĩ ngôn chí, vì để bộc lộ tâm, chí, thơ trở thành
bộ phận lớn nhất, trữ tình thành nét chủ đạo trong văn
học. Nhng trữ tình không phải là bộc bạch cái tôi cảm xúc

mà bộc bạch cái ta đạo lí( ngôn chí). Vì nhằm mục đích
giáo hoá, văn học có chức năng truyền đạt chứ không có
chức năng phát hiện, phản ánh, nhận thức. Nó hớng về bắt
chớc, thể hiện đạo chứ không cố gắng về mặt tìm tòi,
sáng tạo hình thức để mô tả, tái hiện thực tế. Đối với thực
tế nó thiên về phẩm bình, tìm ý nghĩa đạo lí hơn là
băn khoăn tìm hiểu.
Trong văn học Trung đại mẫu hình con ngời hành đạo
thể hiện rất rõ ở những tác phẩm của những nhà nho theo
nghiệp văn chơng. Đặc biệt. các nhà thơ nh: Nguyễn Trãi,
Nguyễn

Bỉnh

Khiêm,

Huyện

Thanh

Quan,

Nguyễn

Khuyến, Tú Xơng , Nguyễn Công Trứtinh thần nhập thế
thể hiện rất tích cực. Đó là những con ngời có khí phách,
có chí hớng làm quan, quan tâm đến chính trị, đến vơng triều, sự tồn vong của dân tộc, cuộc sống ấm no cho
nhân dân. Đây chính là nét mới trong văn học trung đại.
Trong truyện cổ tích dờng nh không có con ngời khí
phách mà chỉ đợc xây dựng ở tính cách nh: thật thà,

dũng cảm, trung thực mà thôi. Cái khí phách ở đây đợc
thể hiện ở t tởng của con ngời dám đi ngợc lại một lực lợng
đông gấp bội để bảo vệ ý chí, lí tởng của mình. Trong
truyện " Thạch Sanh" thì Thạch Sanh không phải là nhân
vật có khí phách mà chỉ là một con ngời lập chiến công
- 25 -


×