Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

nghien cuu vai van de ve phuc hoi chuc nang ngon ngu cho tre cham phat trien tri tue converted

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.69 KB, 36 trang )

z


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT

NGUYỄN PHƯƠNG HOÀI

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHỤC
HỒI CHỨC NĂNG NGÔN NGỮ CHO TRẺ KHUYẾT TẬT TRÍ
TUỆ

LỚP VHVL K8 - KHOA GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT

GV hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Cẩm Hường

Hà Nội , 2018


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.



Từ viết tắt
GDTH
KK
KTHT
HS
PH
GV

TV
GD
KTTT

Từ đầy đủ
Giáo dục Tiểu học
Khó khăn
Khuyết tật học tập
Học sinh
Phụ huynh
Giáo viên
Sơ đồ
Tiếng Việt
Giáo dục
KTTT

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người.

Thông qua hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, con người có thể tiếp thu,
lĩnh hội các giá trị văn hóa, tinh thần, các chuẩn mực đạo đức xã hội để
hình thành, phát triển nhân cách của mình.
Vấn đề giao tiếp bằng ngôn ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
trẻ trong độ tuổi mầm non, vì đây là thời kì trẻ dần hoàn thiện ngôn ngữ
nói. Trong khi đó, đối với những trẻ khuyết tật trí tuệ (KTTT), khả năng
giao tiếp bằng ngôn ngữ rất hạn chế bởi những đứa trẻ này không biết thể
hiện rõ nhu cầu của mình khi giao tiếp với người khác và cũng không đủ
khả năng để giao tiếp với người khác. Khó khăn trong hoạt động giao tiếp
của trẻ KTTT thể hiện ở khả năng hiểu và khả năng diễn đạt ngôn ngữ của
trẻ. Khả năng hiểu và khả năng diễn đạt ngôn ngữ có mối quan hệ khăng
khít với nhau, bởi vì để trẻ có thể diễn đạt ý nghĩ của mình bằng ngôn ngữ
thì trước hết trẻ phải hiểu được ngôn ngữ.
Theo số liệu công bố của tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện nay vẫn
còn hơn 500 triệu người, trong đó có 150 triệu là trẻ em, là những người
khuyết tật. Số người bị KTTT chiếm 2 – 3% dân số thể giới, trong đó
khoảng 75% số người bị KTTT thuộc loại nhẹ. Ở Việt Nam “ít nhất có trên
7 triệu người khuyết tật (khoảng 1% dân số) và trong đó có khoảng 0.5
triệu trẻ em KTTT” [17]. Những người bị KTTT (đặc biệt là những người
thuộc loại nhẹ) nếu được can thiệp và điều trị kịp thời có thể hòa nhập với
cộng đồng. Do đó, vấn đề trị liệu cho những người khuyết tật trong đó có
trẻ KTTT luôn là vấn đề cấp bách đối với mọi thời đại, mọi xã hội, đặc biệt
trong xã hội ngày nay.


Từ trước đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục học, y
học nhằm hỗ trợ giao tiếp cho trẻ KTTT. Tuy nhiên, chưa có những nghiên
cứu đầy đủ về vấn đề phục hồi chức năng ngôn ngữ cho trẻ KTTT. Đó là lí
do chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu một số vấn đề về phục hồi chức năng
ngôn ngữ cho trẻ KTTT”.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là khảo sát thực trạng khả năng ngôn ngữ của trẻ
KTTT, đưa ra những liệu pháp nhằm nâng cao khả năng ngôn ngữ cho đối
tượng này.
Với mục đích như trên, nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu cơ sở lí
thuyết về trẻ KTTT; nghiên cứu các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ
em bình thường để so sánh với trẻ KTTT; nghiên cứu thực trạng khả năng
hiểu và diễn đạt ngôn ngữ của trẻ KTTT; đề xuất một số liệu pháp nhằm
nâng cao khả năng ngôn ngữ cho trẻ KTTT.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Để có thể đưa ra những liệu pháp giúp nâng cao khả năng ngôn ngữ
cho trẻ KTTT chúng tôi khảo sát điển hình 3 trẻ KTTT (5 – 6 tuổi) tại 3 cơ
sở trị liệu cho trẻ khuyết trên địa bàn Hà Nội đó là, trẻ N.T.T - trường mầm
non Ánh Sao; N.V.T ở làng trẻ Hữu Nghị Việt Nam và N.V.N ở trung tâm
An Phúc Thành.
Để có thể đưa ra những liệu pháp giúp nâng cao khả năng ngôn ngữ
cho trẻ KTTT chúng tôi khảo sát điển hình 3 trẻ KTTT (5 – 6 tuổi) tại 3 cơ
sở trị liệu cho trẻ khuyết trên địa bàn Hà Nội đó là, trẻ N.T.T - trường mầm
non Ánh Sao; N.V.T ở làng trẻ Hữu Nghị Việt Nam và N.V.N ở trung tâm
An Phúc Thành.
4. Giả thuyết khoa học .
Bản chất của vấn đề “phục hồi chức năng ngôn ngữ cho trẻ KTTT”
không nằm ngoài mục tiêu tìm ra những phương pháp giúp trẻ KTTT có thể
giao tiếp, hòa nhập với cộng đồng. Hiện nay phương pháp được các tác giả
sử dụng phổ biến giúp trẻ giao tiếp là phương pháp “giao tiếp tổng thể”


(Total Communication) với trẻ KTTT. Giao tiếp tổng thể có nguồn gốc từ
những nghiên cứu về người điếc. Tuy vậy có thể coi đây là tôn chỉ cơ bản
khi làm việc với trẻ KTTT.

Ở Việt Nam, cho tới nay mới chỉ có một số tài liệu bồi dưỡng giáo
viên dạy trẻ khuyết tật, tài liệu bồi dưỡng cho sinh viên khoa giáo dục hòa
nhập trẻ KTTT do Trung tâm nghiên cứu Giáo dục trẻ khuyết tật Viện Khoa
học giáo dục nghiên cứu và biên soạn. Ngoài ra có một số khóa luận tốt
nghiệp của sinh viên Khoa giác dục đặc biệt trường Đại học Sư phạm Hà
Nội viết về vấn đề khả năng ngôn ngữ của trẻ KTTT như: “Tìm hiểu khả
năng hiểu và diễn đạt ngôn ngữ của trẻ Down lớp mẫu giáo” của Nguyễn
Thanh Huyền; “Tìm hiểu ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ diễn đạt của một
trẻ KTTT” của Chử Thị Hiểu; “Ngôn ngữ diễn đạt của trẻ khuyết tật trí tuệ
6 – 7 tuổi” của Phạm Thị Bích… Đề tài “Nghiên cứu một số vấn đề về hồi
chức năng ngôn ngữ cho trẻ KTTT” là vấn đề mới chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu. Do đó, trong đề tài luận văn thạc sĩ này chúng tôi
mạnh dạn tìm hiểu làm tiền đề cho những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề
phục hồi chức năng ngôn ngữ cho trẻ KTTT.
5. Giới hạn nghiên cứu
Mục đích của đề tài là khảo sát thực trạng khả năng ngôn ngữ của trẻ
KTTT, đưa ra những liệu pháp nhằm nâng cao khả năng ngôn ngữ cho đối
tượng này.
Với mục đích như trên, nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu cơ sở lí
thuyết về trẻ KTTT; nghiên cứu các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ
em bình thường để so sánh với trẻ KTTT; nghiên cứu thực trạng khả năng
hiểu và diễn đạt ngôn ngữ của trẻ KTTT; đề xuất một số liệu pháp nhằm
nâng cao khả năng ngôn ngữ cho trẻ KTTT.
6. Phương pháp nghiên cứu


Đề tài sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp các thông tin, tài
liệu (cả trong và ngoài nước) liên quan đến vấn đề phục hồi chức năng
ngôn ngữ cho trẻ KTTT.
Phương pháp điều tra bằng anket (bộ công cụ đánh giá khả năng ngôn

ngữ cho trẻ KTTT); phương pháp quan sát (quan sát trẻ trong hoạt động
học tập, vui chơi); phương pháp phỏng vấn và đàm thoại với trẻ.
Trên cơ sở dữ liệu thu thập được trong quá trình điều tra khảo sát
chúng tôi phân tích đánh giá mức độ hiểu và diễn đạt ngôn ngữ của các em,
từ đó đề xuất những liệu pháp giúp nâng cao khả năng ngôn ngữ cho trẻ
KTTT.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có 2 chương:
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.........................
1.1. Cơ sở lí luận về ngôn ngữ............................................................... 10
1.1.2. Khái niệm ngôn ngữ..................................................................10
1.1.3. Chức năng của ngôn ngữ...........................................................12
1.1.4. Sự thụ đắc ngôn ngữ ở trẻ em...................................................14
1.1.5. Các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 0 - 6 tuổi.............20
1.2. Cơ sở lí luận về tật KTTT................................................................ 24
1.2.2. Thuật ngữ “khuyết tật trí tuệ”................................................... 24
1.2.3. Khái niệm KTTT......................................................................24
1.2.4. Các mức độ KTTT.................................................................... 31
CHƯƠNG 2 KHẢ NĂNG NGÔN NGỮ CỦA TRẺ KTTT.......................34
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể khảo sát......................................... 34
2.1.1. Trường mầm non Ánh Sao và trẻ N.T.T...............................34
2.1.2. Làng Hữu Nghị Việt Nam và trẻ N.V.T................................35
2.1.3. Trung tâm An Phúc Thành và trẻ N.V.N...............................36
2.2. Quá trình khảo sát............................................................................ 36
2.2.1. Thời gian và tiến trình khảo sát........................................... 36


2.2.2. Công cụ khảo sát...................................................................37
2.2.3. Cách đánh giá....................................................................... 40
2.3. Kết quả khảo sát khả năng ngôn ngữ của trẻ KTTT........................ 40

2.3.1. Khả năng hiểu ngôn ngữ của trẻ KTTT.................................... 0
2.3.2. Khả năng diễn đạt ngôn ngữ của trẻ KTTT..............................50
2.3.3. So sánh khả năng hiểu và diễn đạt ngôn ngữ của 3 trẻ KTTT 63
2.4. Nhận xét khả năng ngôn ngữ của trẻ KTTT.....................................70
2.4.1...........................................................................................Khả năng hiểu
ngôn ngữ của trẻ KTTT.............................................................70
2.4.2...........................................................................................Khả năng diễn
đạt ngôn ngữ của trẻ KTTT.......................................................71
2.4.3. Mối tương quan giữa khả năng hiểu và khả năng diễn đạt ngôn
ngữ của trẻ KTTT................................................................................


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận về ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một khái niệm rộng, dưới mỗi góc nhìn khác nhau, người
ta có những khái niệm về “ngôn ngữ” khác nhau.
Theo sinh lí học thần kinh, “ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai của
con người”. Ngôn ngữ thể hiện bằng lời nói, chữ viết mà con người có thể
nghe thấy và tư duy được. Ngôn ngữ được hình thành dần trong quá trình
sống.
Theo tâm lí học thì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
của con người đồng thời là phương tiện của tư duy.
Theo cách hiểu của ngôn ngữ học, “ngôn ngữ là sự tập hợp các đơn vị
và quy tắc (phát âm, dùng từ, đặt câu) đã được xã hội quy ước và quy định.
Những quy ước và quy định này chính là cơ sở mà các thành viên của cộng
đồng có thể dựa vào đó để tạo ra các sản phẩm ngôn ngữ có thể hiểu được
đối với các thành viên khác cùng cộng đồng” [16].
Theo cuốn “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ăngghen đã viết “Ngôn ngữ

là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả những người
khác nữa, như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa; và,
cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra là do nhu cầu, do cần thiết phải giao
dịch với người khác” [12].
Như vậy, dù theo quan niệm nào thì ngôn ngữ cũng là một hiện tượng
xã hội, ngôn ngữ tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

Vật thật giúp cho việc hình thành trí nhớ của trẻ bền vững.
1.1.2. Chức năng của ngôn ngữ


Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, ngôn ngữ được hình thành, phát
triển trong xã hội loài người, do ý muốn và nhu cầu của con người. Ngôn
ngữ có nhiều chức năng song chức năng giao tiếp và công cụ của tư duy là
hai chức năng quan trọng nhất.
1.1.2.1. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người
Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ người này đến người khác với
một mục đích nhất định. Trong quá trình giao tiếp người ta trao đổi tư
tưởng, tình cảm, trí tuệ, sự hiểu biết…với nhau, qua đó tác động lẫn nhau.
Chính vì thế mà con người mới tập hợp thành một cộng đồng xã hội có tổ
chức và hoạt động, kinh nghiệm, tư tưởng, trí tuệ được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Ngoài ngôn ngữ, con người còn sử dụng nhiều công cụ giao tiếp khác
như cử chỉ, các loại kí hiệu, âm nhạc, hội họa, điêu khắc…

1.1.2.2. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy
Bên cạnh chức năng là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, ngôn
ngữ còn có chức năng là công cụ của tư duy. Ngôn ngữ ra đời và phát triển
do nhu cầu muốn trao đổi thứ gì đó của con người. Trước khi trao đổi con

người cần phải có “một cái gì đó để trao đổi” và phương tiện để trao đổi.
Hay, con người phản ánh thực tại khách quan và mong muốn trao đổi kết
quả ấy cho người khác bằng phương tiện ngôn ngữ. Từ đó nảy sinh mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy
Ngôn ngữ có chức năng là công cụ của tư duy thể hiện ở các khía cạnh
sau:
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Điều này được chứng
minh ở điểm, bất cứ từ nào, câu nào cũng biểu hiện khái niệm, tư
tưởng và ngược lại, bất cứ ý nghĩ, tư tưởng nào cũng tồn tại dưới dạng
ngôn ngữ. Ngôn ngữ trực tiếp tham gia và quá trình hình thành tư tưởng.
Mọi ý nghĩ, tư tưởng trở nên rõ ràng khi được biểu hiện bằng ngôn ngữ.


C.Mác và Ăngghen đã viết: “Sự sản sinh ra ý tưởng, biểu tượng và ý thức
trước hết là gắn liền trực tiếp và mật thiết với hoạt động vật chất và với
giao dịch vật chất của con người – đó là ngôn ngữ của cuộc sống thực tiễn”
[8].
Như vậy có thể thấy rằng, ngôn ngữ và tư duy thống nhất nhưng
không đồng nhất. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy và chính ngôn ngữ là
phương tiện để diễn đạt tư duy.
1.1.3. Sự thụ đắc ngôn ngữ ở trẻ em
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về sự thụ đắc ngôn ngữ ở trẻ
em, trong đó đáng chú ý là lí thuyết “hành vi luận” của B.F. Skinner, lí
thuyết “bẩm sinh luận” của Noam Chomsky và lí thuyết “tương tác luận”
của Piaget, Vygotsky và Halliday.
Theo Skinner (1957) và các nhà hành vi luận, trẻ học ngôn ngữ từ
những người xung quanh thông qua một quá trình bắt chước và ghi nhớ.
Quá trình thụ đắc này bắt đầu từ những kích thích bên ngoài (âm thanh,
điệu bộ, cử chỉ, đồ vật...) hay bên trong (trạng thái tâm sinh lí của trẻ có thể
quan sát được như sợ hãi, vui mừng, no, đói...). Một kích thích sẽ dẫn đến

một phản ứng là hành vi ngôn ngữ của trẻ, và nó sẽ được định hình sau khi
được củng cố.
Chomsky (1965) đã phê phán quan điểm của lí thuyết hành vi luận
trong việc coi trọng vai trò của môi trường đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ, và cho rằng trẻ không thể học từng từ, từng câu và lưu giữ chúng
trong trí nhớ cùng với các thông tin về cảnh huống sử dụng để rồi dùng lại
khi hoàn cảnh tương tự xảy ra.Trẻ trải qua các giai đoạn thụ đắc ngôn ngữ.
- Các giai đoạn giống nhau cho tất cả những đứa trẻ nói cùng một
ngôn ngữ mặc dù tốc độ đạt được có khác nhau.
- Các giai đoạn giống nhau cho tất cả các ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ của trẻ có qui tắc, có tính hệ thống; các qui tắc ngôn ngữ
của trẻ không nhất thiết giống các qui tắc của người lớn.
- Trẻ không chấp nhận sự chỉnh sửa.


- Từng thời kì, trẻ có khả năng xử lí một số lượng qui tắc có hạn. Khi
hai hay nhiều qui tắc cạnh tranh nhau, trẻ có thể quay trở lại qui tắc đến
trước.
Tuy nhiên, lí thuyết bẩm sinh luận của Chomsky cũng gặp phải
những sự phản đối do quá coi nhẹ ảnh hưởng của môi trường trong sự phát
triển ngôn ngữ của trẻ em. Theo các nhà bẩm sinh luận, môi trường chỉ có
giá trị kích hoạt các qui tắc ngữ pháp đã được mã hoá trong não trẻ, vì thế
chất lượng của môi trường ngôn ngữ không ảnh hưởng gì đến sự phát triển
ngôn ngữ.
Những người theo lí thuyết tương tác luận không phủ nhận những
luận điểm
Piaget (1954) coi ngôn ngữ là một trong những hệ thống tín hiệu mà
đứa trẻ học được thông qua tương tác vật lí (bằng các giác quan và cơ bắp)
với môi trường, chứ không phải bẩm sinh như quan niệm của các nhà bẩm
sinh luận, hay học được từ những người xung quanh như quan niệm của

các nhà hành vi luận. Khả năng ngôn ngữ, theo Piaget, là một trong nhiều
khả năng được hình thành do sự hoàn thiện của nhận thức (vì lẽ đó lí thuyết
của Piaget còn được gọi là mô hình nhận thức luận).
Vygotsky (1978) đại diện cho khuynh hướng văn hoá - xã hội trong
việc lí giải sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Theo Vygotsky, ngôn ngữ của
trẻ phát triển hoàn toàn trong tương tác xã hội. Tác giả dùng khái niệm
vùng cận phát triển (zone of proximal development) để nói lên tầm quan
trọng của tương tác với những người xung quanh và các yếu tố văn hoá - xã
hội trong môi trường đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Halliday (1975, 1985) nhấn mạnh vai trò của môi trường trong việc quyết
định những hình thức và chức năng ngôn ngữ đứa trẻ học được trong lí
thuyết ngôn ngữ học chức năng hệ thống của ông.

1.1.4. Các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 0 - 6 tuổi


Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau trong việc phân chia cũng
như phân tích các giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ từ 0 – 6 tuổi. Trong
giới hạn của luận văn này chúng tôi tóm lược các giai đoạn phát triển ngôn
ngữ của trẻ dựa trên kiến thức chúng tôi thu nhận được. Theo đó chúng tôi
chia thành 2 giai đoạn phát triển ngôn ngữ của trẻ đó là, giai đoạn từ 0 – 3
tuổi và giai đoạn từ 3 – 6 tuổi.
1.1.4.1. Giai đoạn từ 0 – 3 tuổi
Trong giai đoạn này chúng tôi tiếp tục chia nhỏ thành từng thời kì phát
triển ngôn ngữ của trẻ, cụ thể như sau:
Từ 0 – 3 tháng tuổi: Thời kì này trẻ phát ra những tiếng kêu “ọ, ẹ”,
tiếng “gừ”…thể hiện sự khó chịu hay đòi ăn.
Từ 3 – 4 tháng tuổi: Thời kì này trẻ đã bước đầu có những phản ứng
với âm thanh của người thân, trẻ mỉm cười khi nghe tiếng nói quen thuộc.
Từ 4 – 5 tháng tuổi: Lúc này trẻ đã biết hóng chuyện, biết cười thành

tiếng.
Từ 5 – 6 tháng tuổi: Trẻ đã nghe và phân biệt được âm thanh, trẻ có
thể nhìn vận động bộ máy phát âm của người khác và bắt chước.
Từ 6 – 7 tháng tuổi: Trẻ bắt đầu bập bẹ tương đối rõ một số nguyên âm
và phụ âm; trẻ đã phát âm được một số âm tiết mở như: bà, mama, baba…
Trẻ có thể phân biệt được âm sắc giọng nói của những người xung quanh.
Từ 7 – 8 tháng tuổi: Trẻ bước đầu hiểu được ý nghĩa của câu nói, nhận
biết được tên mình khi có người gọi; trẻ có khả năng bắt chước âm thanh
và có thể hiểu được nghĩa của những câu giao tiếp ngắn thông dụng.
Từ 9 – 10 tháng tuổi: Trẻ bập bẹ được nhiều từ có ý nghĩa giúp trẻ
biểu đạt phần nào nguyện vọng của mình.
10 - 11 tháng tuổi: Trẻ đã hiểu được những câu đơn giản.
11-12 tháng tuổi: Tùy theo mỗi trẻ nhưng khi được khoảng 11 tháng
hay một tuổi trẻ nói được từ đơn khá rõ, thường là các từ có liên quan đến


người, đồ vật hoặc sự kiện xung quanh hoặc các nhu cầu của bản thân trẻ
như: bố, mẹ; ạ, dạ, xin; ô tô, bíp bíp hoặc tiếng kêu các con vật: meo meo,
éc éc, gâu gâu... [14].
12-15 tháng tuổi: Lúc này trẻ có thể hiểu được những yêu cầu đơn
giản của người lớn như “con lấy đồ chơi đi” hoặc “con cất đồ chơi đi”. Vốn
từ của trẻ lúc này có khoảng 2 – 10 từ. Trẻ đã phát âm được các từ đơn giản
có các thanh: thanh không, thanh huyền, thanh sắc.
15 – 20 tháng tuổi: Vốn từ của trẻ lúc này lên khoảng 20 – 30 từ, trẻ
bắt đầu biết đặt câu hỏi “đâu”, “ở đâu”; biết nói các từ “cái này”, “cái kia”.
Trẻ đã nói được câu có 2 từ, biết “chào”, “bai bai”…
Ở giai đoạn này trẻ đã bắt đầu tự nối ghép được hai từ với nhau và bắt
đầu hình thành các trật tự câu. Trẻ có thể chỉ được ít nhất sáu bộ phận trên
cơ thể, chỉ được một hai hình ảnh quen thuộc khi cho trẻ nhìn tranh như:
hình bố, hình con cá hoặc hình con chó…[14].

20 – 24 tháng tuổi: Trẻ phát âm a, o, ô, ơ, e, ê, i và các phụ âm b, m, g,
k, t, ch, kh (âm tắc, âm mũi). Trẻ nói được các từ “bà ơi”, “ăn cơm”… Vốn
từ của trẻ lên tới 400 từ gồm các loại danh từ, động từ, tính từ, đại từ. Trẻ
phát âm được các âm tiết mang dấu thanh: sắc, nặng; trẻ bắt đầu làm quen
với các thanh: hỏi, ngã.
Từ 2 – 3 tuổi: Trẻ hiểu các khái niệm về vị trí trong không gian: phía
trước, bên phải, bên ngoài…, hiểu một vài chức năng công dụng của đồ vật
và các bộ phận của cơ thể như: cốc để uống nước, lược để chải đầu, mũi để
ngửi, miệng để ăn…
Lúc này trẻ có thể hiểu một vài đại từ, hiểu các từ mô tả: to/bé,
ướt/khô.
1.1.4.2. Giai đoạn từ 3 – 6 tuổi
Thời kì 3 – 4 tuổi: Đây là lứa tuổi trẻ bắt đầu đến trường mẫu giáo.
Thời kì này trẻ hay hỏi, thích khám phá những điều mới lạ. Trẻ có thể hiểu


được lời nói của người lớn, có thể hiểu nội dung các bài thơ ngắn, các bài
đồng dao…
Thời kì 4 – 5 tuổi: Vốn từ của trẻ lúc này có khoảng 2500 từ và chúng
có thể hiểu được số lượng từ lớn hơn. Trẻ rất hứng thú với những từ mới
học, cũng có khi trẻ tự tạo ra từ mới và cảm thấy hứng thú với những từ
mới đó.
Thời kì 5 – 6 tuổi: Vốn từ của trẻ tăng nhanh trong thời kì này, đạt
mức khoảng 4000 – 5000 từ. Trẻ đã nói được nhiều câu đơn và câu phức
đúng quy tắc ngữ pháp.
Như vậy, sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em là một quá trình liên tục, chất
lượng của thời kì sau phụ thuộc vào mức độ phát triển của thời kì trước.
1.2. Cơ sở lí luận về tật KTTT
1.2.1. Thuật ngữ “khuyết tật trí tuệ”
Trước đây ở nước ta, đặc biệt là ở phía Bắc, những trẻ khuyết tật trí tuệ

(KTTT) thường được gọi là “trẻ chậm khôn” hay “thiểu năng trí tuệ”, 2
thuật ngữ này được sử dụng đầu tiên tại Trung tâm nghiên cứu tâm lí trẻ
em của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện [11].
Hiện nay, trên thế giới có xu hướng sử dụng những thuật ngữ ít mang
tính kì thị hơn đối với trẻ này như: trẻ ngoại lệ, trẻ có khó khăn về học tập,
trẻ có khuyết tật về phát triển, trẻ có nhu cầu đặc biệt… Những cách sử
dụng này nhằm tránh ảnh hưởng tiêu cực của việc sử dụng thuật ngữ
“khuyết tật trí tuệ” hoặc “chậm phát triển tâm thần”; vì những thuật ngữ
này có thể làm cha mẹ trẻ cảm thầy buồn, trẻ dễ bị các bạn trêu chọc và
giáo viên ít tin tưởng vào khả năng học tập của trẻ.
Trên thế giới hiện nay có hai thuật ngữ tiếng Anh được sử dụng phổ
biến đó là thuật ngữ “Mental Retaration” do Hiệp hội khuyết tật trí tuệ Mỹ
lựa chọn và thuật ngữ “Intellectual Disability” do tổ chức nghiên cứu khoa
học quốc tế về KTTT (IASSID) lựa chọn. Ở Việt Nam thuật ngữ được dùng


phổ biến là “khuyết tật trí tuệ”, và đây cũng là thuật ngữ được chúng tôi sử
dụng.
1.2.2. Khái niệm KTTT
Hiện nay có nhiều khác niệm khác nhau về tật KTTT, tùy thuộc vào
tiêu chí xác định KTTT của mỗi tác giả.
1.2.2.1. Khái niệm KTTT dựa trên trắc nghiệm trí tuệ
Hai tác giả người Pháp là Alfred Binet và Theodore Simon là những
người đầu tiên phát minh ra trắc nghiệm trí tuệ vào đầu thế kỉ XX. Mục
đích của trắc nghiệm này là để phân biệt trẻ em bình thường học kém và
các trẻ học kém do KTTT. Sau khi ra đời, trắc nghiệm này được các nhà
tâm lí học Mỹ chú ý và nó được lấy làm cơ sở phát triển nhiều trắc nghiệm
trí tuệ khác.
Từ khi trắc nghiệm trí tuệ ra đời năm 1905, đại đa số các chuyên gia
đã thống nhất sử dụng các trắc nghiệm trí tuệ để xác định KTTT. Theo họ

“những người có chỉ số trí tuệ dưới 70 là KTTT” [17].
Sử dụng trắc nghiệm trí tuệ để chẩn đoán KTTT có ưu điểm là khách
quan, đáng tin cậy và dễ thực hiện, đặc biệt là trong trường hợp cần đánh
giá, phân loại nhanh. Tuy nhiên phương pháp này cũng có hạn chế nhất
định như: chỉ số trí tuệ không phải là đơn vị đo lường duy nhất về tiềm
năng trí tuệ của con người; không phải lúc nào kết quả chẩn đoán trên trắc
nghiệm trí tuệ cũng tương ứng với khả năng thích ứng của cá nhân trong
cuộc sống thực tế. Có nhiều trường hợp trẻ đạt chỉ số trí tuệ thấp nhưng lại
thích nghi dễ dàng với môi trường. Nhược điểm lớn nhất khi xác định trẻ
KTTT bằng trắc nghiệm trí tuệ là đối với trẻ em nghèo và trẻ có nguồn gốc
văn hóa khác nhau hiệu quả của phương pháp trắc nghiệm này không cao.

1.2.2.2. Khái niệm KTTT dựa trên cơ sở khiếm khuyết về khả năng điều
chỉnh xã hội


Nhiều chuyên gia không sử dụng trắc nghiệm trí tuệ để chẩn đoán
KTTT mà dựa vào mức độ thích ứng với môi trường sống và văn hóa của
một cá nhân. Năm 1954, nhà tâm lí học người Mỹ - Benda đã đưa ra quan
niệm: “Một người KTTT là người không có khả năng điều khiển bản thân
và xử lí các vấn đề của riêng mình, hoặc phải được dạy mới biết làm như
vậy, họ có nhu cầu về sự giám sát, kiểm soát, chăm sóc sức khỏe bản thân
và sự chăm sóc của cộng đồng” [17]. Khái niệm KTTT dựa trên cơ sở
khiếm khuyết về khả năng điều chỉnh xã hội
Nhiều chuyên gia không sử dụng trắc nghiệm trí tuệ để chẩn đoán
KTTT mà dựa vào mức độ thích ứng với môi trường sống và văn hóa của
một cá nhân. Năm 1954, nhà tâm lí học người Mỹ - Benda đã đưa ra quan
niệm: “Một người KTTT là người không có khả năng điều khiển bản thân
và xử lí các vấn đề của riêng mình, hoặc phải được dạy mới biết làm như
vậy, họ có nhu cầu về sự giám sát, kiểm soát, chăm sóc sức khỏe bản thân

và sự chăm sóc của cộng đồng” [17].
Hạn chế về hai hoặc nhiều hơn những lĩnh vực kĩ năng thích ứng: giao
tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, các kĩ năng xã hội, sử dụng các phương
tiện trong cộng đồng, tự định hướng, giải trí, làm việc…
Hiện tượng KTTT xuất hiện trước 18 tuổi.
10 lĩnh vực kĩ năng thích ứng (giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia
đình, xã hội, sử dụng các phương tiện trong cộng đồng, tự định hướng, sức
khỏe và an toàn, học đường chức năng, giải trí và làm việc) quyết định khả
năng sống và liên quan mật thiết đến nhu cầu cần hỗ trợ của người KTTT.
AAMR nhấn mạnh 4 vấn đề cần phải cân nhắc khi áp dụng khái niệm
Này.
Thứ nhất, một sự đánh giá hiệu quả phải tính đến sự đa dạng về văn
hóa và ngôn ngữ, cũng như sự khác nhau về yếu tố giao tiếp.
Thứ hai, sự hạn chế về kĩ năng thích ứng xảy ra trong môi trường đặc
trưng cho tuổi đồng trang lứa và thể hiện rõ nhu cầu cần hỗ trợ của người
đó.


Thứ ba, với sự hỗ trợ thích hợp trong khoảng thời gian thích hợp, khả
năng hòa nhập cuộc sống của người KTTT sẽ được cải thiện.
Thứ tư, xã hội có trách nhiệm hỗ trợ để trẻ khuyết tật có khả năng hòa
nhập cộng đồng. Hệ thống hỗ trợ người KTTT với nhiều dịch vụ và mức độ
phù hợp với người khuyết tật. Nếu người khuyết tật càng nặng thì mức độ
hỗ trợ càng phải cao để giúp người đó hòa nhập vào xã hội ở mức tối đa.
1.2.3. Các mức độ KTTT
Hiện nay, trên thế giới có nhiều cách phân loại mức độ KTTT khác
nhau.
Các tác giả cuốn Sổ tay thống kê – chẩn đoán những rối nhiễu tâm
thần IV (DSM-IV) sử dụng chỉ số trí tuệ (IQ – Intelligent Quotien) làm
tiêu chí phân loại mức độ KTTT và đã phân ra làm 4 mức độ như sau:

Loại nhẹ: Chỉ số thông minh (IQ) của trẻ từ 50-70. Trẻ thuộc loại này
chiếm 75% tổng số trẻ KTTT. Những đứa trẻ này có thể giáo dục được, có
khả năng tự chăm sóc và hòa nhập xã hội, có thể làm những công việc đơn
giản, ít cần sự giúp đỡ.
Loại trung bình: Chỉ số thông minh của trẻ từ 35-49. Trẻ thuộc loại
này có thể huấn luyện được. Nếu được tác động từ bé, khi trưởng thành có
thể tự chăm sóc, có thể làm những công việc đơn giản. Chúng cần sự trợ
giúp ở một số thời điểm nào đó.
Loại nặng: Chỉ số thông minh của trẻ từ 20-34. Trẻ thuộc loại này cần
theo dõi thường xuyên và cần trợ giúp hàng ngày
Loại rất nặng: Chỉ số thông minh của trẻ dưới 20. Trẻ thuộc loại này
cần chăm sóc đặc biệt và trợ giúp thường xuyên ở mọi nơi, mọi lúc, trẻ có
thể bị thêm một số bệnh khác như nghe kém, động kinh…[17]. Hiệp hội
KTTT Mỹ (AAMR) sử dụng tiêu chí thích ứng để phân loại mức độ
KTTT và phân ra 4 mức hỗ trợ như sau:
Hỗ trợ không thường xuyên: là loại hỗ trợ dựa theo nhu cầu, nó được
xác định trên cơ sở bản chất của từng giai đoạn và cá nhân không phải lúc


nào cũng cần được hỗ trợ hoặc chỉ cần hỗ trợ ngắn hạn trong những giai
đoạn chuyển đổi của cuộc sống. Loại hỗ trợ này có thể ở mức cao hoặc
thấp.
Hỗ trợ có giới hạn: mức độ hỗ trợ tùy theo thời điểm và hạn chế về
thời gian chứ không phải là hình thức hỗ trợ gián đoạn. Hình thức hỗ trợ
này có thể đòi hỏi ít nhân viên hơn và kinh phí cũng thấp hơn các mức độ
hỗ trợ học tập trung/chuyên sâu.
Hỗ trợ mở rộng: là loại hỗ trợ thường xuyên và ở mức độ cao; hỗ trợ
nhiều trong môi trường và trong cuộc đời. Loại này cần sự tham gia của
nhiều người, nó là hình thức hỗ trợ mang tính xâm nhập nhiều hơn là hỗ trợ
mở rộng hay hỗ trợ hạn chế về thời gian.

Hỗ trợ toàn diện: là loại hỗ trợ thường xuyên và ở mức độ cao, hỗ trợ
trong nhiều môi trường và trong suốt cuộc đời. Loại hỗ trợ này cần sự tham
gia của nhiều người, nó là hình thức hỗ trợ, mang tính xâm nhập nhiều hơn
và hỗ trợ mở rộng hay hỗ trợ hạn chế về thời gian [17].
Kisler (1964) cũng phân loại KTTT thành 4 mức như sau: Mức
nhẹ: chỉ số trí tuệ là 53 – 69
Mức trung bình: chỉ số trí tuệ là 36 – 52
Mức nặng: chỉ số trí tuệ là 20 – 25
Mức rất nặng: chỉ số trí tuệ dưới 20
Việc phân loại mức độ KTTT giúp chúng ta có cơ sở đoán biết mức độ
hành vi của đứa trẻ, biết được điều kiện thể chất và đặc biệt là mức độ, hình
thức chăm sóc cần thiết cho đứa trẻ.


CHƯƠNG 2
KHẢ NĂNG NGÔN NGỮ CỦA TRẺ KTTT
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể khảo sát
Để có kết quả đánh giá về khả năng ngôn ngữ của trẻ KTTT, chúng tôi
khảo sát 3 trẻ ở độ tuổi mầm non (5 – 6 tuổi) trên địa bàn Hà Nội, 3 trẻ đó
là N.T.T - trường mầm non Ánh Sao, N.V.T - làng Hữu Nghị Việt Nam và
N.V.N - trung tâm An Phúc Thành.
2.1.1. Trường mầm non Ánh Sao và trẻ N.T.T
Trường mầm non Ánh Sao là một trường chuyên biệt được thành lập
năm 2007. Đây là một trường chuyên hỗ trợ trẻ em khuyết tật mang tính
nhân đạo, hoạt động của trường dựa trên kinh phí do cha mẹ trẻ tự nguyện
đóng góp, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế mỗi gia đình
Trường mầm non Ánh Sao có đội ngũ giáo viên dày dặn kinh nghiệm,
nhà trường đã trị liệu thành công cho nhiều em khuyết tật trí tuệ, sau khi trị
liệu nhiều em đã có thể theo học ở các lớp hòa nhập.
Trẻ N.T.T sinh năm 2007, theo chẩn đoán của bác sĩ bệnh viện Nhi

Trung ương “N.T.T bị KTTT bẩm sinh ở mức độ trung bình”.
Hàng ngày, ngoài giờ học tại trường mầm non Ánh Sao trẻ vẫn theo lớp
giáo dục hòa nhập tại trường mẫu giáo gần nhà.
2.1.2. Làng Hữu Nghị Việt Nam và trẻ N.V.T
Làng Hữu Nghị Việt Nam trực thuộc Trung ương Hội Cựu chiến binh
Việt Nam được thành lập ngày 29 tháng 12 năm 1991 theo quyết định của
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Đây là đơn vị sự nghiệp
xã hội, hoạt động nhân đạo với sự hỗ trợ của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức phi chính phủ và các
cá nhân có lòng từ thiện
2.1.3. Trẻ N.V.T sinh năm 2006, theo các thầy cô giáo ở làng Hữu Nghị Việt Nam


Trung tâm An Phúc Thành là trung tâm chuyên hỗ trợ can thiệp trẻ
chậm nói, trẻ có rối nhiễu hành vi và trẻ KTTT. Hiện tại trung tâm đang
triển khai các hướng trợ giúp: trợ giúp các cháu tại trung tâm, trung tâm
đang ưu tiên cho những cháu nặng, những cháu ở xa và những cháu có
hoàn cảnh đặc biệt.
Trẻ N.V.N sinh năm 2007, trẻ bị KTTT nhẹ bẩm sinh nhưng không rõ
nguyên nhân. Trẻ khá cởi mở và dễ tiếp cận nhưng hơi nghịch ngợm. Giáo
viên tại trung tâm An Phúc Thành đã cung cấp vốn từ cho trẻ qua các môn
học, đồng thời thường xuyên tạo điều kiện để trẻ có cơ hội giao tiếp với các
bạn trong lớp.
2.2.1. Thời gian và tiến trình khảo sát
Chúng tôi thực hiện khảo sát 3 trẻ tại 3 cơ sở trong thời gian 4 tháng
(từ tháng 10/2011 – 2/2012) với tiến trình như sau:
Trước khi tới các cơ sở để khảo sát thực tế, chúng tôi đã tham khảo
một số tài liệu và xây dựng bộ công cụ khảo sát khả năng ngôn ngữ cho trẻ
KTTT (5- 6 tuổi
Các thông tin thu được sau quá trình khảo sát được chúng tôi xử lí

theo phương pháp định tính và định lượng. Những thông tin này được khái
quát hóa thành những kết luận về khả năng ngôn ngữ của trẻ KTTT.
2.2.2. Công cụ khảo sát
Ở Việt Nam hiện nay chưa có bộ công cụ chuẩn hóa để đánh giá khả
năng ngôn ngữ của trẻ KTTT. Dựa vào đặc điểm phát triển ngôn ngữ nói
của trẻ từ 0 – 6 tuổi chúng tôi xây dựng các bài tập đánh giá khả năng ngôn
ngữ của trẻ với 10 mức độ, cụ thể từng mức độ như sau:
Mức 1: Ở mức độ thấp nhất này, chúng tôi yêu cầu trẻ trong một tình
huống nhất định, ở một hoàn cảnh cụ thể trẻ có thể hiểu và có những phản
ứng đáp lại đúng.


Ở mức độ này trẻ nói được những từ giao tiếp đơn giản có một đến hai
tiếng như: mama, bà, ạ, chào cô, cám ơn, xin lỗi…
Mức 2: Ở mức độ này, chúng tôi yêu cầu trẻ chỉ đúng những người
thân được nhắc đến như: bố, mẹ, ông, bà, thầy/cô giáo đang dạy trẻ, thầy/cô
hiệu trưởng hoặc giám đốc trung tâm, một số bạn cùng lớp…
Mức 3: Trẻ hiểu được một số bộ phận của cơ thể, thể hiện qua việc trẻ
chỉ đúng các bộ phận như: mắt, mũi, tai, bụng, lưng, cổ, chân, tay, khửu
tay, gót chân… trên cơ thể mình và người khác.
Mức 4: Mức độ này yêu cầu trẻ hiểu được tên đồ vật, con vật, cây
cối...
Mức độ này yêu cầu trẻ gọi được tên một số đồ vật, con vật, cây cối,
hoa quả…
2.2.3. Cách đánh giá
Cách đánh giá của chúng tôi như sau:
Mỗi bài tập trẻ làm đúng không cần gợi ý: 2 điểm
Mỗi bài tập trẻ làm đúng khi được gợi ý (gợi ý tối đa 3 lần): 1 điểm
Mỗi bài tập trẻ không thực hiện được sau 3 lần gợi ý: 0 điểm
Như vậy, với mỗi mức độ trẻ làm đúng sẽ có 10 điểm. Chúng tôi tiếp

tục phân loại khả năng ngôn ngữ của các em dựa vào số điểm các em đạt
được với thang đánh giá:
Giỏi: 9 – 10 điểm
Khá: 7 – 8 điểm
Trung bình: 5 – 6 điểm
Kém: dưới 5 điểm
2.3. Kết quả khảo sát khả năng ngôn ngữ của trẻ KTTT
2.3.1. Khả năng hiểu ngôn ngữ của trẻ KTTT


Sau khi khảo sát khả năng hiểu ngôn ngữ của 3 trẻ (N.T.T. N.V.T và
N.V.N) tại 3 cơ sở, chúng tôi có kết quả cụ thể ở từng mức độ như sau:


Nội dung bài tập

Mức
độ
Mức
1

Điểm của trẻ
N.T.T N.V.T N.V.N

1. Trẻ vẫy tay khi có người nói “tạm
biệt”

8

7


9

8

5

9

7

6

8

7

5

8

2. Trẻ biết chạy lại khi ai đó gọi “lại
đây”
3. Trẻ biết xếp đồ chơi đúng chỗ
4. Trẻ biết để giầy, dép đúng chỗ
5. Trẻ biết nhận diện đúng đồ dùng của
Mức
2

mình

Trẻ chỉ đúng khi tên của những người
thân
được nhắc tới
1. Bố, mẹ, ông, bà
2. Các bạn cùng lớp
3. Thầy/cô giáo dạy trẻ
4. Thầy/cô hiệu trưởng hoặc giám đốc
trung tâm

Mức
3

5. Người quen
Trẻ chỉ được các bộ phận trên cơ thể:
1. Chỉ được các bộ phận: mắt, mũi,
miệng, tai… trên cơ thể mình
2. Chỉ được các bộ phận: mắt, mũi,
miệng, tai... trên cơ thể người khác
3. Chỉ được các bộ phận: tay, bụng,
lưng, cổ… trên cơ thể mình.
4. Chỉ được các bộ phận: tay, bụng,
lưng, cổ… trên cơ thể người khác.
5. Chỉ được: gót chân, khuỷu tay,

Mức
4

khuỷu chân… trên cơ thể mình.
Trẻ làm đúng theo yêu cầu:
1. Nhặt đúng 5 bông hoa



2. Chỉ đúng 5 con vật
3. Chỉ đúng 5 đồ chơi
4. Chỉ đúng 5 đồ vật trong nhà
5. Chỉ đúng 5 phương tiện giao thông
Tổng
điểm

Từ bảng tổng kết số điểm của từng trẻ, chúng tôi tiếp tục phân tích khả
năng hiểu ngôn ngữ của trẻ qua từng bài tập:
Bài tập ở mức 1: Ở mức độ này, chúng tôi quan sát xem trẻ có thực
hiện được những tình huống trong bài tập chúng tôi đưa ra
Qua quan sát các em, chúng tôi thấy các em thực hiện khá tốt các bài
tập ở mức độ này. Trong đó N.V.N thực hiện tốt nhất, (với số điểm gần tối
đa, 9 điểm); trong 5 bài tập chúng tôi đưa ra, chỉ có bài tập 5 trẻ lấy nhầm
ba lô của bạn khác, nhưng khi được gợi ý trẻ đã nhận diện đúng.
Bài tập ở mức độ 2: Ở mức độ này N.V.N vẫn là trẻ thực hiện tốt nhất
các bài tập chúng tôi đưa ra khi trẻ chỉ đúng được bố, mẹ, ông, bà; 3 bạn
cùng lớp
N.T.T thực hiện tốt 4 bài tập đầu, bài tập 5 trẻ chưa chỉ đúng người
quen (cô hàng xóm hay sang chơi với trẻ).
Các bài tập ở mức độ này N.V.T lại thực hiện không tốt khi em chỉ
nhận diện đúng bố, mẹ, ông, bà và cô giáo đang dạy trẻ; 2 bạn cùng lớp khi
được gợi ý trẻ mới nhận diện đúng; cô hiệu trưởng và người quen trẻ chưa
nhận diện được.
Bài tập ở mức độ 3: Bài tập ở mức độ này, chúng tôi kiểm tra trẻ bằng
cách hỏi mắt, mũi, tai ... (tên trẻ, tên người khác) đâu? Nếu trẻ chưa chỉ
đúng chúng tôi gợi ý bằng cách vừa đặt câu hỏi đồng thời cầm tay trẻ chỉ
vào bộ phận đó trên cơ thể. Sau đó hỏi lại xem trẻ có chỉ đúng hay không.

Trẻ N.V.T thực hiện được 3 bài tập đầu, 2 bài cuối trẻ chưa thực hiện
được.


Bài tập ở mức độ 4: Tương tự những bài tập trên, ở những bài tập này
chúng tôi có sẵn những đồ vật bằng nhựa và yêu cầu trẻ nhặt đúng đồ vật
chúng tôi yêu cầu
Qua bảng tổng kết số điểm cũng như phân tích cụ thể khả năng hiểu
ngôn ngữ của từng trẻ qua từng bài tập, chúng tôi có biểu đồ thể hiện khả
năng hiểu ngôn ngữ của 3 trẻ như sau:
10
9
8

Điểm

7
6

N.T.T
N.V.N

5

N.V.T

4
3
2
1

0
1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

Mức độ

Biểu đồ 2.1. So sánh khả năng hiểu ngôn ngữ của 3 trẻ
Nhìn vào biểu đồ chúng ta thấy: nhìn chung ở 10 mức độ chúng tôi
đưa ra trẻ đều thực hiện được (ít hay nhiều) trong số các bài tập. Thấp nhất
là trẻ N.V.T chỉ đạt 1 điểm ở mức độ 10.
Cả 4 mức độ, không trẻ nào đạt điểm tối đa, cao nhất là trẻ N.V.N đạt
9 điểm ở 3 mức độ 1, 2 và 6.
Trẻ N.T.T: nhìn vào đường biểu diễn mức độ hiểu ngôn ngữ của trẻ ta

thấy, các mức độ hiểu ngôn ngữ của N.T.T không đồng đều. Trong 10 mức
độ, có 6 mức độ N.T.T đạt loại khá là mức 1, 2, 3, 4, 6, 7; có 2 mức trung


×