CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỂN
CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN PHẦN CÔNG
DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC Ở CÁC
TRUNG TÂM GIÁO DỤC
THƯỜNG XUYÊN CẤP HUYỆN
1
Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong dạy học môn gdcd phần “công dân với
đạo đức” ở các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp
huyện
Thảo luận nhóm
-Khái niệm nhóm
Nhóm (group) là tập hợp những cá thể lại với nhau theo
những nguyên tắc nhất định.
“Nhóm là một hiện tượng xã hội, một sự tập hợp của hai
hay trên hai người có sự tác động lẫn nhau.
Nhóm là một tập thể nhỏ được hình thành để thực hiện
một nhiệm vụ nhất định trong một thời gian xác định”[12].
Như vậy, khái niệm nhóm được hiểu dưới nhiều cách
khác nhau, song về cơ bản, “Nhóm là sự hợp tác giữa các cá
nhân với nhau trong công việc, giữ họ có sự tương tác và ảnh
hưởng lẫn nhau trong quá trình thực hiện hoạt động chung của
nhóm”[12,58]
Các hình thức chia nhóm
2
Hoạt động của con người thường là hoạt động của số
đông, từ đó hình thành các “nhóm”. Trong hoạt động dạy học
căn cứ vào mục tiêu, nội dung, mức độ khó dễ của các nhiệm
vụ học tập, trình độ của đối tượng học sinh có các hình thức
chia nhóm khác nhau.
+Hình thức chia nhóm ngẫu nhiên
Đây là cách chia nhóm cùng trình độ. Thường dựa vào
các trình độ: Giỏi, khá, trung bình và yếu để chia thành những
nhóm tương ứng.
Khi áp dụng hình thức chia nhóm này giáo viên cần phải
thận trọng. Bởi lẽ, muốn chia nhóm đúng trình độ của học
sinh, giáo viên phải nắm chắc trình độ của họ, nếu không nắm
chắc trình độ sẽ dẫn tới chia sai nhóm thì sẽ dẫn tới sự phản
tác dụng
+Chia nhóm gồm đủ trình độ
Cách chia nhóm này thường được sử dụng khi nội dung
hoạt động dạy học cần có sự hỗ trợ lẫn nhau. Trong cách chia
này cần xác định vai trò của nhóm trưởng là rất quan trọng
trong việc phân công nhiệm vụ cho các thành viên của nhóm.
3
+Chia nhóm theo sở trường
Trong các buổi học ngoại khóa thì cách chia nhóm này
thường được tiến hành.
Nhìn chung, có nhiều hình thức chia nhóm, mỗi hình thức
chia nhóm có đặc điểm và ưu điểm riêng. Vì vậy trước khi
quyết định chia nhóm giáo viên cần cân nhắc dựa vào mục tiêu
bài học, loại bài học, không gian và vị trí…..
Trong quá trình dạy học môn GDCD bằng phương pháp
TLN, theo chúng tôi hình thức chia nhóm phổ biến nhất vẫn
là cách chia nhóm ngẫu nhiên. Nhưng để chia nhóm ngẫu
nhiên hạn chế những nhược điểm của nó thì người giáo viên
cần phải chú ý đến hai vấn đề:
+ Một là, nhiệm vụ được giao cho mỗi nhóm phải có cả
các yêu cầu khó, rễ khác nhau.
+ Hai là, phải điều hành sao cho mọi thành viên của
nhóm đều phải tích cực hoạt động.
“Theo tác giả Nguyễn Đình Chỉnh trong cuốn Tâm lý
học quản lý (Nxb Giáo dục, 1998) quan niệm: “Nhóm không
đơn giản chỉ là một tập hợp nhiều người làm việc cùng nhau
4
hoặc làm việc dưới sự chỉ đạo của một nhà quản lý. Nhóm là
một tập hợp những cá nhân có các kỹ năng bổ sung cho nhau
và cùng cam kết chịu trách nhiệm thực hiện một mục tiêu
chung. Các thành viên trong nhóm tương tác với nhau và với
trưởng nhóm để đạt được mục tiêu chung. Các thành viên
trong nhóm phụ thuộc vào thông tin của nhau để thực hiện
phần việc của mình” [8; 52].
Tập hợp các cá nhân học sinh riêng lẻ sẽ trở thành một
nhóm khi và chỉ khi hội tụ đầy đủ các nhân tố sau
Sự tương tác: là sự tác động qua lại trực tiếp giữa các cá
nhân học sinh trong cùng một không gian và thời gian nhằm
thực hiện các nhiệm vụ chung. Phương tiện để thực hiện các
tương tác có thể là phương tiện lời nói hoặc không phải lời
nói. Nội dung của tương tác là nhiệm vụ học tập. Vì vậy, sự
tương tác diễn ra trong nhóm phải có mục đích, có tổ chức, có
sự phân công trách nhiệm và đặc biệt là phải diễn ra hai chiều.
Các qui định này là cơ sở để nhóm hoạt động có tổ chức,
có thể kiểm soát, điều khiển các thành viên làm việc theo mục
tiêu mà nhóm đã đề ra.
5
Vai trò của các thành viên trong nhóm: Căn cứ vào năng
lực hoạt động và trình độ của từng thành viên mà xác định vai
trò của từng thành viên trong nhóm. Hoạt động nhóm luôn gắn
với nhu cầu của từng thành viên trong nhóm và nhu cầu chung
của nhóm. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ này sẽ giúp nhóm
hoàn thành nhiệm vụ mọi nhiệm vụ đồng thời góp phần củng cố
và duy trì nhóm.
Từ các vấn đề trên, ta có thể hiểu về nhóm như sau:
“nhóm là một tập hợp người được xác định bởi các mối
quan hệ tương tác, cùng chia sẻ mục tiêu chung, tuân theo
một hệ thống quy tắc nhất định và đóng những vai trò khác
nhau. Một tập thể người không thể được coi như một nhóm
nếu họ không có mối quan hệ tương tác, đặc biệt là nếu họ
không cùng chia sẻ một mục tiêu chung”[12].
- Khái niệm thảo luận nhóm
Trong quá trình dạy học theo nhóm, thảo luận nhóm là
khâu cơ bản, chủ yếu, là giai đoạn quan trọng của toàn bộ quá
trình. “Thảo luận nhóm chính là sự bàn bạc, trao đổi ý kiến,
trình bày quan điểm mỗi cá nhân về một vấn đề học tập dưới
sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Thảo luận nhóm là một
6
hình thức dạy học phát huy tính sáng tạo, rèn luyện phương
pháp tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Thông qua phương
pháp dạy học thảo luận nhóm sẽ phát huy được tính tích cực,
sáng tạo làm cho học sinh thật sự là chủ thể, là trung tâm của
quá trình dạy học.Phương pháp thảo luận nhóm có chức năng
nhận thức hết sức quan trọng trong dạy học, phát huy tác dụng
của phương pháp thảo luận nhóm cần phải có hình thức chia
nhóm để tiến hành cho phù hợp. Có nhiều hình thức thảo luận
nhóm, hiệu quả của chúng tùy thuộc vào ý đồ và tính chất sử
dụng của người dạy”[11].
- Các hình thức thảo luận nhóm
Nói đến hình thức thảo luận nhóm thì Có rất nhiều hình
thức, nhưng tôi chỉ phân tích, liệt kê một số hình thức thảo
luận nhóm phổ biến hiện nay:
Nhóm nhỏ thông thường: Là hinh thức thảo luận một
vấn đề cụ thể được GV chia lớp học thành các nhóm nhỏ (3
đến 5 người).
Nhóm rì rầm: là hình thức chia lớp học thành các nhóm
“cực nhỏ”, khoảng 2 - 3 người . GV cần cung cấp, các gợi ý,
các dữ liệu cần thiết để HS có thể hoàn thành và nêu rõ yêu
7
cầu đối với câu trả lời để các thành viên tập trung vào giải
quyết. Để khắc phục “người ngoài cuộc” Việc chia lớp thành
những nhóm nhỏ hoặc nhóm “rì rầm” là biện pháp hiệu quả
nhất.
Nhóm kim tự tháp: Nhóm kim tự tháp là hình thức mở
rộng của nhóm rì rầm. Sau khi thảo luận theo cặp nhóm “rì
rầm” tập trung lại thành các cặp nhóm tổng hợp từ 4-6 người
để hoàn thành một vấn đề chung.
Nhóm đồng tâm (nhóm bể cá): GV chia lớp thành 2
nhóm trong 1 lớp học trong đó nhóm thảo luận, nhóm quan
sát sau khi làm việc xong thì đổi vị trí cho nhau. Nhóm nhỏ
hơn đóng vai trò trình bày nội dung , nhóm còn lại phản biện
và quan sát. Hình thức nhóm này có hiệu quả đối với việc làm
tăng ý thức trách nhiệm cá nhân trước tập thể tăng cường khả
năng quan sát và trình bài của mỗi cá nhân.
Nhóm khép kín và nhóm mở:
Nhóm khép kín là nhóm làm việc bởi nhiều thành viên
trong khoảng thời gian dài, thực hiện trọn vẹn một hoạt động
học tập, từ phần mở đầu tới phần kết luận.
8
Nhóm mở là nhóm tùy thuộc vào khả năng và sở thích
của bản thân mà các thành viên chọn nhóm này có thể tham
gia một hoặc vài giai đoạn phù hợp với khả năng và sở thích
của mình.
Như vậy, khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm,
người GV nên phân chia lớp học thành nhiều nhóm nhỏ khác
nhau và sử dụng nhiều hình thức chia nhóm biết vận dụng
nhiều hình thức thảo luận nhóm sẽ giúp được cho học sinh
hiểu nhiều. Muốn vận dụng phương pháp dạy học thảo luận
nhóm có hiệu quả GV cần có chọn lọc nhiều hình thức thảo
luận nhóm phù hợp với các tình huống trong quá trình dạy học,
đồng thời tích cực phối hợp tốt các hình thức thảo luận nhóm
với nhau.
Thông qua các hình thức thảo luận nhóm, kiến thức mà
học sinh thu được của môn học sẽ được củng cố, hiểu sâu, mở
rộng, biết phân tích, biết phê phán, lập luận dẫn chứng để bảo
vệ ý kiến của mình trước tập thể tránh thụ động.
Tóm lại, Mỗi hình thức có những khả năng nhất định của
mình và ưu điểm nổi trội. Tùy thuộc vào nội dung, nội dung
của bài học cũng như khả năng truyền tải thông tin và chia
9
nhóm mà quan trọng nhất của là người GV nên lựa cho mình
một hình thức thảo luận theo nhóm phù hợp .
Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp và phương pháp thảo luận nhóm
Khái niệm phương pháp
Thuật ngữ “phương pháp” xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ
“methodes” có nghĩa là con đường, cách thức để đạt tới mục
đích nhất định. Phương pháp là hình thức tự vận động bên
trong của nội dung, nó gắn liền với hoạt động của con người,
giúp con người hoàn thành được những nhiệm vụ phù hợp với
mục đích đề ra. Do vậy, phương pháp bao giờ cũng có tính
mục đích, tính cấu trúc và luôn gắn với nội dung.
Phương pháp không phải là những nguyên tắc có sẵn,
bất biến mà bao giờ cũng phụ thuộc vào đối tượng và nhiệm
vụ đặt ra. Chủ thể phải xuất phát từ đặc điểm của đối tượng để
lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Tức là phải nắm được
tính chất, chỉ tiêu, số lượng, chất lượng… từ đó nhận thức rõ
quy luật của đối tượng để sử dụng phương tiện, công cụ và
biện pháp thích hợp theo một trình tự nhất định. Điều này nói
10
lên mặt khách quan của phương pháp. Phương pháp là hình
thức tự vận động bên trong của nội dung, do nội dung quy
định.
Mặc dù phương pháp luôn có mặt khách quan, nhưng nó
lại được những cá nhân chủ thể nhận thức và sử dụng vào
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình. Mỗi cá
nhân lại có năng lực nhận thức, có kinh nghiệm thực tiễn rất
khác nhau nên việc vận dụng phương pháp cũng khác nhau.
Chính điều này làm cho phương pháp không những mang tính
khách quan mà còn mang tính chủ quan.
Trong quá trình dạy học, phương pháp tồn tại với tính
cách là một thành tố trong mối quan hệ tác động chặt chẽ với
các thành tố khác của một chỉnh thể trong quá trình dạy học.
Cho đến nay, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về phương
pháp dạy học:
Trong cuốn Từ điển triết học - Nxb Sự thật Hà Nội,
1976, các tác giả đã khẳng định “Phương pháp là cách thức đề
cập đến hiện thực, nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên, xã hội
và tư duy” [24]
11
Trong cuốn sách Triết học (tập 3) dùng cho cao học và
nghiên cứu sinh, tác giả cho rằng: “Phương pháp là hệ thống
những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách
quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm
thực hiện mục đích nhất định” [15; 29].
Tuy được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng nhìn
chung khi nói tới phương pháp các nhà khoa học đều cho rằng
phương pháp: là cách thức, con đường, là phương tiện chủ thể tác
động vào đối tượng nhằm đạt được mục đích đề ra.
*Khái niệm phương pháp thảo luận nhóm
“Trong cuốn “Học và dạy cách học” do GS. Nguyễn
Cảnh Toàn chủ biên, các tác giả quan niệm thảo luận là
phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ. Mặc dù không cắt
nghĩa một cách cụ thể nhưng các tác giả cho rằng dạy học
thảo luận nhóm là một phương pháp nhưng đồng thời là một
hình thức dạy học được mong đợi nhất trong các nhà trường
hiện nay, “là phương pháp mà chuyển một số việc kiểm tra
sang cho SV đảm nhiệm” [25; 23].
Trong cuốn “Giáo dục Đại học- phương pháp dạy và
học”, tác giả Lê Đức Ngọc cho rằng: “thảo luận nhóm là một
12
sự trao đổi ý tưởng, quan điểm, nhận thức giữa các học viên,
để làm rõ và làm giàu sự hiểu biết các nội dung phù hợp với
hoạt động đào tạo” [18; 43].
Theo tác giả Phan Trọng Ngọ: “Thảo luận nhóm là
phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành
những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được
làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến
chung của nhóm mình về vấn đề đó” [17; 223].
Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm
*Ưu điểm
+ Phương pháp thảo luận nhóm Giúp cho các thành viên
trong nhóm được thể hiện khả năng hiểu biết của mình, giúp HS
phát triển khả năng tư duy và diễn đạt (điều này đặc biệt có ích
với những em còn thụ động trong học tập).
+ Gắn chặt tính đoàn kết tăng khả năng tập trung lắng
nghe ý kiến của từng cá nhân tạo cơ hội cho mọi thành viên
trong nhóm học hỏi lẫn nhau, tập đánh giá ý kiến người khác
một cách độc lập.
13
+ Không còn ý kiến chủ quan chỉ biết bản thân mình,
phiến diện, ít kỷ tăng tính khách quan khoa học trong kiến
thức của HS.
+ Biết lắng nghe, có tương tác trong học tập, tăng năng
lực hợp tác, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tin cậy lẫn nhau, đạt
được kết quả tốt.
+ Kích thích thi đua giữa các thành viên trong nhóm.
+ Làm gắn kết mối quan hệ giáo viên với học sinh, học
sinh với học sinh, giáo viên phải thu thập thông tin phản hồi
từ học sinh để cải thiện hợp lí việc dạy của mình, việc tiếp thu
kiến thức của học sinh đồng thời tăng cường tình cảm giáo
viên với học sinh, giúp cho người dạy và người học hiểu nhau
hơn từ đó làm cho giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn...
Tuy nhiên, khi tìm hiểu thực trạng dạy học môn Giáo
dục công dân phần “Công dân với đạo đức”ở Trung tâm Giáo
dục Thường xuyên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, chúng
tôi nhận thấy, bên cạnh những điểm nổi bật, phương pháp
thảo luận nhóm cũng bộc lộ những hạn chế nhất định cần
được khắc phục.
14
Hạn chế
+ Về phía giáo viên: Khi vận dụng phương pháp thảo
luận nhóm, giáo viên còn hạn chế ở một số thao tác sau:
Một là, thao tác lựa chọn vấn đề thảo luận: Việc lựa
chọn vấn đề thảo luận chưa hấp dẫn nên chưa bộc lộc tính tích
cực của học sinh. Một số vấn đề thảo luận quá dễ hoặc quá
khó so với sự hiểu biết của học sinh.
Hai là, thao tác chia nhóm: Giáo viên chưa xác định
được số lượng học sinh trong một nhóm vì chưa xát định số
lượng nhóm trong một lớp. Từ đó, chia nhóm không đồng đều
có trường hợp chia nhóm nhiểu học sinh hoặc quá ít học sinh,
không phù hợp với vấn đề đưa ra thảo luận và đặc điểm của
lớp học.
Ba là, thao tác chọn nhóm trưởng: Thông thường nhóm
trưởng do giáo viên lựa chọn một học sinh có thành tích học
tập khá giỏi phụ trách mà không do nhóm tự bầu hoặc luân
chuyển giữa các thành viên trong nhóm mà do. Chính vì lẽ đó
làm cho các học sinh khác trong nhóm không có cơ hội thể
hiện sự hiểu biết của bản thân cũng như luyện năng lực quản
15
lý, khả năng trình bày vấn đề trước đám đông kìm hãm bản
thân.
Bốn là, thao tác giao nhiệm vụ: Học sinh không hiểu rõ
nhiệm vụ của nhóm là cần phải làm gì, trong thời gian bao
lâu, cách thức thực hiện như thế nào vì giáo viên chưa nhiệm
vụ chưa rõ ràng, cụ thể.
Năm là, thao tác quan sát, hỗ trợ học sinh khi thảo luận:
Do tình trạng học sinh các lớp đều có số lượng học sinh khá
đông (khoảng 40 em). Do giáo viên thường ngồi tại chỗ
không quan sát sau khi giao nhiệm vụ cho từng nhóm, để học
sinh tự biên tự diễn, nên tình trạng có học sinh làm việc riêng,
nói chuyện trong thời gian thảo luận không quan tâm đến
phần thảo luận
Sáu là, thao tác tổng kết. Thảo luận xong sau đó viết đáp
án trả lời ra giấy, nhóm trưởng thay mặt các thành viên còn lại
trình bài kết quả thảo luận trước lớp hoặc viết lên bảng. Giáo
viên gọi học sinh khác phát biểu nhận xét, bổ sung những
thiếu sót từ đó đua ra kết luận cụ thể. Thao tác này được lặp đi
lặp lại nhiều lần khá đơn điệu, nhàm chán.
+Về phía HS
16
Do học sinh có phần bị động trong quá trình thảo luận
trên lớp vì học sinh hầu như không được giao nhiệm vụ về
nhà chuẩn bị trước cho. Mặt khác, nếu được giao nhiệm vụ
trước thì HS cũng không chuẩn bị, hoặc chuẩn bị mang tính
đối phó.
Hiện tượng độc diễn cá nhân bên cạnh “người chầu
rìa”,“người ngoài cuộc” . Có em biến hoạt động thảo luận
nhóm thành cơ hội để nói chuyện riêng,làm việc riêng lãng
phí thời gian HS không nhận biết được sự cần thiết phải hợp
tác để chiếm lĩnh tri thức, giúp cho bản thân rèn luyện khả
năng thể hiện bản thân hơn .
Câu trả lời của HS thiếu sự sáng tạo, thường lặp lại
những vấn đề trong giáo trình.
Với những chủ đề có nội dung phong phú, hấp dẫn HS
dễ đi chệch hướng, do theo đuổi ý tưởng riêng.
Thảo luận nhóm ảnh hưởng tới lớp khác thường gây ồn
ào do trao đổi thảo luận để tìm ra kết quả .
Đặc trưng và quy trình phương pháp thảo luận nhóm
Đặc trưng của phương pháp thảo luận nhóm
17
Phương pháp dạy học thảo luận nhóm không những đáp
ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy - học hiện nay mà còn
rất có ý nghĩa đối với việc tự học của mỗi HS. Thảo luận
nhóm là một cách học đòi hỏi mỗi thành viên trong nhóm
cùng thực hiện một cam kết làm việc nhất định dưới sự hướng
dẫn trực tiếp của GV và dựa trên sự hợp tác và phân công
công việc hợp lý của các thành viên trong nhóm.
Phương pháp thảo luận nhóm có những đặc trưng cơ bản
sau:
- Mọi thành viên trong nhóm đều hướng đến mục tiêu
chung nhất định
- Giữa các thành viên Có sự phụ thuộc lẫn nhau
- Có trách nhiệm, lợi ích liên đới trong sản phẩm nhóm.
Nếu được tổ chức và điều khiển một cách khoa học và
hợp lý thì thảo luận nhóm sẽ đem lại rất nhiều lợi ích Cụ thể:
- Làm việc theo nhóm sẽ góp phần xây dựng tinh thần
đồng đội, mối quan hệ tương hỗ giữa các thành viên trong
nhóm đồng thời tạo nên sự gắn kết trong một tập thể nhằm
hướng đến một mục tiêu chung cần giải quyết. Trong quá
18
trình làm việc nhóm, mỗi cá nhân đòi hỏi phải có sự tập trung
và có cùng sự hiểu biết vì các mâu thuẫn sẽ nảy sinh để có thể
cùng nhau giải quyết vấn đề.
- Thảo luận nhóm, phù hợp với việc học hướng tới người
học; khuyến khích tính độc lập tự chủ trong học tập sẽ đáp
ứng nhu cầu học tập cá nhân . Nếu trong phương pháp thuyết
trình cơ hội cho người học trao đổi với nhau rất ít thì thảo
luận nhóm mọi thành viên được tự do phát biểu quan điểm
của mình về chủ đề thảo luận, từ đó phát triển tư duy độc lập
và trao đổi lẫn nhau trong nhóm.
- Thảo luận nhóm luôn có sự tranh luận và bàn bạc, để
tìm ra kết quả dựa trên những nguồn thông tin mà thành viên
trong nhóm tìm hiểu. Vì vậy sản phẩm của nhóm được tập
hợp sự sáng tạo của nhiều người nên sẽ rất phong phú, đa
dạng và giàu tính sáng tạo, trí tuệ tập thể,. Từ đó giúp các
thành viên hiểu và nhớ kiến thức lâu hơn.
- Thảo luận nhóm sẽ tăng khả năng hòa nhập, có thêm
tinh thần học hỏi, biết lắng nghe người khác cũng như khả
năng phản biện thông qua phần trình bày của mình và sự phản
hồi của những người xung quanh.
19
- Thảo luận nhóm sẽ tạo cơ hội cho mọi thành viên rèn
luyện các kỹ năng như: kỹ năng thuyết trình trước đám
đông, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức… Đây là những kỹ
năng rất quan trọng, cần thiết cho quá trình làm việc sau
này, vì vậy đây sẽ là tiền đề để ta biết cách làm việc trong
môi trường tập thể.
Quy trình của phương pháp thảo luận nhóm
Dựa trên cơ sở thực nghiệm vận dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục công phần “Công dân
với đạo đức” ở Trung tâm Giáo dục Thường xuyên, huyện An
Biên, tỉnh Kiên Giang, chúng tôi thực hiện được quy trình
thực hiện phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn
học này như sau:
Bước 1: Lên kế hoạch thảo luận
Đối với GV: dựa vào nội dung, mục đích, yêu cầu, của
bài học giáo viên lên kế hoạch thảo luận. Kế hoạch chuẩn bị
thảo luận gồm các bước sau:
Bước 1: Cần xác định mục tiêu bài học
Bước 2: Xây dựng và thiết kế nội dung bài học
20
Bước 3: Cần lựa chọn các PP và phương tiện dạy học.
Đối với HS:
` Bước 1: Xác định nhiệm vụ học tập của bản thân
Bước 2: Tham khảo sách giáo khoa, tài liệu
Bước 3: Lựa chọn phương pháp học tập phù hợp.
Bước 2: Tổ chức thảo luận nhóm:
Hoạt động của giáo viên:
Bước 1: Phân chia nhóm và giao nhiệm vụ cho từng
nhóm.
Bước 2: Tham gia thảo luận. Trong thời gian học sinh
thảo luận thì giáo viên cần quan sát các hoạt động của học
sinh để kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ học sinh khi cần thiết.
Hoạt động của học sinh:
Bước 1: Tham gia nhóm và tiếp nhận các nhiệm vụ mà
giáo viên giao cho nhóm.
21
Bước 2: Tiến hành thảo luận, bàn bạc trao đổi ý kiến với
mỗi thành viên cùng nhóm để giải quyết các nhiệm vụ học tập
của nhóm.
Bước 3: Kết thúc thảo luận:
Bước 1: Người đại diện từng nhóm sẽ lên trình bày kết
quả thảo luận của nhóm.
Bước 2: Nhóm còn lại nhận xét và đặt câu hỏi cho nhóm
trình bày trả lời.
Bước 3: Giáo viên nhận xét đối với nhóm báo cáo, hệ
thống lại những ý chính và làm rõ các điểm có nhiều ý kiến
khác nhau. Sau đó giáo viên kết luận và đưa ra nội dung kiến
thức chuẩn xác từ các vấn đề thảo luận để học sinh ghi nhớ,
ghi chép vào tập.
Bước 4: Nhận xét chung tình hình, giáo viên cần đánh
giá, những mặt đạt được hoặc chưa đạt được, khen thưởng,
biểu dương các cá nhân, nhóm làm việc tích cực, nhắc nhở,
động viên các nhóm, các cá nhân làm việc chưa có hiệu quả
Quy trình gồm có 3 bước ở phương pháp thảo luận nhóm
Cho ta được đầy đủ các bước lên lớp của một tiết học.Giáo
22
viên có thể bỏ qua một số giai đoạn nào đó không thật sự cần
thiết, tùy vào khả năng cụ thể của lớp đó, có thể kết hợp với
với các phương pháp khác để việc dạy cũng như việc học đạt
được kết quả tốt.
Một số yêu cầu khi sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm
Một là, Giáo viên chia nội dung bài giảng thành những
vấn đề nhỏ, vấn đề đó xem là một chủ đề thảo luận.
Hai là, một lớp học được chia thành nhiều nhóm nhỏ, sử
dụng tốt các phương pháp thảo luận nhóm sao cho phù hợp với
từng vấn đề thảo luận.
Ba là, Cử nhóm trưởng, thư kí của từng nhóm để ghi
chép và tổng hợp ý kiến của từng thành viên.
Bốn là, Mỗi nhóm một chủ đề riêng mà giáo viên cần
giao cho, vì thế, cùng một thời điểm, một chủ đề riêng có thể
các nhóm sẽ phát huy khả năng hiểu biết cũng như sáng tạo
của mình dẫn đến thảo luận được nhiều vấn đề khác nhau.
23
Năm là,Sau khi hoàn thành nội dung được giao sau đó
nhóm sẽ nói về vấn đề đó bằng cách trình bày trước lớp để các
nhóm khác có thể có nhận xét.
Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo dục
công dân phần “Công dân với đạo đức” ở các Trung tâm
Giáo dục Thường xuyên huyện
Vai trò của việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn Giáo dục công dân phần “Công dân với
đạo đức”
Phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn Giáo
dục công dân sẽ góp phần phát huy tính chủ động, tự lự, tích
cực của học sinh
Phát triển năng lực cộng tác làm việc của học sinh: học
sinh được luyện tập kỹ năng hợp tác, làm việc với tinh thần
đồng đội, các thành viên có sự quan tâm chia sẽ trong cách
sống.....
Rèn luyện khả năng ngôn ngữ thông qua cộng tác làm
việc trong nhóm, phát triển năng lực giao tiếp ,giúp cho học
24
sinh có điều kiện trao đồi, học hỏi , biết lắng nghe, chấp nhận
những yếu điểm, phê phán ý kiến người khác.
Ngoài ra, các em biết đưa ra những lí luận để bảo vệ những
ý kiến của mình.
Vì học sinh học tập theo hình thức hợp tác và qua giao
tiếp xã hội - lớp học, giúp cho học sinh có sự tự tin trong học
tập, cho nên các em sẽ mạnh dạn và không sợ mắc phải những
sai lầm.
Quá trình tự lực giải quyết các vấn đề bài học, giúp các
em hình thành dần phương pháp nghiên cứu khoa học. Hình
thành phương pháp nghiên khoa học cho học sinh: thông qua
thảo luận nhóm.
Hiệu quả trong học tập: Hình thành khả năng sáng tạo
thông qua tư duy của mỗi học sinh có thể nắm bài ngay trên
lớp. Khích thích sự tìm tòi ham học hỏi học sinh tìm kiếm
những nguồn tri thức mới có liên quan đến vấn đề thảo luận
trong quá trình áp dụng phương pháp này. Dựa trên nền tản
đó, học sinh sẽ tích góp thêm kiến thức cho mình thông qua
quá trình tìm kiếm tri thức.
25