Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

CƠ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN của PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM TRONG dạy học môn GIÁO dục CÔNG dân lớp 10 PHẦN CÔNG dân với đạo đức ở TRƯỜNG THPT NGUYỄN DU TỈNH PHÚ yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.49 KB, 36 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN CỦA PHƯƠNG PHÁP
THẢO LUẬN NHÓM TRONG
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 10 PHẦN
CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC Ở
TRƯỜNG THPT NGUYỄN DU
TỈNH PHÚ YÊN


Cơ sở lý luận của phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học môn GDCD lớp 10 phần “Công dân với đạo
đức” ở trường THPT Nguyễn Du tỉnh Phú Yên.
Quan niệm về phương pháp và phương pháp dạy học
Quan niệm về phương pháp
Trong một thế giới đang biến động từng giây bởi sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, nhà tương lai học
Thiery Gaudin đã đưa ra một thông điệp khẩn thiết: Hãy học
phương pháp chứ đừng học dữ liệu! Vậy, phương pháp là gì?
“Phương pháp là một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hi
Lạp “Methodos” nghĩa là “Con đường nghiên cứu”; “Cách
thức nhận thức” nguyên văn là con đường đi tới một cái gì đó,
có nghĩa là cách thức đạt tới mục đích [13, 9 ].
“Phương pháp được hiểu là hệ thống những quy tắc,
nguyên tắc, quy phạm dùng để chỉ đạo kĩ thuật; là tổ hợp các
bước đi, là quy trình mà trí tuệ phải đi theo để tìm ra và chứng
minh chân lí. Phương pháp còn được hiểu theo nghĩa là kế
hoạch được tổ chức hợp lí trong quản lí” [13, 9]…
Theo định nghĩa chung nhất “phương pháp là cách thức,



con đường, phương tiện để đạt tới mục đích nhất định để giải
quyết những nhiệm vụ nhất định trong nhận thức và thực
tiễn”.[13, 9].
“Phương pháp với tư cách là con đường, là phương tiện
để thu lượm những kết quả nhất định trong nhận thức và trong
thực hành bao gồm hai mặt: Mặt khách quan và mặt chủ
quan”[13, 15].
“Phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý
thức của con người giúp con người nhận thức được hiện thực
khách quan, nhận thức được thực tiễn mà hiện thực khách
quan và thực tiễn được vận động theo những quy luật khách
quan của bản thân và chịu sự tác động hợp quy luật của thế
giới xung quanh” .[12, 10].
Do đó, “phương pháp là một trong những yếu tố quyết
định thành công hay thất bại trong hoạt động nhận thức và cải
tạo thực tiễn của con người. Không có phương pháp con
người sẽ hành động không có kết quả thậm chí phạm sai lầm,
thất bại, đúng như R.Đềcác - nhà duy vật Pháp thế kỷ 18 khẳng định thiếu phương pháp thì người tài cũng có thể không
đạt kết quả, có phương pháp thì người tầm thường cũng làm


việc phi thường”[13, 10].
- Quan niệm về phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là những cách thức làm việc giữa
thầy, cô giáo và học sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững được
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo hình thành được thế giới quan và
năng lực.
Như vậy có thể nói: “Trong giáo dục nói chung, dạy học
nói riêng còn rất cần có phương pháp. Phải giúp người học
học bằng sự nỗ lực của bản thân dưới sự hướng dẫn của giáo

viên chiếm lĩnh được kiến thức bằng con đường ngắn nhất.
Vì thế, kết quả giáo dục cũng như dạy học trong nhà trường
không chỉ đánh giá ở mặt nội dung mà ở cả mặt phương
pháp” [13, 10].
Trong thực tiễn, căn cứ vào các cấp độ của quá trình dạy
học, khái niệm phương pháp dạy học là khái niệm đa cấp độ.
Cấp độ rộng nhất: “Phương pháp dạy học là những quan
điểm, tư tưởng về tổ chức dạy học, là cách thức triển khai của
một hệ thống dạy học đa tầng, đa diện cho một bậc học, cấp
học, ngành học, phương thức học…[13, 12].


Cấp độ thứ 2: “Phương pháp dạy học là chiến lược và
mô hình dạy học, là cách thức triển khai một quá trình dạy
học cụ thể, diễn ra theo một quá trình, trong một không gian
thời gian nhất định và được cấu trúc bởi mục tiêu, nội dung
dạy học. Các hoạt động dạy - học và kết quả dạy học. Tức là
cách thức hình thành mục tiêu dạy học, cách thức soạn thảo
và triển khai nội dung dạy học,cách thức tổ chức hoạt động
dạy và hoạt động học, cách thức kiểm tra và đánh giá kết quả
của quá trình dạy học nhằm thực hiện hóa mục tiêu, nội dung
dạy học”[13, 12].
Cấp độ thứ 3: “Phương pháp dạy học là những phương
pháp cụ thể, là cách thức tiến hành các hoạt động của người
dạy và người học nhằm thực hiện một nội dung dạy học đã
được xác định” [13, 12].
Những cấp độ đó cho thấy “phương pháp dạy học không
phải là một thực thể độc lập mục đích tự thân, mà phương
pháp dạy học chỉ là hình thức vận động của một hoạt động
đặc thù: Hoạt động dạy học”[13, 12].

Cho đến nay, phương pháp vẫn là một vấn đề sư phạm
có nhiều quan điểm, chưa có sự thống nhất về định nghĩa,


khái niệm. Tuy nhiên, các quan niệm đó đều thừa nhận
phương pháp dạy học có những đặc trưng sau:
“Phương pháp dạy học phản ánh sự vận động của quá
trình nhận thức của người học nhằm đạt được mục đích học
tập”[13, 13].
“Phương pháp phản ánh cách thức hoạt động, tương tác,
sự trao đổi thông tin (truyền đạt và lĩnh hội) giữa người dạy
và người học”[13, 13].
“Phương pháp dạy học phản ánh cách thức tổ chức, điều
khiển hoạt động nhận thức của người dạy như: kích thích và
xây dựng động cơ, tổ chức các hoạt động nhận thức và kiểm
tra - đánh giá kết quả nhận thức của người học… ”[13, 13].
“Phương pháp còn phản ánh cách thức tự tổ chức, tự
điều khiển, tự kiểm tra đánh giá của người học”[13, 13].
Do đó, “Phương pháp dạy học được hiểu là cách thức
hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên và học sinh
nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và nhiệm vụ dạy học” [13,
13].
Phương pháp dạy học môn GDCD


“Phương pháp dạy học GDCD là một khoa học, thuộc
chuyên ngành khoa học giáo dục, một bộ phận của lí luận dạy
học” [13, 18].
Ngay từ khi mới xuất hiện, con người đã có những hiểu
biết về thế giới xung quanh nhưng phải đến khi công cụ lao

được cải tiến, sản xuất được đẩy mạnh, xã hội phân chia thành
giai cấp thì khoa học mới ra đời. Khoa học là một bộ phận của
hình thái ý thức xã hội, được xây dựng trên cơ sở nhận thức
hiện thực khách quan, là sự tổng kết những hiểu biết kinh
nghiệm của con người trong lao động sản xuất và trong quan
hệ xã hội nhưng đã đạt đến trình độ đi sâu vào bản chất sự
vật, qui luật vận động của sự vật và đạt đến chân lí; nghĩa là
đạt đến trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa cao. Khoa học
được hiểu là hệ thống những tri thức về mọi qui luật của vận
động và sự vận động của vật chất, những qui định của tự
nhiên, xã hội và tư duy.
Với tư cách là một khoa học, phương pháp dạy học
GDCD được xem là một bộ phận của khoa học giáo dục, là
một hệ thống lí thuyết và kĩ năng cơ bản để tổ chức quá trình
dạy học môn GDCD ở trường trung học phổ thông.


“Dạy học môn GDCD là quá trình chuyển giao thông tin
khoa học của bộ môn giữa thầy giáo và học sinh, nó bao gồm
hai quá trình: quá trình xử lí thông tin và chuyển giao thông
khoa học của thầy giáo và quá trình tiếp nhận, xử lí thông tin
đó của học sinh. Hai quá trình này tác động qua lại với nhau,
bổ sung lẫn nhau, tạo điều kiện tốt cho nhau để hoàn thành
toàn bộ quá trình dạy học. Trong sự tác động đó sẽ bộc lộ
những quy luật của quá trình dạy học môn GDCD” [13, 20].
Do đó, những giáo viên dạy học môn GDCD phải đạt đến
trình độ khái quát những kinh nghiệm phong phú của thực
tiễn, phải phát hiện quy luật của quá trình dạy học môn
GDCD, làm cơ sở khoa học cho việc xác định phương pháp
dạy học có hiệu quả, phù hợp với nội dung, đặc thù tri thức

môn học, tâm lí lứa tuổi và mục tiêu nhà trường Việt Nam.
Từ đó cho thấy “phương pháp dạy học GDCD là cách
thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên và học sinh
nhằm phát hiện những quy luật của quá trình dạy học môn
GDCD xây dựng hệ thống các nguyên tắc, hình thức và
phương pháp dạy học cụ thể để tổ chức thành công các hoạt
động dạy học môn GDCD ở trường trung học phổ thông”[13,
20].


Phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
GDCD
Quan niệm về phương pháp thảo luận nhóm
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về phương pháp thảo
luận nhóm, nhưng trước tiên chúng ta tìm hiểu về nhóm và
thảo luận nhóm là gì. Có thể hiểu nhóm là một tổ chức có từ
hai người trở lên, trong đó các thành viên trong nhóm có sự
tương tác với nhau để hoàn thành mục đích đề ra. Còn thảo
luận nhóm là sự trao đổi những ý kiến của từng người trong
nhóm nhằm làm sáng tỏ một nhiệm vụ nào đó và đưa ra ý
kiến chung cả nhóm.
“Phương pháp thảo luận nhóm là sự phát triển của
phương pháp thảo luận trên lớp (Xêmina). Phương pháp này
hiện nay được sử dụng khá phổ biến ở tất cả các môn học
trong trường trung học phổ thông, trong đó có môn GDCD”
[13, 163].
Về thực chất, “phương pháp thảo luận nhóm là phương
pháp dạy học trong đó nhóm lớn (lớp học) được chia thành
các nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm



việc, được bàn bạc trao đổi về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý
kiến chung của nhóm mình về vần đề đó” [13, 163].
Mục đích của “thảo luận nhóm là làm tăng tối đa cơ hội
để học sinh được làm việc và thể hiện khả năng của mình,
được chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một
vấn đề có liên quan đến nội dung bài học”[13, 163].
“Đây là phương pháp hợp quy luật tâm lí của con người.
Mọi cá nhân từ nhỏ đến lớn đều có xu hướng thích sinh hoạt,
quan hệ và làm việc trong các nhóm nhỏ. Ở đó cá nhân không
những được thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, có cảm giác an toàn
mà còn xuất hiện những hứng khởi làm tăng thêm hiệu suất
làm việc do sự phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực và trách
nhiệm phải giải thích vấn đề thuộc từng cá nhân trong nhóm,
hình thành kĩ năng hợp tác nhóm và kĩ năng xử lí tình huống
trong nhóm” [13, 163].
Các hình thức thảo luận nhóm
Phương pháp thảo luận nhóm là một trong những
phương pháp có sự tham gia tích cực của học sinh. Thảo luận
nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá
nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt


bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành
quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết
vấn đề khó khăn. Thảo luận nhóm có thể thực hiện dưới các
hình thức sau đây:
Nhóm nhỏ thông thường: “Giáo viên chia lớp học thành
các nhóm nhỏ (từ 5 - 7 học sinh) để thảo luận một vấn đề cụ
thể và nhanh chóng đưa ra kết luận tập thể về vấn đề đó. Hình

thức này thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp
dạy học khác trong một bài học, một tiết học, nội dung thảo
luận của nhóm nhỏ thông thường là các vấn đề ngắn, thời
lượng ít (từ 10 - 15 phút)” [13, 164].
Nhóm nhỏ rì rầm: “Giáo viên chia lớp thành các nhóm
“cực nhỏ” từ 2 -3 học sinh (thường là cùng một bàn) để trao
đổi (rì rầm) và thống nhất trả lời một câu hỏi, giải quyết một
vấn đề, nêu một ý tưởng, một thái độ…Để nhóm rì rầm có
hiệu quả. Giáo viên cần cung cấp đầy đủ, chính xác các dữ
kiện, gợi ý và nêu rõ yêu cầu đối với các câu trả lời để các
thành viên tập trung vào giải quyết” [13, 164].
Nhóm kim tự tháp: “Đây là hình thức mở rộng của nhóm
rì rầm, sau khi thảo luận theo cặp (nhóm rì rầm) các cặp (2 - 3


nhóm rì rầm) kết hợp thành một nhóm để hoàn thiện một vấn
đề chung. Nếu cần thiết có thể kết hợp nhóm này thành nhóm
khác lớn hơn (8 -16 học sinh)”[13, 164].
Nhóm đồng tâm: “Giáo viên chia lớp thành hai nhóm:
Nhóm thảo luận và nhóm quan sát (sau đó hoán vị cho nhau).
Nhóm thảo luận là nhóm nhỏ (6 - 8 học sinh) có nhiệm vụ
thảo luận, trình bày vấn đề được giao, còn lại các thành viên
khác trong lớp đóng vai trò là người quan sát, phản biện. Hình
thức nhóm này rất có hiệu quả đối với việc dạy học các nội
dung tri thức có tính khái quát, trừu tượng của môn GDCD,
nó làm tăng ý thức trách nhiệm của cá nhân học sinh trước tập
thể và tạo động cơ cho những học sinh ngại trình bày ý tưởng
của mình trước tập thể.”[13, 164].
Ưu điểm và hạn chế của phương pháp thảo luận
nhóm

Ưu điểm:
Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo sự
đoàn kết, hợp tác giữa các thành viên trong nhóm và mở rộng
giao lưu với các học sinh khác, góp phần tích cực trong quá
trình xây dựng nội dung bài học.


Giáo viên rèn luyện dần phương pháp học tập, nghiên
cứu và thái độ học tập tập thể, trên cơ sở đó sẽ tạo điều kiện
tốt cho các em học tập cao hơn.
Rèn luyện vốn ngôn ngữ cho các em trong giao tiếp, kết
chặt tình bạn bè qua những lời nói sẻ chia, thông cảm và yêu
thương.
Giúp các em tự tin qua những lần thảo luận, thuyết trình,
đồng thời rèn luyện năng lực tư duy và phát hiện vấn đề.
Thảo luận nhóm là cơ hội tốt cho các em học tập, trao
đổi với nhau. Các em sẽ góp nhặt những kiến thức của nhau
mà hoàn chỉnh dần kiến thức của mình.
Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm, thảo luận nhóm cũng có
những nhược điểm cần phải khắc phục:
Thời gian học tập trên lớp bị bó hẹp ở tiết học (45 phút/
tiết), nên giáo viên sử dụng không khéo sẽ không cung cấp hết
nội dung bài học vì phương pháp này rất mất thời gian.


Do phải tập hợp học sinh thành những nhóm, giáo viên
không nói rõ cách chuẩn bị nhóm trước thì lớp học sẽ rối loạn
hoặc mất trật, bị lãng phí nhiều thời gian.
Nếu trình độ học sinh trong nhóm không đều nhau thì

những học sinh giỏi, khá sẽ lấn lướt những học sinh trung
bình, yếu. Các em trung bình, yếu sẽ không có những điều
kiện nói lên ý kiến riêng của mình. Từ đấy, các em sẽ mặc
cảm, bất mãn, lơ là và không chú ý vào buổi thảo luận.
Số lượng học sinh trong lớp quá đông (mỗi lớp
khoảng 45 học sinh) cũng gây những khó khăn cho việc
vận dụng thảo luân nhóm vào việc dạy và học.
Vai trò, vị trí của nội dung “Công dân với đạo đức”
trong chương trình GDCD lớp 10:
Phần “Công dân với đạo đức” là phần tổng kết, khái
quát lại những nội dung đạo đức mà học sinh đã đạt được ở
tiểu học và trung học cơ sở. Những chuẩn mực đạo đức học
sinh đã đạt được học ở các lớp đưới được nâng lên thành
những giá trị đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của con
người Việt Nam thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm


giúp học sinh giải quyết hợp lý, có hiệu quả các mối quan hệ
xã hội.
Ở phần này có vai trò quan trọng trong việc trang bị cho
học sinh những hiểu biết về các phạm trù cơ bản của đạo đức
học và trách nhiệm đạo đức của người công dân trong giai
đoạn hiện nay, giúp các em có sự hiểu biết sâu sắc và chính
xác hơn về các giá trị đạo đức trong xã hội và từ đó có cách
điều chỉnh, uốn nắn bản thân, có sự điều chỉnh hành vi và thái
độ phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội hiện đại.
Mặt khác, “Công dân với đạo đức” cũng cung cấp cho các
em những kiến thức về vai trò, vị trí của người công dân
trong mối quan hệ đối với gia đình và xã hội, nhiệm vụ của
người công dân đối với những vấn đề lớn của đất nước và

nhân loại để từ đó các em có ý thức được vai trò, nhiệm vụ
của mình và không ngừng phấn đấu, rèn luyện, trau dồi bản
thân để các nhân mình trở thành người công dân có ích cho
xã hội góp phần xây dựng con người Việt Nam XHCN mới,
tiến bộ, hiện đại.
Cơ sở thực tiễn của việc Sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong dạy học môn GDCD lớp 10 phần "Công


dân với đạo đức" ở trường THPT Nguyễn Du tỉnh Phú
Yên.
Vài nét về trường THPT Nguyễn Du tỉnh Phú Yên
Trường THPT Nguyễn Du được thành lập theo Quyết
định số 2963/2003/QĐ-UBND ngày 24/10/2003 của chủ tịch
UBND tỉnh Phú Yên.
Trường đóng trên địa bàn huyện Sông Hinh, là một
huyện miền núi của tỉnh Phú Yên, một trong 62 huyện nghèo
nhất nước, cách xa tỉnh lỵ khoảng 80km về hướng Tây Nam.
Sự ra đời của ngôi trường cấp 3 này đã đáp ứng được
nhu cầu, nguyện vọng chính đáng bấy lâu nay của cán bộ và
nhân dân về nhu cầu học tập ngày càng cao của học sinh
huyện miền núi Sông Hinh, đặc biệt là con em người dân tộc,
bởi trước đó chỉ có các em thuộc gia đình có đủ điều kiện
kinh tế thì mới có thể đến học tại trường THPT Phan Bội
Châu, huyện Sơn Hoà và một số em được xét tuyển về học tại
trường PTDT Nội trú tỉnh, số còn lại phải dừng lại ở bậc
THCS. Điều này cho thấy chủ trương đúng đắn, sự sáng suốt
của lãnh đạo các cấp, đặc biệt là lãnh đạo địa phương đối với
sự nghiệp trồng người; khẳng định đầu tư cho giáo dục là đầu



tư cho con người, vì sự tiến bộ và phát triển của con người và
xã hội.
Khi thành lập, trường có 142 em học sinh (chỉ khối 10)
và 09 cán bộ, giáo viên (đến nửa tháng 9/2003 trường được
bổ sung thêm 03 giáo viên). Cơ sở vật chất để giảng dạy và
làm việc tại khu trung tâm thị trấn Hai Riêng (trước khi
trường đặt trụ sở là khu nhà tole tạm bợ của Ban kinh tế
Huyện Sông Hinh). Đến nay toàn trường có gần 1560 học
sinh (3 khối lớp), 80 cán bộ, giáo viên, nhân viên; cơ sở vật
chất dần đáp ứng được nhu cầu dạy và học của nhà trường;
có khu ký túc xá và bếp ăn tập thể cho hơn 600 học sinh ở
xa về ở.
Trường đã có đầy đủ các tổ chức như Chi bộ đảng, Đoàn
Thanh niên, Công đoàn, Chi hội Chữ Thập đỏ, Chi hội
Khuyến học. Các tổ chức này hoạt động đồng bộ, đạt hiệu quả
và được các cấp công nhận Chi bộ trường luôn đạt “Trong
sạch vững mạnh”, Đoàn trường liên tục đạt Danh hiệu xuất
sắc, Công đoàn trường đạt danh hiệu vững mạnh xuất sắc; Hội
cấp trên khen thưởng Chi Hội chữ thập đỏ, Chi Hội Khuyến
học có nhiều đóng góp trong công tác Hội.


Trong thời gian qua, nhà trường đã nhận được sự quan
tâm và chỉ đạo sát sao của Sở GD&ĐT tỉnh Phú Yên, Huyện
ủy, HĐND&UBND, UBMTTQVN huyện cùng sự phối hợp
chặt chẽ của các cơ quan hữu quan, Ban Đại diện CMHS, lãnh
đạo UBND các xã, sự đoàn kết nhất trí cao của đội ngũ nên
nhà trường cũng đã đạt được những kết quả nhất định như:
chất lượng hai mặt giáo dục được nâng lên, tỷ lệ tốt nghiệp

THPT dần được cải thiện, đã có học sinh thi đỗ vào các
trường Đại học, Cao đẳng.
Mặc dù kết quả trên tuy còn rất khiêm tốn nhưng rất đổi
lớn lao đối với một ngôi trường ở miền núi cao, nơi thầy và
trò của trường phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử
thách kể cả những thiệt thòi về tinh thần và vật chất mà không
lấy gì bù đắp nổi. Thầy và trò nhà trường thực sự tự hào về
những thành quả đã đạt được qua 15 năm xây dựng và trưởng
thành, đồng thời ghi nhận những cống hiến, những nổ lực cả
những hy sinh thầm lặng không điều kiện của đội ngũ thầy cô
giáo, cán bộ, nhân viên của trường vì sự nghiệp giáo dục của
miền núi, của quê hương Sông Hinh.
Trong thời gian tới, nhà trường xác định sẽ phải tiếp tục
đối mặt với những khó khăn về nhiều mặt: Cơ sở vật chất,


trang thiết bị để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng
dạy, về đội ngũ, về chất lượng đầu vào, về việc quản lý các
em học sinh nội trú của các xã về học tại trường ... Tuy vậy
với sự nổ lực vượt khó vươn lên của thầy và trò, cùng những
nguồn lực có được. Trong những năm đến toàn trường quyết
tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đại hội lần thứ VIII của
huyện Sông Hinh đề ra “Đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào
tạo để nâng cao nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển”
mà Đảng và nhân dân huyện nhà giao phó.
Thực trạng sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong dạy học GDCD ở trường THPT Nguyễn Du tỉnh
Phú Yên
Đặc điểm môn GDCD lớp 10 phần “Công dân với
đạo đức” ở trường THPT

Trang bị cho học sinh cơ sở ban đầu về thế giới quan,
phương pháp luận trong cuộc sống.
Hình thành những giá trị đạo đức, tư tưởng, chính trị, lối
sống của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, nhằm giúp học sinh giải quyết hợp lý, có hiệu quả các
mối quan hệ xã hội.


Nội dung chương trình môn GDCD lớp 10 phần “ Công
dân với đạo đức” được sắp xếp thành 7 bài với thời lượng
phân phối như sau:
Bài 10 (1 tiết): Quan niệm về đạo đức
Bài 11 (2 tiết): Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học
Bài 12 (2 tiết): Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia
đình
Bài 13 (2 tiết): Công dân với cộng đồng
Bài 14 (2 tiết): Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc
Bài 15 (1 tiết): Công dân với một số vấn đề cấp thiết của
nhân loại
Bài 16 (1 tiết): Tự hoàn thiện bản thân
Đây là phần tri thức thuộc bộ môn Triết học và Đạo đức
học.
Đánh giá thực trạng:


Để có thêm cơ sở thực tiễn về phương pháp thảo luận
nhóm trong dạy học môn GDCD lớp 10 phần “Công dân với
đạo đức” tác giả đã tiến hành khảo sát ở trường THPT
Nguyễn Du tỉnh Phú Yên tập trung vào một số vấn đề sau:

Mục đích khảo sát
Tìm hiểu việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong quá trình dạy học môn GDCD ở trường THPT Nguyễn
Du tỉnh Phú Yên.
Tìm hiểu thực thực trạng sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong quá trình dạy học môn GDCD ở trường THPT
Nguyễn Du tỉnh Phú Yên
Nội dung khảo sát
+ Tìm hiểu việc sử dụng các phương pháp dạy học của
giáo viên
+ Nhận thức của giáo viên về sự cần thiết của việc sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm.
+ Nhận thức của học sinh về sự cần thiết của việc sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn GDCD


lớp 10 “phần công dân với đạo đức” ở trường THPT Nguyễn
Du tỉnh Phú Yên.
Đối tượng khảo sát-phương pháp khảo sát:
Giáo viên: Thầy cô giáo giảng dạy môn GDCD tại
trường THPT Nguyễn Du tỉnh Phú Yên.
Học sinh: Các em học sinh của 02 lớp 10A1 và 10A2
của trường THPT Nguyễn Du tỉnh Phú Yên.
Chúng tôi đã tiến hành điều tra với 03 giáo viên và 90
học sinh
Kết quả khảo sát:
Tổng hợp các số liệu thu được từ điều tra và chúng tôi
đưa ra nhận xét như sau:
+ Về phía giáo viên
Qua tìm hiểu việc sử dụng các phương pháp trong dạy

học của giáo viên bộ môn GDCD ở trường THPT Nguyễn Du,
tác giả đã khảo sát 3 giáo viên, kết quả thu được như sau:
- Kết quả khảo sát tìm hiểu việc sử dụng các phương
pháp dạy học của giáo viên


Rất

Ít sử

thường
Phương
S

Khôn

dụng

xuyên

pháp

g bao giờ

S

TT
sử dụng

S


%

ố GV

S



% ố

G

GV

V
1

Hỏi đáp

3

%

1

0

0


0

0

1

0

0

0

0

6

1

3

0

00
2

Thuyết

3

trình

3

00
Đàm

2

thoại
4

6.67
Thảo

1

luận nhóm
5

3.33
3

3.33

Trực

0

0

2


6.67

1

quan
6

6

3

0

0

2

6

3.33
Nêu

và

1

3

2


6.67
6

0

0


giải quyết vấn

3.33

đề
7

Dự án

0

6.67
0

1

3

2

3.33

8

Đóng vai

0

0

1

6
6.67

2

6
6.67

- Nhận thức của giáo viên về sự cần thiết của việc sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học môn
GDCD ở trường THPT Nguyễn Du cho học sinh ( phụ lục
1)
Mức độ

Số giáo viên

Tỷ lệ (%)

Cần thiết


0

0

Rất cần thiết

3

100

Không cần

0

0

thiết


Bình thường

0

0

Như vậy việc đổi mới PPDH vào môn học GDCD có sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm là 100% GV, đã nâng cao
chất lượng trong dạy học môn GDCD ở trường THPT Nguyễn
Du, tỉnh Phú Yên là rất cần thiết. Trong thực tế cho thấy một
số giáo viên lại ngại đổi mới PPDH theo hướng sử dụng

phương pháp thảo luận nhóm vào giảng dạy môn GDCD nói
chung và sử dựng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học
môn GDCD lớp 10 “phần công dân với đạo đức” nói riêng.
+ Về phía học sinh
Học sinh: Các em học sinh của 2 lớp 10A1, 10A2 của
trường THPT Nguyễn Du tỉnh Phú Yên.

- Nhận thức của học sinh về sự cần thiết của việc sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy môn GDCD.(
phụ lục 2)
Mức độ

Học sinh


×