Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

CHUYÊN ĐỀ: BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TOÁN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.67 KB, 32 trang )

Chuyên Đề:
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỔ CHỨC CÁC
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TOÁN THEO
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
HỌC SINH TIỂU HỌC

Giảng viên: Ths. Lê Như Thiện

Pleiku, tháng 7 – 2018


MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1
B. NỘI DUNG.......................................................................................................3
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO
VIÊN TIỂU HỌC...............................................................................................3
1.1 Năng lực giáo dục.....................................................................................4
1.1.1 Năng lực chẩn đoán:...........................................................................4
1.1.2 Năng lực sử dụng ngôn ngữ................................................................5
1.1.3 Năng lực cảm hóa học sinh.................................................................6
1.1.4 Năng lực đáp ứng................................................................................7
1.1.5 Năng lực đánh giá...............................................................................8
1.1.6 Năng lực thiết lập mối quan hệ:..........................................................8
1.2 Năng lực dạy học.......................................................................................9
1.2.1 Năng lực triển khai chương trình dạy học:.........................................9
1.2.2 Năng lực chuẩn bị kế hoạch dạy học................................................10
1.2.3 Kĩ năng tổ chức các hoạt động nhóm................................................11
1.2.4 Năng lực giải quyết các tình huống..................................................11
Chương 2: MỘT SỐ CÁCH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO NĂNG
LỰC DẠY HỌC TOÁN Ở TIỂU HỌC............................................................14
2.1 Một số cách tổ chức các hoạt động khởi động tiết học...........................14


2.1.1 Tổ chức hoạt động trò chơi...............................................................14
2.1.2 Đố vui...................................................................................................18
2.1.3 Kể chuyện.............................................................................................20
2.2 Một số cách tổ chức hoạt động dạy học kiến thức mới...........................21
2.2.1 Hoạt động giới thiệu bài mới............................................................21
2.2.2 Hoạt động hình thành kiến thức........................................................22
2.2.3 Hoạt động dạy học thực hành và luyện tập.......................................26
2.2.4 Tổ chức dạy học ứng dụng toán vào thực tiễn..................................26
C. KẾT LUẬN.....................................................................................................28
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................29



Chuyên đề: BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC TOÁN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
HỌC SINH TIỂU HỌC
ThS. Lê Như Thiện
Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã kí ban hành Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) với nội
dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi mới lần này là: Tạo chuyển
biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày
càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân
dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng

bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Mục tiêu giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định
hướng nghề nghiệp cho học sinh; Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú
trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng
lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng
sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. (Trích nghị quyết số 29NQ/TW).
Đối với cấp tiểu học mục tiêu định hướng hình thành cho học sinh các
phẩm chất và năng lực sau:
Về phẩm chất: Yêu gia đình, quê hương, đất nước; Nhân ái và khoan
dung; Trung thực tự trọng chí công vô tư; Tự lập, tự tin, tự chủ và có tinh thần
vượt khó; Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại và môi
trường tự nhiên; Thực hiện nghĩa vụ đạo đức, chấp hành kĩ luật, pháp luật.
Về các năng lực chung: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề,
năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lí, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng
lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngôn ngữ,
năng lực tính toán.
Năng lực dạy học của giáo viên là một trong những yếu tố quan trọng
nhất, tác động đến sự thành công hay thất bại của chương trình giáo dục phổ
1


thông mới, do đó việc bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên tiểu học là một
công việc cấp bách chuẩn bị thực hiện chương trình mới; Để giúp học sinh hình
thành phẩm chất và năng lực như đã nêu ở trên, thì nhiệm vụ của người giáo viên
là tu dưỡng đạo đức và tự học tập, tự bồi dưỡng, tự hoàn chỉnh mình luôn là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo.
Theo bản thân tôi thì năng lực nghề nghiệp giáo viên cần được bồi dưỡng
tập trung vào các vấn đề cơ bản:
- Một là bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và năng lực nghiên cứu khoa

học.
- Hai là bồi dưỡng năng lực giảng dạy (năng lực nghiệp vụ sư phạm)
- Ba là bồi dưỡng phát triển các giá trị, đạo đức nghề nghiệp (phẩm chất).
Trên cơ sở giáo viên tiểu học, tự bồi dưỡng hàng năm và được tập huấn
thường xuyên của các cấp, về cơ bản lí thuyết, đại đa số giáo viên tiểu học đã
tiếp thu và lĩnh hội được tinh thần đó, nhưng thực tế, việc triển khai vận dụng,
còn gặp một số khó khăn nhất định, đặc biệt là tổ chức các hoạt động dạy học
định hướng phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh.
Vì vậy để giúp giáo viên tiểu học, nâng cao năng lực giảng dạy sự cần
thiết phải bồi dưỡng chuyên đề “Bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt động
dạy học toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh tiểu học”.
Vì điều kiện thời gian nghiên cứu, hoạt động trải nghiệm thực tế ở tiểu
học của bản thân còn hạn chế, khả năng diễn đạt, các ví dụ minh họa chưa hay,
rất mong các bạn đồng nghiệp, giáo viên tiểu học góp ý, để chuyên đề hoàn thiện
hơn, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học.

2


B. NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CỦA
GIÁO VIÊN TIỂU HỌC
Như chúng ta đã biết quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học
(Ban hành kèm theo Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT ngày 04 tháng 5 năm
2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Giáo viên cần có các năng lực
sau:
- Năng lực tìm hiểu học sinh Tiểu học;
- Năng lực tìm hiểu môi trường nhà trường Tiểu học;
- Năng lực tìm hiểu môi trường xã hội;
- Năng lực dạy học các môn học;

- Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng xã hội, kĩ năng sống và
giá trị sống cho học sinh Tiểu học;
- Năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo;
- Năng lực giải quyết các tình huống sư phạm;
- Năng lực giáo dục học sinh có hành vi không mong đợi;
- Năng lực tư vấn và tham vấn giáo dục Tiểu học;
- Năng lực hiểu biết các kiến thức khoa học nền tảng rộng, liên môn;
- Năng lực chủ nhiệm lớp;
- Năng lực giao tiếp;
- Năng lực hoạt động xã hội, năng lực phát triển nghề nghiệp và năng lực
nghiên cứu khoa học giáo dục Tiểu học.
Trên cơ sở của quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học (Ban
hành kèm theo Quyết định số 14/2007/QĐ-BGDĐT ngày 04 tháng 5 năm 2007
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Người giáo viên cần có hai năng lực cơ bản là: Năng lực giáo dục và năng
lực dạy học, hai năng lực này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Năng lực giáo dục gồm: Năng lực tìm hiểu học sinh, môi trường, xã hội,
năng lực giải quyết các tình huống sư phạm, năng lực giáo dục các hành vi
không mong đợi, năng lực chủ nhiệm lớp, năng lực giao tiếp, năng lực hoạt động
xã hội.

3


Năng lực dạy học gồm: Năng lực tổ chức các hoạt động dạy học, năng lực
dạy học các môn học tích hợp, năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng
xã hội, kĩ năng sống và giá trị sống cho học sinh tiểu học, năng lực tổ chức hoạt
động trải nghiệm sáng tạo…
1.1 Năng lực giáo dục
Giáo dục tiểu học được xem là bậc học, nhằm giúp học sinh, hình thành

những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học các bậc cao hơn. Nền tảng
nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản (nghe, nói, đọc, viết và tính
toán) của học sinh được hình thành ở tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc
đời của mỗi con người. Học sinh tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất
như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ
năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học, sáng
tạo.
Để giáo dục được học sinh, người giáo viên cần có năng lực tìm hiểu học
sinh, các năng lực đó thường là một tổ hợp các năng lực như: Năng lực chuẩn
đoán, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực cảm hóa học sinh, năng lực đáp ứng,
năng lực thiết lập mối quan hệ…
1.1.1 Năng lực chẩn đoán:
Năng lực chuẩn đoán: Tức là năng lực phát hiện và nhận biết đầy đủ,
chính xác và kịp thời sự phát triển của học sinh, những nhu cầu cần được giáo
dục từng học sinh.
Đối với giáo viên tiểu học đây là năng lực đặc biệt quan trọng vì sự phát
triển về các mặt của học sinh ở lứa tuổi tiểu học diễn ra rất nhanh, nhưng lại
không đồng đều, do đó người giáo viên phải biết chuẩn đoán học sinh qua những
biểu hiện sau:
- Thông qua chữ viết (viết số và phép tính) của học sinh, người giáo viên
có những chuẩn đoán ban đầu và biết những nhu cầu, cần giáo dục (rèn luyện)
học sinh đó qua môn tập viết.
- Thông qua giọng nói, cách phát âm, ngữ điệu đọc của học sinh, người
giáo viên hiểu được khả năng tiếng việt của học sinh đó và có kế hoạch dạy học
(rèn luyện) thêm phần Tiếng Việt.
- Thông qua một vài phép tính đơn giản, người giáo viên không chỉ đánh
giá kết quả của phép tính mà thông qua thái độ cử chỉ nét mặt, có thể chuẩn đoán
ngay học sinh cần có nhu cầu giáo dục lĩnh vực nào trong môn toán.


4


- Thông qua cách ăn mặc: Quần áo, giày dép, cặp sách, búi tóc, phương
tiện đi lại của học sinh, người giáo viên có thể chuẩn đoán được mức độ quan
tâm chăm sóc của gia đình đối với học sinh, điều kiện kinh tế của gia đình đó….
- Trong giờ học giáo viên quan sát, thông qua thần thái của từng học sinh,
giáo viên có thể nhận ra trạng thái tâm lý, thái độ học tập, sức khỏe,…từ đó giáo
viên chuẩn đoán được sự thuận lợi hay khó khăn của học sinh trong quá trình
nhận thức.
Trong dạy học và trong giáo dục người giáo viên tiểu học phải thâm nhập
vào thế giới bên trong của trẻ, sự hiểu biết tường tận và nhân cách của chúng,
cũng như năng lực quan sát tinh tế những biểu hiện tâm lí của học sinh trong quá
trình dạy học và giáo dục.
Người giáo viên còn xác định được khối lượng kiến thức, phạm vi kiến
thức và kĩ năng cần lĩnh hội của học sinh, từ đó người giáo viên dự đoán được
những thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng cần thiết khi
học sinh phải thực hiện những nhiệm vụ nhận thức.
Năng lực hiểu học sinh là kết quả của một quá trình lao động, đầy trách
nhiệm, thương yêu học sinh và sâu sát học sinh, nắm vững kiến thức chyên môn,
am hiểu đầy đủ về tâm lí học trẻ em và tâm lí sư phạm cùng với một số phẩm
chất khác.
1.1.2 Năng lực sử dụng ngôn ngữ
Như chúng ta đã biết có nhiều cách phân loại về ngôn ngữ: Ngôn ngữ âm
thanh (nói), ngôn ngữ kí tự (viết), ngôn ngữ hình ảnh (cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt,
trang phục…).
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng ý nghĩ, tình cảm
của mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ.
Khi giáo viên sử dụng ngôn ngữ cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Nội dung ngôn ngữ sử dụng phải sâu sắc: Từ mỗi đơn vị biểu đạt đến toàn

bài giảng, ngôn ngữ phải chứa đựng mật độ thông tin lớn, diễn tả, trình bày phải
chính xác, cô đọng, lời nói, cách trình bày, diễn giảng phải đảm bảo tính luận
chứng, tính kế tục tức là từ ý nghĩa này dẫn đến ý nghĩa khác một cách logic.
Hình thức ngôn ngữ của thầy giáo phải giản dị, sinh động, lời nói giàu
hình ảnh, biểu cảm với cách phát âm mạch lạc, lời nói không cầu kỳ hoa mỹ,
nhưng cũng không khô khan, tẻ nhạt, đừng dài dòng, nhưng đừng quá ngắn, khi
cần có thể điểm qua một vài pha trò nhè nhàng và sự khôi hài đúng chỗ.
Người giáo viên phải có kỹ năng, kỹ xảo, biết cách sử dụng khả năng
truyền cảm của mình trước học sinh bằng cách tận dụng và phối hợp giữa lời nói
5


với ngôn ngữ phụ như: cử chỉ, hành động, nét mặt và những phương tiện khác
của ngôn ngữ, làm cho tiết dạy sinh động hơn.
Một số vấn đề lưu ý khi giáo viên sử dụng ngôn ngữ như không sử dụng
các từ ngữ địa phương, không phát âm sai, cố gắng phát âm theo chuẩn Tiếng
Việt. Liệt kê các từ hay nhầm lẫn sử dụng sai như l và n; ch và tr; s và x; ng và
ngh; d và gi….và bản thân mỗi giáo viên chúng ta cần biết mình còn những hạn
chế nào, trong việc sử dụng ngôn ngữ.
Năng lực sử dụng ngôn ngữ là kết quả của cả một quá trình học tập và
nghiên cứu ở trường sư phạm, trong môi trường giảng dạy, nghiên cứu tài liệu,
học tập ở đồng nghiệp…
1.1.3 Năng lực cảm hóa học sinh
Năng lực cảm hóa học sinh là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp của
giáo viên bằng tình cảm và ý chí đối với học sinh, nói cách khác đó là khả năng
làm cho học sinh nghe, tin và làm theo giáo viên bằng tình cảm và niềm tin.
Năng lực cảm hóa học sinh phụ thuộc vào một tổ hợp các phẩm chất nhân
cách thầy giáo như:
+ Tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình trong công tác.
+ Niềm tin vào sự nghiệp chính nghĩa cũng như kĩ năng truyền đạt niềm

tin đó.
+ Lòng tôn trọng học sinh, phong cách dân chủ nhưng trên cơ sở yêu cầu
cao đối với học sinh (cần tránh sự khoan dung vô nguyên tắc, sự cả tin một cách
ngây thơ, sự thiếu kiên quyết của thầy giáo …)
+ Sự chu đáo và khéo léo đối xử của giáo viên.
+ Lòng vị tha và các phẩm chất của ý chí.
Để có năng lực này, thầy giáo cần:
+ Phải phấn đấu và tu dưỡng để có nếp sống văn hóa, phong cách mẫu
mực nhằm tạo ra một uy tín chân chính và thực sự.
+ Xây dựng một quan hệ thầy trò tốt đẹp: Vừa nghiêm túc, vừa thân mật;
có thái độ yêu thương và tin tưởng học sinh; biết đối xử dân chủ và công bằng,
chân thành và giản dị, biết phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh.
+ Có tư thế tác, phong mẫu mực trước học sinh.
Năng lực đối xử khéo léo sư phạm (xử lí tình huống sử phạm), trong quá
trình giáo dục thầy giáo thường đứng trước tình huống sư phạm khác nhau đòi
hỏi người thầy giáo phải giải quyết linh hoạt, đúng đắn và có tính giáo dục cao;
6


Sự khéo léo đối xử sư phạm là một thành phần quan trọng của “tài nghệ sư
phạm”.
Sự khéo léo đối xử sư phạm là kĩ năng tìm ra những phương thức tác động
đến học sinh một cách có hiệu quả nhất, là sự cân nhắc đúng đắn những nhiệm
vụ sư phạm cụ thể phù hợp với những đặc điểm và khả năng của cá nhân cũng
như tập thể học sinh, trong từng tình huống sư phạm cụ thể.
Năng lực này được biểu hiện:
+ Sự nhạy bén về mức độ sử dụng bất cứ tác động sư phạm nào: Khuyến
kích, trách phạt…
+ Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời áp dụng những

biện pháp thích hợp.
+ Quan tâm đầy đủ, chu đáo, có lòng tốt tế nhị và vị tha, có tính đến đặc
điểm cá nhân từng học sinh.
+ Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất
ngờ, không nóng vội, không thô bạo.
+ Biết biến cái bị động thành cái chủ động giải quyết một cách mau lẹ
những vấn đề phức tạp đặt ra trong công tác dạy học và giáo dục.
1.1.4 Năng lực đáp ứng.
Năng lực đáp ứng: Đó là năng lực đưa ra được những nội dung và biện
pháp giáo dục đúng đắn, kịp thời, phù hợp nhu cầu của học sinh và yêu cầu của
mục tiêu giáo dục.
Giáo viên tiểu học cần có tri thức, có năng lực hiểu biết để đáp ứng được
nhu cầu của công việc;
Năng lực đáp ứng là một năng lực cơ bản, trong các năng lực sư phạm
của người giáo viên dạy học; Tức là giáo viên có khả năng đáp ứng nhu cầu của
học sinh trong quá trình giảng dạy và giáo dục.
Do tiến bộ của khoa học, kĩ thuật, nên xã hội yêu cầu ngày càng cao đối
với trình độ văn hóa chung của thế hệ trẻ, mặt khác thầy giáo cũng cần làm hứng
thú và nguyện vọng của thế hệ trẻ ngày càng phát triển. Thầy giáo có nhiệm vụ
phát triển nhân cách học sinh nhờ một phương tiện đặc biệt là tri thức, quan
điểm, kĩ năng, thái độ, nhất là những tri thức khoa học thuộc lĩnh vực giảng dạy
của mình, tạo ra uy tín cho người thầy giáo.
- Người thầy giáo có tri thức và tầm hiểu biết rộng thể hiện ở chỗ: Nắm
vững và hiểu biết rộng lĩnh vực khoa học chuyên môn giảng dạy của mình.

7


- Thường xuyên theo dõi những thành tựu mới trong lĩnh vực khoa học
thuộc chuyên môn mình phụ trách.

- Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng và hoàn thiện tri thức của mình.
Từ đó người giáo viên mới có khả năng, xử lí các tình huống trong dạy
học.
1.1.5 Năng lực đánh giá
Năng lực đánh giá: Đó là năng lực nhìn nhận sự thay đổi trong nhận thức,
kĩ năng thái độ và tình cảm của học sinh.
Trong giai đoạn hiện nay việc đánh giá học sinh tiểu học được thực hiện
theo văn bản hợp nhất số: 03/ VBHN- BGD ĐT ngày 28 thánh 9 năm 2016 của
Bộ đã chỉ rõ: “ Đánh giá học sinh tiểu học nêu trong quy định này là những hoạt
động quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện
của học sinh; tư vấn hướng dẫn, động viên học sinh; nhận xét định tính hoặc định
lượng về kết quả học tập; rèn luyện, sự hình thành và phát triển một số năng lực
phẩm chất của học sinh tiểu học”. Tại khoản 2 điều 3 mục đích đánh giá với học
sinh: “Giúp học sinh có khả năng tự nhận xét, tham gia nhận xét, tự học, tự điều
chỉnh cách học; giao tiếp hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ”.
Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh, nên những lời nhận xét của giáo viên
đánh giá học sinh có vai trò vô cùng quan trọng, trong quá trình hình thành phẩm
chất và phát triển năng lực của học sinh.Vì vậy, người giáo viên cũng phải rèn
luyện kĩ năng đánh giá và cách sử dụng ngôn ngữ, trong đánh giá sao cho phù
hợp với học sinh.
1.1.6 Năng lực thiết lập mối quan hệ:
Năng lực thiết lập các mối quan hệ như: Quan hệ đồng nghiệp, quan hệ
với phụ huynh học sinh và nhất là quan hệ với học sinh.
Năng lực giao tiếp sư phạm là năng lực nhận thức nhanh chóng những
biểu hiện bên ngoài và những diễn biến tâm lý bên trong của học sinh và bản
thân, đồng thời biết sử dụng hợp lí các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ,
biết các tổ chức điều khiển và điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt mục đích
giáo dục
- Năng lực giao tiếp sư phạm được biểu hiện ở các kĩ năng chính như:
Kĩ năng định hướng giao tiếp: thể hiện ở khả năng dựa vào sự biểu lộ bên

ngoài như: Sắc thái biểu cảm, ngữ điệu thanh điệu của ngôn ngữ, cử chỉ, động
tác, thời điểm và không gian giao tiếp mà phán đoán chính xác về nhân cách
cũng như mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.
8


Kĩ năng định vị: đó là khả năng biết xác định vị trí trong giao tiếp, biết
đặt vị trí của mình vào vị trí của của đối tượng và biết tạo điều kiện để đối tượng
chủ động thỏa mái giao tiếp với mình.
Kĩ năng điều khiển quá trình giao tiếp thể hiện ở: Kỹ năng điều khiển đối
tượng giao tiếp, kỹ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân và kỹ năng sử
dụng phương tiện giao tiếp.
Kĩ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân, biết kiềm chế trạng thái
xúc cảm mạnh, khắc phục những tâm trạng có hại, khi cần thiết có thể bộc lộ
những tình cảm mà lúc này không có hoặc có mà yếu ớt. Đó chính là, biết điều
chỉnh và điều khiển các diễn biến tâm lí của mình cho phù hợp với hoàn cảnh
giao tiếp.
Phương tiện giao tiếp đặc trưng của con người là lời nói, kĩ năng này biểu
hiện ở chỗ: giáo viên biết lựa chọn những từ đắt thông minh, hiền hòa lịch sự …
trong giao tiếp; mặt khác biết sử dụng những phương tiện phi ngôn ngữ như cử
chỉ, điệu bộ, nét mặt nụ cười ….
- Ngoài ra người giáo viên còn có sự tiếp xúc với đồng nghiệp, với phụ
huynh học sinh, với các tổ chức xã hội khác. Thông qua sự giao tiếp này giáo
viên đóng góp công sức của mình vào việc thống nhất, tác động giữa các lực
lượng giáo dục, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
Việc rèn luyện năng lực giao tiếp, không tách rời việc rèn luyện các phẩm
chất đạo đức và nhân cách của người giáo viên.
1.2 Năng lực dạy học
1.2.1 Năng lực triển khai chương trình dạy học:
Đó là năng lực tiến hành dạy học, căn cứ vào mục đích và nội dung giáo

dục và dạy học đã được quy định, nhưng phù hợp với đặc điểm của đối tượng.
Nhóm các năng lực dạy học bao gồm:
Năng lực chế biến tài liệu học tập là năng lực gia công về mặt sư phạm
của thầy giáo, đối với tài liệu học tập, nhằm làm cho nó phù hợp với trình độ và
đặc điểm nhân cách học sinh nhưng phải đảm bảo logic sư phạm.
Năng lực chế biến tài liệu học tập được thể hiện:
Người giáo viên đánh giá đúng tài liệu, xác lập được mối quan hệ giữa yêu
cầu kiến thức của chương trình, với trình độ nhận thức của học sinh, phải biết
được những thuận lợi và khó khăn của học sinh khi tiến hành giảng dạy.
Giáo viên phải biết xây dựng lại tài liệu, để hình thành cấu trúc bài giảng
vừa phù hợp với logic nhận thức, vừa phù hợp với logic sư phạm lại thích hợp
9


với trình độ nhận thức của trẻ; Muốn làm được điều đó, giáo viên cần phải đảm
bảo những yêu cầu sau:
- Có khả năng phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa kiến thức.
- Phải có suy nghĩ sáng tạo thường thể hiện ở chỗ: Trình bày tài liệu theo
suy nghĩ và lập luận của mình, cung cấp cho học sinh những kiến thức sâu sắc và
chính xác, có liên hệ vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để cho bài giảng đầy sức lôi
cuốn và giàu cảm xúc tích cực, nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo.
Năng lực hướng dẫn tìm hiểu tài liệu; Kết quả lĩnh hội kiến thức phụ thuộc
vào ba yếu tố: Trình độ nhận thức của học sinh, nội dung bài giảng và cách dạy
của giáo viên.
Giáo viên chuẩn bị bài tốt, nhưng chưa chắc dạy đã hay, muốn dạy học đạt
kết quả cao thì người thầy giáo phải có năng lực tổ chức các hoạt động học phù
hợp với nhận thức của học sinh.
Năng lực truyền đạt tài liệu của giáo viên là năng lực tổ chức và điều
khiển, các hoạt động nhận thức cho học sinh thông qua hoạt động dạy và học

trong tiết dạy đó.
Năng lực này thể hiện ở chỗ:
+ Nắm vững kĩ thuật dạy học mới, tạo cho học sinh ở vị trí “người phát
minh” trong quá trình dạy học.
+ Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu và làm cho nó trở nên vừa sức với
học sinh; Gây hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ tích cực và độc lập; Tạo
ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội, học tập của học sinh.
Việc hình thành một năng lực như vậy, nắm được kĩ thuật dạy học mới nêu
trên quả là không dễ dàng mà nó là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc
và rèn luyện tay nghề công phu của người giáo viên.
1.2.2 Năng lực chuẩn bị kế hoạch dạy học
Người giáo viên có được năng lực chuẩn bị kế hoạch dạy học, điều đầu
tiên người giáo viên cần có các kĩ năng sau:
- Kĩ năng phân tích chương trình dạy học;
- Kĩ năng xác định mục tiêu bài dạy;
- Kĩ năng chuẩn bị phương tiện dạy học;
- Kĩ năng nắm bắt đối tượng;
- Kĩ năng lựa chọn tài liệu và chuẩn bị tri thức mới;
10


- Kĩ năng dự đoán những khó khăn của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri
thức mới;
- Kĩ năng soạn bài;
- Kĩ năng lựa chọn các phương pháp dạy học.
1.2.3 Kĩ năng tổ chức các hoạt động nhóm
- Kĩ năng thành lập nhóm học tập;
- Kĩ năng phân công nhiệm vụ học tập;
- Kĩ năng hướng dẫn tổ chức các hoạt động nhóm;
- Kĩ năng quan sát theo dõi, điều chỉnh các tiến trình của hoạt động nhóm;

- Kĩ năng tổ chức báo cáo kết quả hoạt động của các nhóm.
1.2.4 Năng lực giải quyết các tình huống.
Tình huống có vấn đề trong dạy học toán có thể tạm chia ra thành hai
dạng: Một là tình huống có vấn đề xảy ra trong dự kiến của giáo viên; Hai là tình
huống có vấn đề xảy ra ngoài dự kiến.
- Tình huống có vấn đề xảy ra trong dự kiến thì việc giáo viên giải quyết
tình huống này không có gì khó khăn. Vì giáo viên đã có tâm thế chuẩn bị và đã
có phương án giải quyết một cách phù hợp.
- Tình huống có vấn đề trong dạy học toán tiểu học, có khi xuất phát từ
thực tiễn nội dung dạy học, trong đơn vị kiến thức, từ trao đổi và tìm tòi của học
sinh trong quá trình thảo luận. Nếu tình huống này xảy ra thì giáo viên thường
lúng túng và gặp khó khăn, cách giải quyết tình huống này có thỏa đáng có
thuyết phục học sinh hay không, phụ thuộc vào năng lực của giáo viên. Vì vậy
việc rèn kĩ năng giải quyết các tình huống là rất cần thiết cho mỗi giáo viên.
Để có năng lực giải quyết các tình huống thì những việc làm thường xuyên
của giáo viên là: Biên soạn tình huống cho từng đơn vị kiến thức, từng bài dạy
của mình, nhưng phải thỏa mãn các yêu cầu cơ bản của một tình huống như:
- Tình huống phải sát với thực tế nội dung giảng dạy.
- Tình huống phải thật sự thách thức với học sinh, học sinh không thể trả
lời ngay được mà phải huy động kiến thức và giải pháp, mới giải quyết được.
- Nội dung tình huống phải phù hợp với trình độ học sinh, không nên đưa
ra tình huống phức tạp cao hơn khả năng của học sinh và ngược lại, và điều này
cũng có thể làm nản lòng học sinh, không muốn tham gia giải quyết tình huống,
như vậy hiệu quả sẽ không đạt như mong muốn.
11


- Theo kinh nghiệm của bản thân, thay vì người giáo viên đưa ra các phản
ví dụ, người giáo viên có thể soạn ra các tình huống sai lầm thường gặp của học
sinh nhằm củng cố kiến thức một cách chắc chắn hơn.

Trong thời gian qua giáo viên thường coi trọng việc dạy học, tức là chủ
yếu hình thành kiến thức và kĩ năng cho học sinh, mà chưa chú trọng nhiều công
tác giáo dục, cụ thể là hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh, không phải
đến giờ dạy học phân môn đạo đức, người giáo viên mới hình thành phẩm chất
đạo đức cho học sinh mà phải được thường xuyên tích hợp trong quá trình dạy
học.
Thông qua việc dạy học môn toán, người giáo viên có thể rèn luyện cho
học sinh tính cẩn thận, kiên trì, vượt khó, làm việc có kế hoạch, khoa học…
Tất cả các giáo viên đều biết, nhưng việc có hình thành được các phẩm
chất đó không, lại là vấn đề khác, các giáo viên thường phát hiện học sinh giải
toán sai, thường nhắc nhở học sinh, phải cẩn thận không được làm sai, vì nếu
làm sai, sau này kiểm tra hoặc thi học kì, thi chuyển cấp … thì không làm được,
chính vì vậy mà mục tiêu giáo dục, đã ít nhiều đi chệch hướng là học để thi.
Theo bản thân, mỗi hoạt động trong dạy học toán, đều có thể tích hợp với
các yếu tố giáo dục và hình thành một phẩm chất đạo đức cho học sinh tiểu học.
Ví dụ 1: Khi học sinh thực hiện bài toán tính giá trị biểu thức có dấu
ngoặc, một học sinh đã làm chưa chính xác mở dấu ngoặc mà quên đóng dấu
ngoặc, người giáo viên cho học sinh nêu một số ví dụ mở mà không đóng có gây
tác hại và nguy hiểm gì không?
Nếu học sinh chưa lấy được giáo viên có thể gợi ý lấy một ví dụ như: Mở
điện không tắt điện; mở cửa mà không đóng cửa; mở nước mà không đóng
nước….
Ví dụ 2: Khi thực hiệu tính giá trị biểu thức có nhiều dấu ngoặc học sinh
đã làm sai qui tắc về thứ tự mở các dấu ngoặc, nhiệm vụ người giáo viên cần
củng cố lại quy tắc cho học sinh hiểu, ngoài ra người giáo viên có thể lấy thêm
các ví dụ từ cuộc sống để giáo dục học sinh. Như cha ông ta thường dạy: “học
ăn, hỏi nói, học gói, học mở”.
Hoạt động thảo luận: Anh chị làm sáng tỏ nhận định sau:
1) “Thầy giáo là người nghệ sĩ trên bục giảng”
2) “Thầy giáo là kĩ sư tâm hồn”.

Một số câu danh ngôn hay

12


1) Người thầy trung bình chỉ biết nói. Người thầy giỏi biết giải thích.
Người thầy xuất chúng biết minh họa. Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm
hứng. (William A. Warrd)
2) Học không biết chán, dạy người không biết mỏi. (Khổng Tử)
3) Người thầy thực sự hiểu biết không bắt bạn bước vào ngôi nhà tri thức
của thầy, mà hướng dẫn bạn đến ngưỡng cửa tư duy và tri thức của bạn. (Khalil
Gibran)
4) Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc
của người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn (Uyliam Batơ Dit)
5) Thầy giáo bình thường giải thích những rắc rối, thầy giáo có năng khiếu
tiết lộ sự đơn giản. (Robert Brault)

13


Chương 2: MỘT SỐ CÁCH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO NĂNG
LỰC DẠY HỌC TOÁN Ở TIỂU HỌC
2.1 Một số cách tổ chức các hoạt động khởi động tiết học.
Khởi động tiết học là hoạt động đầu giờ, giúp các em hứng thú bước vào tiết
học mới hoặc thông qua hoạt động khởi động, để ôn lại những kiến thức cũ có
liên quan đến nội dung bài học mới.
Hoạt động khởi động có thể là trò chơi, bài hát, kể chuyện, đố vui….
2.1.1 Tổ chức hoạt động trò chơi
Thông thường vào đầu giờ học, giáo viên thường có những câu hỏi cứ lặp
đi lặp lại nhiều lần gây nhàm chán, không gây hứng thú, không tập trung định

hướng học sinh chuẩn bị tâm thế sẵn sàn cho việc hình thành kiến thức mới.
Do đó trước khi vào bài học giáo viên nên tổ chức các trò chơi. Thông
thường các trò chơi được chia ra thành các nhóm như: Trò chơi khởi động thân
thể; Trò chơi khởi động trí tuệ; Trò chơi vận dụng toán học ….
Khi tổ chức trò chơi giáo viên thường thực hiện theo quy trình sau:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên trò chơi.
Bước 2: Phổ biến luật chơi.
- Tổ chức người tham gia chơi: Số người tham gia, số đội tham gia, quản
trò, trọng tài.
- Các dụng cụ và thiết bị đồ dùng để chơi (nếu có), cần chuẩn bị trước.
- Cách xác nhận kết quả, cách tính điểm, số lượng giải thưởng …
- Hướng dẫn chơi nháp (thử), giúp học sinh nắm được luật chơi.
Bước 3: Thực hiện trò chơi.
Bước 4: Nhận xét khi trò chơi kết thúc:
- Giáo viên hay trọng tài nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của, cá
nhân, từng đội, những việc làm chưa tốt để rút kinh nghiệm.
- Trọng tài công bố kết quả chơi của từng cá nhân hay từng đội, trao phần
thưởng cho đội đạt giải.
- Yêu cầu học sinh nêu kiến thức, kĩ năng của bài học mà trò chơi đã thể
hiện.
1) Trò chơi 1: “Ngón tay nhúc nhích”
Giáo viên giơ bàn tay phải lên và cho ngón trỏ cử động, cho các em quan
sát rồi hỏi ngón tay cô thế nào?
14


Gọi một vài em trả lời, ngón tay trỏ của cô cử động, ngón tay cô cong lên
thụt xuống; Cô giáo nói ngón tay cô nhúc nhích đấy.
Bây giờ các em đọc và làm theo hoạt động của cô nhé.
Khi cô giơ một ngón các em đọc một ngón tay nhúc nhích này, một lần;

hai ngón đọc hai lần…. cũng đủ vui rồi.
Hôm sau có thể thay ngón tay bằng các bộ phận khác trong cơ thể, thay từ
“nhúc nhích” bằng từ “lúc lắc” … cũng tạo được một trò chơi khởi động.
Ý nghĩa giáo dục: Giúp học sinh ôn tập phép đếm trong phạm vi 10.
2) Trò chơi 2: “Tay đập, tay chà”.
- Giáo viên ra hiệu lệnh các em giơ hai tay lên cao, tay phải nắm lại làm
cái búa, tay trái xếp lại làm cái “bay” (một dụng cụ trong xây dựng).
- Cái búa dùng để làm gì – để đập; cái bay dùng để làm gì – dùng để chà.
- Dùng hai tay vừa đập vừa chà trên mặt bàn.
- Cả lớp thực hiện theo, sau 5 nhịp cô yêu cầu đổi tay cứ như thế ….
- Các em sẽ làm nhầm, hai tay cùng chà hoặc hai tay cùng đập ….
Cô giáo nhận xét cả lớp cùng vui.
Ý nghĩa giáo dục: Rèn cho học sinh cùng một lúc thực hiện hai hoạt động
khác nhau. Liên hệ các công việc làm như người đánh đàn ghi ta, cô thợ may,
diễn viên xiếc… có thể mở rộng và phát triển trò chơi khác.
3) Trò chơi 3: “Chạy tiếp sức”
- Giáo viên chuẩn bị sẵn một số bài toán hoặc câu hỏi có nội dung liên
quan đến tiết dạy.
- Học sinh chuẩn bị bảng nhóm, phấn, bút dạ.
- Cách chơi: Giáo viên đưa đề bài lên bảng phụ (hoặc màn hình chiếu);
cho các đội thảo luận làm bài theo dãy hoặc khu vực (tương đương với số nhóm
đề bài giáo viên đưa ra); học sinh trao đổi một số phút (tùy mức độ yêu cầu).
- Giáo viên bốc thăm chọn ra 2 (hoặc 3; 4) đội chơi. Khi có hiệu lệnh của
giáo viên, lần lượt từng thành viên của 2 (hoặc 3; 4) đội dùng phấn (bút) lên viết
đáp án tương ứng vào phần bảng của đội mình.
- Mỗi lần lên bảng chỉ được ghi một câu trả lời (hoặc một bước trong toàn
bộ công việc của đội).
- Học sinh này ghi xong, chạy về trao phấn cho bạn để bạn đó được lên
bảng. Người lên sau có thể sửa kết quả của người lên trước, nhưng khi sửa thì
không được làm thêm việc khác, hết lượt có thể vòng lại lượt 2, 3...

15


- Thời gian chơi được quy định trước (nên từ khoảng 1- 3phút), đội nào
xong trước là đội giành chiến thăng về mặt thời gian.
- Khi hết giờ chơi, giáo viên ra hiệu lệnh dừng cuộc chơi.
- Giáo viên và cả lớp cùng đánh giá, cho điểm, đội chiến thắng là đội hết ít
thời gian mà có kết quả tốt nhất.
Các trò chơi như thi giải toán nhanh, trò chơi tiếp sức của đồng đội …Để
giúp cho học sinh phát triển khả năng quan sát và phát triển tư duy suy luận
tương tự, qui nạp … có thể tổ chức trò chơi sau.
Minh họa trò chơi “Chạy tiếp sức”
- Giáo viên chuẩn bị 4 bảng phụ, tổ chức cho 4 đội chơi, mỗi đội có 6 bạn
- Nội dung trong bảng như sau:
Tính nhanh tổng sau và viết theo yêu cầu.
Mẫu: 1+ 3 = 4 = 2 x 2
1) 1+ 3+ 5 = … = 3 x …..
2) 1+ 3+ 5 + 7 =……= ….
3) 1+ 3+ 5+ 7+ 9=…..= …….
4) 1+ 3+ 5+ 7+ 9 + 11=…..= …….
5) 1+ 3+ 5+ 7+ 9 + 11+ 13+ 15 =…..=…….
6) 1+ 3+ 5+ 7+ 9 + ……+ 97+ 99 =….. =…….
Có thể sáng tác các nội dung khác nhau, cùng hình thức tổ chức trò chơi
tiếp sức.
4) Trò chơi 4: “Đưa gà về chuồng”.
- Giáo viên chuẩn bị các bảng phụ (hoặc trình chiếu)
- Trong bảng phụ có các hình vẽ chuồng gà có đánh số và các nhóm gà có
số lượng con gà cụ thể.
- Luật chơi: Khi cô giáo hô: “Trời mưa, trời mưa” thì các em hô “đưa gà
về chuồng”. Số con gà đưa về chuồng bằng số tương ứng của chuồng. Chẳng

hạn đưa 4 con về chuồng số 4; 5 con gà đưa về chuồng số 5.
- Trong đó có 6 đàn gà có số lượng theo thứ tự từ 1; 2; 3; 4; 5; 6 con và 5
cái chuồng được đánh số 1; 3; 4; 6; 7. Vì có 6 đàn gà và 5 cái chuồng nên học
sinh lúng túng không đưa được nhóm 2 con gà và 5 con gà vào chuồng nào.
- Nếu đội nào đưa cả nhóm 2 con gà và 5 con gà vào chuồng số 7 thì thắng
cuộc.
16


* Trong thực tiễn, nhiều giáo viên dạy nội dung kiến thức toán trong sách
giáo khoa mà không hiểu dạy để làm gì, chẳng hạn phần phân tích số, thường là
yêu cầu học sinh học thuộc bảng cộng xuôi, ngược.
Ví dụ bài phép cộng trong phạm vi 10 giáo viên yêu cầu học sinh học
thuộc 10 = 9+1 = 8+2 = 7+3 = 6+ 4…..
Nhưng nếu chịu khó suy nghĩ, những vấn đề liên quan từ thực tiễn tính
toán thì giáo viên có thể sáng tác trò chơi sau.
5) Trò chơi 5: “Số cách tính tiền”.
Bài toán: An có 10 tờ 1 nghìn đồng, 5 tờ 2 nghìn đồng và 2 tờ 5 nghìn
đồng, mua một dụng cụ học tập giá 10 nghìn đồng. Hỏi An có bao nhiêu cách lấy
các tờ tiền, để mua dụng cụ học tập đó.
- Cô giáo chia lớp thành 4 nhóm tất cả các bạn đều tham gia và chuẩn bị 4
bảng phụ tương ứng có thể viết nhiều phép tính.
- Cô giáo hướng dẫn luật chơi:
Ví dụ: 10 nghìn bằng 2 tờ 5 nghìn:
Viết 10 = 5 + 5
10 nghìn bằng 1 tờ 1 nghìn, 2 tờ 2 nghìn và 1 tờ 5 nghìn,
Viết 10 = 1 + 2 + 2 + 5
Cách viết 10 = 3 + 5 + 2 không đúng yêu cầu là do An không có tờ 3
nghìn.
- Có thể tổ chức bằng thảo luận nhóm rồi ghi, cũng có thể tổ chức cho các

em chơi tiếp sức.
- Giáo viên dự kiến thời gian tổ chức, khi hết giờ, đội nào có nhiều phép
tính đúng hơn là đội thắng cuộc.
*Theo các anh (chị) dự kiến các tình huống xảy ra, khi tổ chức trò chơi
này, mở rộng bài toán thành bài toán phương trình nghiệm nguyên ở cấp trung
học phổ thông.
Bài toán dân gian: “Trăm trâu, trăm cỏ;
Trâu đứng ăn năm;
Trâu nằm ăn ba;
Lụ khù trâu già;
Ba con một bó.
Hỏi có bao nhiêu trâu đứng, trâu nằm, trâu già?
17


2.1.2 Đố vui
Trong quá trình dạy học có nhiều lí do, giáo viên ít tổ chức hoạt động đố
vui, theo tôi lí do là số câu đố ít, nội dung câu đố không phù hợp với nội dung
tiết học, ngại tìm kiếm và sưu tầm, nhưng nếu sưu tầm thì số câu đố chẳng được
bao nhiêu. Do đó người giáo viên cần thay đổi thái độ, thay đổi cách suy nghĩ,
như những điều học sinh chưa biết, đều có thể trở thành nội dung của một câu
đố, nhưng yêu cầu như thế nào, để tránh câu đố trở thành bài tập thì làm mất đi
tác dụng của nó.
Trong quá trình soạn bài và nghiên cứu giáo viên cần tìm hiểu, sưu tầm và
phân loại các dạng câu đố cho phù hợp với từng đơn vị kiến thức, phù với đối
tượng học sinh, mà giáo viên hướng đến, từng bước tập cho học sinh sưu tầm câu
đố và tạo điều kiện cho các em thể hiện trên lớp, đôi khi phải phân công học sinh
hay theo nhóm chuẩn bị.
Các câu đố vui nhằm gây hứng thú cho học sinh đôi khi phải vận dụng
toán học để giải quyết, nhưng cũng có khi một đáp án bất ngờ mang tính hài

hước cho vui như:
- Khi dạy học kiến thức định hướng không gian: trên, dưới; trước, sau;
trong, ngoài; phải, trái, giáo viên có thể đố như sau.
Câu 1: Cái gì mà tay phải cầm được, còn tay trái không cầm được?
- Khi dạy học kiến thức về: nhiều hơn, ít hơn, mà giáo viên chưa chuẩn bị
câu đố, thì có thể dùng các câu hỏi liên quan đến nhiều hơn, ít hơn, cũng có khi
chỉ cần một từ nhiều hay ít cũng có thể có một hoạt động.
Ví dụ: Uống nhiều nước là tốt hay xấu?
Giáo viên dự kiến, những câu trả lời của học sinh và chuẩn bị đáp án cho
mình, nhưng phải thuyết phục học sinh, phải giúp học sinh hiểu biết thêm về
kiến thức và rèn luyện khả năng hùng biện.
Khi học đến kiến thức trong phạm vi 10, giáo viên có câu đố vui như sau:
Câu 2: Hai bạn nam đố nhau, Bạn A đố: Hai bàn tay của tớ có mấy ngón?
Bạn B đếm rồi trả lời: 10 ngón, Bạn A nói đúng rồi.
Bây giờ bạn B đút 2 tay vào túi quần phía trước đố, hai bàn tay của tớ có
mấy ngón?
Bạn A sờ bên ngoài quần đếm rồi, trả lời có 11 ngón.
Theo các em thì bạn A đếm đúng hay sai? Vì sao?
- Khi học sinh học các bài toán về tỉ lệ giáo viên đố.
18


Câu 3: Năm con mèo ăn 5 con chuột hết 5 phút, Hỏi 10 con mèo ăn 10 con
chuột hết bao nhiêu phút?
Câu 4: Hai người đào trong 2 giờ được một cái hố. Hỏi một người đào trong 1
giờ thì được mấy cái hố?
- Khi dạy học sinh đã biết về đơn vị thời gian; Số ngày các tháng trong
năm; Từ đó giáo viên có câu đố.
Câu 5: Mỗi năm có 7 tháng 31 ngày. Hỏi có bao nhiêu tháng có 28 ngày.
Giáo viên cần rèn luyện khả năng sáng tác, từ một câu đố thành một dạng,

nhiều câu đố có cùng chủ đề, để củng cố kiến thức học sinh.
Ví dụ: Có một đàn vịt, một con đi trước trước hai con, một con đi sau đi
sau hai con, một con đi giữa, giữa hai con. Hỏi có mấy con vịt?
Người giáo viên có thể sáng tác nhiều câu hỏi tương tự nhưng cũng có thể
nâng mức độ hỏi khó hơn.
Câu 1: Trong một gia đình có hai chị, hai em. Hỏi gia đình đó có mấy chị em?
Câu 2: Một nhóm có 2 người cha và 2 người con chia đều 15 quả táo. Hỏi mỗi
người được mấy quả?
Câu 3: Ở một bản làng nọ có một gia đình có ba người con trai. Mỗi người con
trai đều có một người chị gái và một người em gái. Hỏi gia đình đó có mấy
người.
Nếu giáo viên ra câu đố mà đáp án của nó hoàn chỉnh như giải toán thì có
khi lại mất vui, nên chăng giáo viên có thể đưa ra đáp án bất ngờ thì sẽ tạo được
hứng thú cho học sinh.
Câu 1: Một đồng hồ quả lắc lúc 1 giờ nó đánh 1 tiếng chuông, lúc 2 giờ nó đánh
2 tiếng chuông... lúc 12 giờ nó đánh 12 tiếng chuông.
a) Hỏi từ 1 giờ sáng đến 12 giờ trưa, nó đánh bao nhiêu tiếng chuông?
b) Khi nào nó đánh 13 tiếng chuông?
Câu 2: Một người câu cá. Anh ta câu được 6 con không đầu, 9 con không đuôi
và 8 con một nửa. Hỏi anh ta câu được bao nhiêu con cá?
Câu 3: Chiếc xe ô tô đang đậu làn đường số mấy?
?
16

06

68

88


19

98


Như vậy để có nhiều câu đố thú vị, người giáo viên phải có hứng thú thì
mới tìm kiếm, sưu tầm, sáng tác nhiều câu đố vui.
2.1.3 Kể chuyện
Học sinh tiểu học rất thích được nghe giáo viên kể chuyện, để có kỉ năng
kể chuyện thầy cô giáo phải rèn luyện, để có nội dung các câu chuyện giáo viên
phải sưu tầm và nắm vững ý nghĩa giáo dục của từng câu chuyện đôi khi cũng
phải tự sáng tác các câu chuyện vui mà giàu ý nghĩa giáo dục.
Câu chuyện 1: “Ngu hay khôn?”
Một ông thầy giáo mới dạy nhận ra rằng, trong lớp có một cậu bé luôn
luôn bị chửi là ngu. Trong giờ ra chơi ông hỏi nhóm bạn lí do.
- Thì nó là thằng ngu thật mà thầy. Nếu mà đưa cho nó đồng xu to 5 rúp và
đồng xu nhỏ 10 rúp, thì nó sẽ chọn đồng 5 rúp, vì nó nghĩ đồng 5 rúp có kích
thước to hơn thì là tốt hơn.
Đây thầy nhìn nhé, một bạn trong nhóm giơ hai đồng xu và cho cậu kia
chọn, và cậu vẫn chọn đồng 5 rúp như trước, thầy giáo ngạc nhiên hỏi
- Sao em chọn đồng 5 rúp mà không chọn đồng 10 rúp?
- Thầy nhìn này, đồng 5 rúp to hơn mà.
Tan trường, thầy đến gần chỗ cậu bé hỏi lại:
- Chẳng nhẽ em không thể hiểu đồng 5 rúp to hơn về mặt kích thước,
nhưng đồng 10 rúp thì em có thể mua được nhiều thứ hơn?
- Nếu em lấy đồng 10 rúp thì lần sau bọn nó sẽ không cho em nữa; Cậu bé
trả lời (Sưu tầm)
Câu chuyện 2: “Nhà toán học và nhà văn”
Một nhà Toán học và một nhà Văn học, bị một bộ tộc da đỏ bắt nhốt; Tù
trưởng của bộ lạc là một người rất thông minh.

Sau khi bỏ đói ba ngày, tù trưởng cho lính dắt nhà Toán học vào một căn
phòng và bảo ông sắp được ăn. Nhà Toán học được đặt ngồi trên một chiếc ghế ở
góc phòng, bụng khấp khởi mừng khi nhìn thấy một mâm sơn hào hải vị đặt ở
góc phòng bên kia. Tên tù trưởng nói:
Mày phải ngồi yên trên ghế, cứ 1 phút mày được quyền kéo cái ghế một
nửa quãng đường tới mâm cơm.
Nhà toán học giãy nảy: Tao sẽ không tham gia trò giễu cợt này, không
thằng nào lại không biết rằng tao sẽ không bao giờ đến được chỗ mâm cơm.

20


Tù trưởng cũng không làm khó dễ gì nhà Toán học, ông này cắp bụng đói
về phòng nhốt mình.
Tới lượt nhà Văn học được đưa ra với điều kiện tương tự, khi nghe tên tù
trưởng giải thích luật chơi, mắt ông này sáng rực và ngồi ngay vào ghế.
Tù trưởng vờ ngạc nhiên hỏi:
Chẳng nhẽ, mày không thấy là mày sẽ chẳng bao giờ đến tới chỗ mâm cơm
hay sao? Nhà văn học mỉm cười:
Tao không tới tận chỗ mâm cơm, nhưng tao có thể đến đủ gần để ăn được
cơm. (Sưu tầm)
Giáo viên cũng có thể vừa kể chuyện và đan xen với câu đố
Câu1: Ông là ai?
- Vào năm 1442, một thiên tài toán học đã được sinh ra ở làng Cao
Hương, huyện Thiên Bản, đạo Sơn Nam (nay thuộc làng Cao Phương, Nam Hà,)
- Ông là vị trạng nguyên, đã viết nên cuốn sách toán học Đại thành toán pháp.

Nếu học sinh không trả lời được thì giáo viên cung cấp đáp án.
Câu 2: Cân voi
Sứ thần nhà Minh là Chu Huy khi sang nước ta, nghe danh vị Trạng

Nguyên biên soạn cuốn sách Đại thành toán pháp, nên muốn thử tài, câu đố rất
đơn giản, họ thách đố ông tính được cân nặng của một con voi.
Các em cùng suy nghĩ xem, liệu vị Trạng Nguyên của chúng ta, làm thế
nào để tính được.
Câu 3: Tính độ dày 1 tờ giấy
Sau khi tính được cân nặng của voi, sứ thần nhà Minh vẫn tỏ ra chưa phục
nên muốn làm khó Trạng Nguyên. Sứ thần xé ra một tờ giấy và nói: “Tính cân
nặng voi ông còn làm được thì chắc đo độ dày tờ giấy này cũng chẳng khó khăn
gì nhỉ?”
Theo các em nghĩ vị Trạng Nguyên của chúng ta có đo được không và đo
như thế nào?
“Nguồn tham khảo Danh nhân khoa học Việt Nam, tác giả Lê Minh Quốc”
2.2 Một số cách tổ chức hoạt động dạy học kiến thức mới
2.2.1 Hoạt động giới thiệu bài mới.
Thông thường giáo viên tiểu học hay giới thiệu bài mới, một trong các
cách sau:
21


- Giới thiệu trực tiếp: Khi dạy các đơn vị kiến thức mới, hay dạy một khái
niệm toán học giáo viên thường giới thiệu bài, hôm nay cô dạy cho các em bài…
- Giới thiệu nối tiếp: Khi dạy các kiến thức nối tiếp giáo viên hay giới
thiệu như sau: Hôm qua chúng ta đã học bài gì? Hôm nay chúng ta tiếp tục học
bài…
Hai cách giới thiệu trên không tạo hứng thú và không tập trung định
hướng sự chú ý của học sinh vào bài giảng, do đó giáo viên chúng ta cần thay đổi
cách tổ chức các hoạt động trước khi hình thành kiến thức mới cho học sinh.
Thông thường người giáo viên tổ chức các hoạt động tạo ra một tình
huống có vấn đề, xây dựng tình huống học tập, đảm bảo yêu cầu kích thích hoạt
động nhận thức của học sinh đem đến cho học sinh các kiến thức tinh tế, chính

xác, giúp học sinh xác lập được mối liên hệ, quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến
thức mới và vận dụng kiến thức đó trong cuộc sống.
2.2.2 Hoạt động hình thành kiến thức
Trong chương trình toán ta tạm chia thành các dạng kiến thức: Khái niệm
toán học; các tính chất và qui tắc toán học; các bài tập thực hành và vận dụng.
1) Dạy học khái niệm toán
Trong toán học tạm chia ra khái niệm thành hai loại: Một là khái niệm cơ
bản; Hai là khái niệm dẫn xuất.
- Khái niệm cơ bản là khái niệm không được định nghĩa.
- Khái niệm dẫn xuất là khái niệm được định nghĩa trên cơ sở các khái
niệm cơ bản và các kiến thức toán học khác.
Do trình độ nhận thức của lứa tuổi học sinh tiểu học, còn nhiều hạn chế về
mặt tư duy logic, nên hầu hết các khái niệm toán trong chương trình tiểu học đều
có thể xem là khái niệm cơ bản.
Đặc điểm chung của dạy học khái niệm toán ở tiểu học.
- Các khái niệm toán học ở tiểu học, gắn liền với hình ảnh trực quan của
các đồ vật gần gũi với đời sống hàng ngày của học sinh.
- Các khái niệm toán học ở tiểu học, được hình thành chủ yếu thông qua
việc tìm hiểu và giải quyết một hay một vài bài toán, ví dụ cụ thể. Có những khái
niệm chỉ được hình thành trong một hay hai tiết nhưng cũng có những khái niệm
được hình thành rải rác trong chương trình.
Do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học, mà dạy học khái niệm toán
có những nét riêng, không đòi hỏi học sinh nhận biết và phát biểu được những
22


×