Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Đánh giá chất lượng của sinh viên tốt nghiệp thông qua năng lực của họ trong khối ngành kinh tế, quản trị kinh doanh tại các trường Đại học trên địa bàn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.48 KB, 126 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Viện quản trị kinh doanh

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đánh giá chất lượng của sinh viên tốt nghiệp thông qua
năng lực của họ trong khối ngành kinh tế, quản trị kinh
doanh tại các trường Đại học trên địa bàn Hà Nội:
Dưới góc nhìn của người sử dụng lao động

Người thực hiện: Phạm Thanh An (Nhóm trưởng)
Nguyễn Thị Thu Thủy
Nguyễn Mai Phương
Ngô Minh Ánh
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS. Vũ Thành Hưng


Hà Nội, ngày 19, tháng 4, năm 2019


Mục lục

Chương I: Giới thiệu chung về đề tài.....................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................................1
3. Câu hỏi nghiên cứu................................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................5
5. Cấu trúc đề tài nghiên cứu.....................................................................................6
Chương II: Cơ sở lý thuyết.....................................................................................7
1. Các khái niệm cơ bản............................................................................................7
1.1. Khái niệm về chất lượng.................................................................................7
1.2. Chất lượng giáo dục đại học...........................................................................8
1.3. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp....................................................................10


1.4. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp thông qua năng lực dưới góc nhìn nhà sử
dụng lao động......................................................................................................14
1.5 Mô hình năng lực ASK của Benjamin Bloom (1956)....................................23
2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài...................................................24
2.1. Nghiên cứu nước ngoài.................................................................................24
2.2. Nghiên cứu trong nước.................................................................................29
2.3 Bảng tổng hợp so sánh giữa các mô hình nghiên cứu tiền đề.........................33
3. Xây dựng mô hình..............................................................................................34
Chương III: Phương pháp nghiên cứu................................................................44
1. Quy trình nghiên cứu của đề tài...........................................................................44
2. Mẫu nghiên cứu...................................................................................................46
3. Phương pháp thu thập dữ liệu..............................................................................46
3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp.......................................................46
3.2 Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp..........................................................47
3.3. Thang đo các tiêu chí.................................................................................49
3.3. Cách thức xử lý số liệu..............................................................................50
Chương IV: Kết quả nghiên cứu..........................................................................51
1. Thống kê đặc điểm của mẫu khảo sát..................................................................51
2. Thống kê mô tả các biến khảo sát độ quan trọng.................................................57


3. Đánh giá độ tin cậy của thang đo.........................................................................64
3.1 Hệ số tin cậy Cronbach’s Anpha.................................................................64
3.2 Phân tích nhân tố khám phá EFA...............................................................67
4. Mô hình đề xuất sau khi chạy EFA......................................................................71
5.Thống kê mô tả cho các biến khảo sát về mức độ đáp ứng công việc ở mô hình
các nhóm tiêu chí mới.............................................................................................72
5.1 Bộ tiêu chí đánh giá kiến thức chuyên môn................................................72
5.2 Bộ tiêu chí đánh giá kỹ năng phát triển cá nhân.........................................73
5.3 Bộ tiêu chí đánh giá thái độ và phẩm chất trong công việc........................74

5.4 Bộ tiêu chí đánh giá kỹ năng hỗ trợ cho công việc chuyên môn................75
5.5 Bộ tiêu chí đánh giá kỹ năng mềm.............................................................75
5.6 Bộ tiêu chí đánh giá khả năng tổ chức và quản lý công việc......................76
5.7. Kết luận về đánh giá mức độ đáp ứng của sinh viên tốt nghiệp qua thống
kê mô tả............................................................................................................76
6. Phân tích mô hình hồi quy...................................................................................77
7. Kiểm định sự khác biệt của các biến nhân khẩu học đến đánh giá chung về chất
lượng sinh viên thông qua năng lực.........................................................................81
8. Kết quả nghiên cứu định tính...............................................................................84
8.1. Khảo sát từ phía nhà sử dụng lao động.....................................................84
8.1.1. Kết quả khảo sát câu hỏi mở người sử dụng lao động............................84
8.1.2 Kết quả câu hỏi phỏng vấn sâu Nhà tuyển dụng......................................87
8.2. Khảo sát từ phía cựu sinh viên..................................................................94
Chương V: Kết luận và kiến nghị.......................................................................111
1. Kết luận.............................................................................................................. 111
2. Kiến nghị...........................................................................................................112
2.1 Kiến nghị đối với sinh viên.....................................................................113
2.2 Kiến nghị đối với nhà trường....................................................................115
Tài liệu tham khảo...............................................................................................125


Chương I: Giới thiệu chung về đề tài
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn lao động chất lượng cao là một trong những mối quan tâm hàng đầu
của xã hội đặt ra trong thời kỳ xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Theo Nghị
quyết Hội nghị Trung Ương 5 khóa XII nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh thủ những cơ hội và thành tựu của Cách
mạng công nghiệp lần thứ 4.” Mặc dù Nhà nước đã có chủ chương nêu rõ tầm quan
trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hiện tại song chúng ta vẫn
chưa phát triển được nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng

công nghiệp 4.0 cũng như sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 này đã và đang làm thay đổi nhanh
chóng cơ cấu nguồn lao động và thị trường lao động tại Việt Nam và trên thế giới.
Các hệ thống tự động hóa sẽ thay thế dần lao động trong toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Nguồn nhân lực ngành kinh tế cũng không nằm ngoài sức ảnh hưởng này.
Công nghệ kỹ thuật tân tiến, máy móc và trí tuệ nhân tạo đang dần thay thế con
người trong một số lĩnh vực thuộc kinh tế như kế toán, kiểm toán, tài chính…. đặt
ra nhu cầu ngày càng tăng dần về nhân lực trình độ cao. Cách mạng công nghiệp 4.0
tạo ra áp lực lớn trong thị trường lao động nói chung, thị trường lao động ngành
kinh tế nói riêng, nhất là các quốc gia đang phát triển sẽ phải đối mặt với tình trạng
dư thừa lao động, gia tăng thất nghiệp. Như vậy ền cách mạng công nghiệp 4.0 đang
diễn ra mạnh mẽ, tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội. Thực tế này đòi hỏi
nguồn nhân lực Việt nam phải có những sự thay đổi căn bản để bắt kịp, thích nghi
với sự đổi mới không ngừng của nền kinh tế.
Như vậy trong thời đại phát triển ngày nay, sự phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Nguồn nhân lực chất lượng cao là
một phần thiết yếu của nguồn nhân lực quốc gia, khi đất nước đó chuyển dần sang
nền kinh tế lấy tri thức là nền tảng chủ yếu. Nguồn nhân lực chất lượng cao là lợi
thế để so sánh hàng đầu của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước
do nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần quan trọng trong việc giữ vững và phát
triển các doanh nghiệp. Trong điều kiện đất nước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
1


đại hóa và hội nhập quốc tế, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đã trở thành
nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Đặc biệt
trong lĩnh vực kinh tế, đặt trong xu hướng toàn cầu hóa, cơ hội việc làm ngày càng
mở rộng đối với cử nhân ngành kinh tế và thị trường luôn nằm trong tình trạng thiếu
hụt nhân lực trình độ cao. Vấn đề đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao khối
kinh tế mang tính cấp thiết hơn bao giờ hết, đặc biệt nguồn lực sinh viên tốt nghiệp

đại học, những chủ nhân trong tương lai.
Như vậy, tầm quan trọng của khối ngành kinh tế đối với nền kinh tế Việt Nam
là thiết yếu. Trong những năm qua, chất lượng đào tạo đại học trong khối ngành này
càng ngày có những sự đổi mới và chuyển biến đáng kể so với trước đây, đáp ứng
được nhu cầu ngày càng tăng cao và phức tạp của các doanh nghiệp, tổ chức, chất
lượng đầu ra sinh viên tốt nghiệp nhìn chung có sự nâng cao rõ rệt phù hợp với yêu
cầu của nhà sử dụng lao động. Tuy nhiên chính vì sự biến động cũng như những yêu
cầu ngày càng phức tạp đòi hỏi sự chất lượng giáo dục phải có những sự thay đổi
thích hợp đối với môi trường kinh tế và thị trường lao động đầy thách thức hiện nay,
dẫn đến một số tranh cãi, sự bất ổn trong đào tạo chất lượng nguồn lao động nói
chung và chất lượng sinh viên tốt nghiệp nói riêng. Một số phản hồi từ phía nhà sử
dụng lao động rằng một phần sinh viên ra trường không đáp ứng đủ chất lượng, làm
việc không hiệu quả và tình trạng thất nghiệp, không có việc làm hiện nay cũng vẫn
còn xuất hiện nhiều. Hiện nay, tại Việt Nam có rất nhiều trường Đại học, nhiều
chương trình đào tạo về những ngành liên quan đến kinh tế. Thành phố Hà Nội lên
tới 43 trường đại học trên tổng số hơn 80 trường đại học đào tạo về ngành kinh tế
trên cả nước. Bên cạnh đấy các trường có các chương trình đào tạo rất đa dạng như
hệ chính quy, hệ đào tạo từ xa, hệ quốc tế,... Số lượng sinh viên theo học lên tới 329
nghìn sinh viên. Vì vậy, để xây dựng được nguồn lao động chất lượng cao thì một
trong những lĩnh vực nền tảng quyết định đến nguồn lao động là ngành giáo dục.
Đối với hệ thống giáo dục nước ta, hàng năm luôn có một số lượng lớn học sinh
sinh viên đăng ký vào các nhóm ngành kinh tế tài chính ngân hàng. Cụ thể, theo
thống kê của Bộ giáo dục và Đào tạo, trung bình số hồ sơ nộp vào ngành kinh tế
chiếm 59% tổng số hồ sơ đăng ký dự thi đại học cao đẳng. Tuy nhiên, dựa trên báo
2


cáo từ Bản tin Thị trường lao động của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, vào
năm 2015 có đến 12.000 trên 29.000 cử nhân thất nghiệp trong nhóm ngành kinh tế.
Điều này cho thấy tình trạng đáng báo động về các cử nhân ngành kinh tế: tuy đông

về lượng nhưng chất lượng lại không được đánh giá cao kể cả về kiến thức, chuyên
môn lẫn kỹ năng và phẩm chất. Do đó dẫn đến tình trạng dư thừa và tổn thất về
nguồn cung nhân lực của đất nước, nguồn tài chính của gia đình và xã hội.
Trên thực tế có nhiều nguyên nhân dẫn tới nguồn lao động về lĩnh vực kinh
tế không đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng lao động. Một trong những lý do
chính dẫn đến hoàn cảnh không lạc quan của giáo dục nguồn nhân lực xuất phát từ
quan điểm chất lượng đầu ra của sinh viên giữa phía nhà trường và phía nhà sử
dụng lao động đang có sự khác biệt nhất định và sự liên kết không được chặt chẽ.
Các nhà tuyển dụng học cho rằng hầu hết các sinh viên tốt nghiệp thiếu các kỹ năng
cốt lõi cần thiết cho công việc của họ để đạt được thành công. Do đó, các trường đại
học cùng với các cơ quan giáo dục cần phải hợp tác và đưa ra chiến lược để giải
quyết sự thiếu hụt trong các kĩ năng của sinh viên sao cho phù hợp với tiêu chí đầu
vào của các trường cũng như đáp ứng được các nhu cầu từ phía nhà tuyển dụng
( Ranasinghe & Herath, 2011 ). Vì vậy điều quan trọng là phải hiểu được các yếu tố
kỹ năng chính mà nhà tuyển dụng mong muốn sinh viên tốt nghiệp ở hữu để nâng
cao cơ hội việc làm cho sinh viên tốt nghiệp. Sinh viên đang bị đánh giá về việc họ
chỉ được đào tạo trong nhà trường những lý thuyết mang tính hàn lâm nhưng khi ra
ngoài xin việc, những kiến thức kĩ năng đó không đáp ứng đầy đủ được nhu cầu của
người sử dụng lao động. Thực tế cho thấy, sinh viên tốt nghiệp ở nước ta hiện nay
còn trong tình trạng tụt hậu rất xa so với thanh niên các nước phát triển trong khu
vực và trên thế giới về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ, các kỹ năng
mềm,.... Do vậy, việc đánh giá đầu ra của sinh viên dựa trên quan điểm của nhà sử
dụng lao động sẽ mang lại nhận xét khái quát và thực tế cho chất lượng giáo dục
của nhà trường và giúp sinh viên có sự chuẩn bị trước khi bước ra xã hội.
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đi vào phân tích những tiêu chí đánh giá sinh
viên khối ngành kinh tế, quản trị sinh viên dưới góc nhìn của nhà sử dụng lao động.
Thông qua việc thu thập số liệu bằng cách gửi bảng hỏi và phỏng vấn những người
3



quản lý, những người sử dụng lao động trực tiếp quản lý nhân viên là những sinh
viên tốt nghiệp để đưa ra những đánh giá chân thực nhất dựa trên các tiêu chí đưa ra
trước đó nhằm giúp nhà trường và nhân viên có những cái nhìn khái quát hơn về
chất lượng giáo dục, chất lượng sinh viên tốt nghiệp. Từ đó, chúng tôi sẽ đi tìm
những nguyên nhân để giải thích hiện tượng không đáp ứng ở một số tiêu chí đó.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn những người cựu sinh viên để có
cái nhìn toàn diện hơn trong đánh giá chất lượng sinh viên.Từ đấy đưa ra những giải
pháp kiến nghị giải quyết tình trạng cử nhân ra trường không đáp ứng được tiêu chí
của người sử dụng lao động.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua việc khảo sát các ý kiến của những người sử dụng lao động cùng
với cựu sinh viên đã ra trường trong vòng 3 năm về năng lực hiện tại của sinh viên
và phân

tích câu trả lời của các đối tượng tham gia khảo sát, đề tài nghiên cứu

hướng tới mục tiêu sau:
1.

Tổng hợp và đề xuất bộ tiêu chí đánh giá chất lượng sinh viên tốt nghiệp

dưới góc nhìn của nhà sử dụng lao động dựa trên các nghiên cứu liên quan đến đề
tài.
2.

Đánh giá chất lượng thực tế của sinh viên tốt nghiệp khối ngành kinh tế

dưới góc nhìn của nhà sử dụng lao động qua việc khảo sát các nhà sử dụng lao động
và thu thập các nguồn dữ liệu thứ cấp.
3.


Phân tích tình hình, thực trạng chất lượng sinh viên tốt nghiệp khối

ngành kinh tế thông qua các bài báo, bài nghiên cứu và các nguồn dữ liệu thứ cấp
khác.
4.

Tìm các nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng sinh viên tốt nghiệp

không đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động thông qua việc phân tích các
nguồn dữ liệu thứ cấp và phỏng vấn cựu sinh viên, các nhà sử dụng lao động
(có thể hỏi sinh viên, giáo viên và các nhà giáo dục( nếu có thể)).
5.

Đề xuất giải pháp giải quyết tình trạng sinh viên ra trường không đáp ứng

yêu cầu của người sử dụng lao động và những giải pháp nhằm giảm thiểu khoảng

4


chất lượng thực tế và chất lượng yêu cầu, cũng như là giải pháp mang lại sự tương
xứng giữa chất lượng đào tạo của Nhà trường và các doanh nghiệp.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Để làm rõ mục tiêu nghiên cứu nêu trên, đề tài cần quan tâm tới câu hỏi sau:
1.

Những tiêu chí đánh giá về chất lượng sinh viên tốt nghiệp dưới góc độ

người sử dụng lao động phù hợp với ngữ cảnh tại Việt Nam gồm những gì? Những

bộ tiêu chí đó được triển khai như thế nào trong các nghiên cứu liên quan đến đề tài
trước đó?
2.

Sự đánh giá chất lượng đầu ra sinh viên tốt nghiệp qua từng tiêu chí theo

bộ tiêu chí đề xuất của người sử dụng lao động như thế nào? Có cần bổ sung thêm
những yếu tố, tiêu chí khác không?
3.

Thực trạng tình hình chất lượng sinh viên tốt nghiệp qua các góc nhìn của

người sử dụng lao động như thế nào? Những mặt tích cực và tiêu cực trong chất
lượng sinh viên tốt nghiệp, chất lượng giáo dục đào tạo là gì, như thế nào?
4.

Những nguyên nhân dẫn tới tình trạng chất lượng sinh viên không đáp

ứng nhu cầu của người sử dụng lao động là gì, từ góc độ của cá nhân, tổ chức, sinh
viên, người sử dụng lao động, các nhà giáo dục như thế nào?
5.

Những kiến nghị, đề xuất về phía nhà trường, cơ sở đào tạo và về phía sinh viên

là gì?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu này tiến hành khảo sát chất lượng đầu ra
dựa trên những tiêu chí về năng lực của sinh viên thuộc khối ngành kinh tế và quản
trị kinh doanh trên địa bàn Hà Nội.

Địa điểm điều tra: Các doanh nghiệp liên quan tới lĩnh vực kinh tế trên địa
bàn Hà Nội và các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn Hà Nội
Phạm vi nghiên cứu:
1.

Không gian: Bài nghiên cứu đánh giá dựa trên góc nhìn là các nhà tuyển

dụng, vì vậy chúng tôi khảo sát từ các phòng tuyển dụng, những người sử dụng lao
động tại các công ty trên địa bàn Hà Nội. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát đối tượng

5


cựu sinh viên tốt nghiệp các trường đại học khối kinh tế trong vòng 3 năm trên địa
bàn Hà Nội.
2.

Thời gian khảo sát: Quý I năm 2019.

Khách thể nghiên cứu là người sử dụng lao động và cựu sinh viên đã ra trường trong
vòng 3 năm.

5. Cấu trúc đề tài nghiên cứu
Phần I: Giới thiệu chung về đề tài
Phần II: Cơ sở lý thuyết
Phần III: Phương pháp nghiên cứu
Phần IV: Kết quả nghiên cứu
Phần V: Kết luận và kiến nghị

6



Chương II: Cơ sở lý thuyết
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm về chất lượng
Theo tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS 9000:2000,
đã đưa ra định nghĩa sau: "Chất lượng là khả năng tập hợp các đặc tính của một sản
phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có
liên quan".
Cụ thể, Judan - một giáo sư người Mỹ nhấn mạnh về sự phù hợp tương thích
với nhu cầu của người sử dụng của chất lượng. Một sản phẩm được tạo ra sau một
quá trình không được coi là sản phẩm chất lượng khi không phù hợp với nhu cầu
của khách hàng, hay nói cách khác, chất lượng của sản phẩm được tạo ra là không
có ý nghĩa. Như vậy, một sản phẩm được coi là chất lượng khi và chỉ khi nó tập hợp
được đầy đủ các đặc tính của một sản phẩm được tạo ra dưới một quá trình, hệ
thống nhằm đáp ứng được các tiêu chí của người sử dụng đặt ra.
Mặt khác, nhiều quan điểm cho rằng chất lượng thường được coi là một khái
niệm tương đối. Chất lượng liên quan đến người sử dụng thuật ngữ và hoàn cảnh
mà nó được viện dẫn. Nó có nghĩa là những điều khác nhau đối với những người
khác nhau, hoặc cùng một người có thể áp dụng các khái niệm khác nhau cho các
thời điểm khác nhau. Nói cách đơn giản hơn, nó tùy thuộc vào cảm nhận của người
đánh giá.
Trong các quan điểm khác, chất lượng được đánh giá theo các ngưỡng tuyệt
đối là nó phải vượt quá một tiêu chuẩn gì đó để đạt được một sự xếp hạng về chất
lượng (ví dụ: đầu ra phải đáp ứng một hệ thống tiêu chuẩn có sẵn). Hầu hết những
đánh giá này là về sự kiểm soát chất lượng, việc đảm bảo, quản lý, kiểm toán, đánh
giá, chính sách và tài trợ.
Tựu chung lại chất lượng là một khái niệm mang tính tương đối, nó phụ thuộc
vào từng quan điểm của các bên liên quan đánh giá. Ngoài ra, chất lượng là sự phù
hợp, tương thích với nhu cầu người sử dụng, nó tập hợp những đặc tính nhất định

sao cho đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chất lượng còn là sự xuất sắc, đạt tiêu
chuẩn cao, là sự hoàn hảo, quá trình biến đổi và tương thích với giá trị bỏ ra.
7


1.2. Chất lượng giáo dục đại học
Chất lượng giáo dục đại học là một vấn đề quan trọng và nổi cộm trong giáo
dục đại học ở Việt Nam, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đầu ra của sinh viên.
Theo Sallis, 1990; Hurley, 1992, sự thay đổi về hoàn cảnh, gia tăng mức độ tham
gia, mở rộng tiếp cận, áp lực về nguồn nhân lực và vật chất, thẩm định, kiểm toán
và đánh giá đã nâng cao tiêu chuẩn về “hồ sơ chất lượng” trong giáo dục đại học.
Chất lượng giáo dục đại học cũng là mối quan tâm lâu dài đối với các nhà tuyển
dụng, các cộng tác viên nghiên cứu và đào tạo.
Harvey & Green (1993), Green (1994) đề xuất năm hướng tư duy về chất
lượng giáo dục đại học: Chất lượng là sự xuất sắc (Quality as exceptional), nói cách
khác là đạt được những tiêu chuẩn cao; Chất lượng là sự hoàn hảo (Quality as
perfection or consistency), nghĩa quá trình đào tạo hoàn chỉnh không sai sót; Chất
lượng là sự phù hợp với mục đích (Quality as fitness for purpose), chất lượng chỉ
được quyết định khi nó được đặt trong mối quan hệ với mục đích của sản phẩm tạo
ra, nói một cách khác chính là sự đáp ứng được nhu cầu của khách hàng (sinh viên,
người sử dụng lao động,..); Chất lượng là sự tương ứng với giá trị bỏ ra (Quality as
value for money), nghĩa là chi phí bỏ ra cho một quá trình đào tạo phải tương xứng
với những giá trị nhận được lại; Chất lượng là quá trình biến đổi (Quality as
transformation), ở đây quá trình đào tạo luôn yêu cầu có sự biến đổi ( sự cải tiến,
phân quyền cho cơ sở đào tạo, các tác nhân tham gia vào quá trình đào tạo).
Tương tự như khái niệm về chất lượng trong các lĩnh vực khác, chất lượng
giáo dục đại học là khái niệm mở, đa chiều phụ thuộc vào từng góc nhìn của những
bên liên quan đánh giá. Như vậy, để xác định được chất lượng đào tạo ta phải xác
định được những bên liên quan đánh giá. Do đó, Một số tác giả đã trích dẫn từ bài
nghiên cứu của Srikanthan và Dalrymple (2003) , trong đó xác định bốn nhóm đối

tượng có liên quan chính tới việc đánh giá chất lượng giáo dục đó là:
1. Các tổ chức, các nhà tài trợ cho hoạt động giáo dục đại học: Đây chính là
các nhà đầu tư cho giáo dục với mục đích nhận được tỷ lệ sinh lời, giá trị gia tăng
cho họ hoặc cho xã hội sao cho tương xứng với nguồn tài trợ mà họ bỏ ra.

8


2. Nhóm người sử dụng dịch vụ giáo dục (sinh viên): Đối với sinh viên, chất
lượng đào tạo đại học là khả năng cung cấp các dịch vụ đào tạo có chất lượng như
giảng viên giỏi, chương trình đào tạo tốt, trang thiết bị tân tiến để tạo điều kiện tốt
cho họ học tập, rèn luyện, ngoài ra họ đặc biệt quan tâm đến những giá trị mà giáo
dục đại học mang lại cho họ như kiến thức, kỹ năng, phát triển bản thân,...để có khả
năng làm được những công việc trong tương lai và có được lợi thế cạnh tranh trên
thị trường lao động.
3. Nhóm người sử dụng đầu ra của giáo dục đại học (người sử dụng lao
động): Đối với người sử dụng lao động, chất lượng giáo dục đại học được thể hiện
đầu ra, hay chính xác hơn, điều họ quan tâm đến nhất là chất lượng đầu ra. Chất
lượng đầu ra sinh viên tốt nghiệp là mức độ đáp ứng công việc của sinh viên sau khi
tốt nghiệp, nó thể hiện ở năng lực, kiến thức, kỹ năng của sinh viên phù hợp với
nhu cầu của tổ chức để mang lại sự hiệu quả cho tổ chức của họ.
4. Người lao động trong khu vực giáo dục đại học (giảng viên và nhân viên
hành chính). Đối với nhóm người này, chất lượng của giáo dục đại học được thể
hiện ở chất lượng học tập của sinh viên, chất lượng hỗ trợ cho điểm số, các yêu
cầu thỏa mãn một hệ thống tiêu chuẩn của giáo dục đại học.
Như vậy có nhiều bên liên quan trong vấn đề đánh giá chất lượng giáo dục
đại học, những nhóm đối tượng ở các cương vị khác nhau có những ưu tiên khác
nhau khi xem xét về chất lượng giáo dục. Đối với cán bộ giảng dạy và sinh viên thì
ưu tiên của khái niệm chất lượng phải là ở quá trình đào tạo, là cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ cho quá trình giảng dạy và học tập. Đối với nhóm người sử dụng đầu

ra hay những người sử dụng lao động, ưu tiên về chất lượng của họ lại ở đầu ra, tức
là ở trình độ, năng lực và kiến thức của sinh viên khi ra trường. Do đó, khi xem xét
về chất lượng đào tạo đại học ta phải nhìn từ nhiều khía cạnh, nhiều góc độ. Tuy
nhiên để xem xét được chất lượng đào tạo đại học, ta phải hiểu được mục đích của
việc đào tạo đại học.
Về vấn đề này, ông Trần Đức Cảnh - chuyên gia giáo dục Mỹ, Ủy viên Hội
đồng Giáo dục quốc gia và Phát triển nguồn nhân lực (nhiệm kỳ 2016-2021) mục
tiêu chính của giáo dục đại học là đào tạo được một nguồn nhân lực chất lượng,
9


được đào tạo kỹ lưỡng, bài bản để sau này có thể tự tin bước vào thị trường lao
động. Cũng theo Luật giáo dục đại học, một trong những mục tiêu chính của giáo
dục đại học là đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao có khả năng thực hành, khả
năng làm việc độc lập trong công việc,... Như vậy mục đích của giáo dục đại học là
tạo cơ hội cho sinh viên tốt nghiệp phát triển kiến thức và các kỹ năng trong lĩnh
vực chuyên môn của họ hay nói cách khác tạo được “nguồn đầu ra” chất lượng để
đáp ứng được nhu cầu việc làm của người lao động, nhu cầu của người sử dụng lao
động tại các doanh nghiệp,.. mang lại những lợi ích cho kinh tế xã hội, nền khoa
học, nghiên cứu phát triển của nước nhà. Ta có thể nói rằng góc nhìn về chất lượng
đại học là đa chiều, từ nhiều khía cạnh, từ nhiều bên liên quan đánh giá nhưng đánh
giá quan trọng nhất chính là về sản phẩm của giáo dục đại học hay nói cách khác là
về đầu ra. Đây cũng là góc nhìn chính của bài nghiên cứu của chúng tôi, về chất
lượng của sinh viên tốt nghiệp (những người được coi là sản phẩm đầu ra của giáo
dục đại học) dưới góc nhìn của người sử dụng lao động.
1.3. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp
Chất lượng sinh viên tốt nghiệp thường được nhìn nhận như là chất lượng đầu
ra của giáo dục đại học. Như đã đề cập ở trên, “Chất lượng đầu ra” chính là sản
phẩm của giáo dục đại học được thể hiện bằng mức độ hoàn thành công việc của
sinh viên tốt nghiệp. Để đo lường chất lượng đầu ra, mỗi trường đại học sẽ có một

tiêu chuẩn đầu ra riêng về sinh viên tốt nghiệp của họ dựa trên một cơ sở thống nhất
chung của ngành giáo dục. Tuy nhiên, vấn đề đảm bảo đầu ra tại một trường đại học
không chỉ đơn thuần là những con số tính toán mà nó còn đo lường bằng năng lực,
mức độ đáp ứng làm việc thực tế của sinh viên tốt nghiệp tại các doanh nghiệp. Hay
nói cách khác chất lượng đầu ra phải gắn liền với mục đích của việc sử dụng sinh
viên tốt nghiệp của người sử dụng lao động, đó là họ quan tâm đến chất lượng của
người sinh viên tốt nghiệp thể hiện trong quá trình làm việc thực tế. Cụ thể, chất
lượng sinh viên tốt nghiệp có thể được đo lường thông qua năng lực, kiến thức và
kỹ năng sinh viên tốt nghiệp có được và có thể được áp dụng trong môi trường làm
việc. Kiến thức và các kỹ năng mà sinh viên tốt nghiệp sở hữu có thể được xác định
thông qua phản hồi từ nhà tuyển dụng về mức độ hoàn thành công việc của họ. Như
10


vậy, nghiên cứu về chất lượng sinh viên tốt nghiệp dưới góc nhìn của người sử dụng
lao động tại các doanh nghiệp mang tính thực tiễn và khái quát hóa hơn là việc đánh
giá chất lượng đầu ra bằng điểm số và các tiêu chí của nhà trường mang tính lý
thuyết và phần nào không phản ánh đầy đủ chất lượng của sinh viên tốt nghiệp.
Chất lượng nói chung là một khái niệm rất rộng, tùy thuộc vào hoàn cảnh
mà nó được viện dẫn và những người liên quan đánh giá. Trong bài nghiên cứu, để
đánh giá được chất lượng sinh viên tốt nghiệp không phải là một điều dễ dàng. Hiện
nay trên thế giới vẫn chưa có một hình cụ thể đánh giá được hoàn toàn chính xác về
chất lượng sinh viên tốt nghiệp bởi đây là khái niệm rất chung và đôi khi được cho
là mơ hồ. Tuy nhiên đánh giá về vấn đề này là điều có thể làm được, bằng cách
chọn hướng phân tích, góc nhìn để có cái nhìn cụ thể về nó. Góc nhìn chính mà
chúng tôi sử dụng trong bài nghiên cứu là từ góc độ nhà tuyển dụng, người sử dụng
lao động- những người trực tiếp quản lý, theo dõi quá trình làm việc của sinh viên
tốt nghiệp. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp nói chung của thể được hình thành sau
quá trình đào tạo tại môi trường giáo dục đại học, có thể được tích lũy từ những trải
nghiệm, học hỏi từ môi trường làm việc

1.3.1. Chất lượng đầu ra sinh viên tốt nghiệp trong giáo dục đại học
Theo Nguyễn Hữu Châu trong Chất lượng Giáo dục - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn thì cho rằng chất lượng người tốt nghiệp đại học được đánh giá qua các
năng lực về tìm kiếm việc làm; khả năng tự học; khả năng chuyển đổi ngành nghề,
cụ thể gồm 3 yếu tố như sau:
1. Có khả năng tìm được việc làm, tạo được việc làm trong một thị trường lao
động đầy biến động;
2. Có khả năng tự học, tự đào tạo, thường xuyên cập nhập kiến thức của
mình;
3. Có khả năng chuyển đổi ngành nghề, chiếm lĩnh được những trình độ
chuyên môn mới, đó chính là yếu tố của năng lực thích ứng với sự thay đổi nhanh
chóng.

11


Vào năm 2005, một nghiên cứu trên báo tuoitre.vn lại xác định năng lực của
sinh viên tốt nghiệp, qua đó thể hiện được chất lượng của sinh viên bằng cách đánh
giá qua 4 phương diện:
1. Trí tuệ (khả năng làm việc trí óc và sự linh hoạt trong việc sử dụng thời
gian)
2. Động cơ học tập.
3. Phẩm chất xã hội.
4. Phẩm chất nghề nghiệp.
Hay như GS.TS Bùi Mạnh Nhị với nghiên cứu “Vấn đề và xu thế phát triển”
trong hội thảo Quốc tế về Chất lượng đào tạo đã có một cách khác giúp phân chia
năng lực qua đó đánh giá được chất lượng sinh viên qua 4 nhóm kỹ năng sau:
1. Phẩm chất công dân, lý tưởng và kỹ năng sống.
2. Tri thức ( kiến thức chuyên môn , xã hội, tin học, ngoại ngữ ) và nắm bắt
xu hướng, kiến thức mới.

3. Khả năng giao tiếp và đàm phán, khả năng thích ứng với sự thay đổi.
4. Khả năng tổ chức và hoàn thành công việc.
Ví dụ về chuẩn đầu ra của trường Đại học Kinh tế quốc dân 2017 (được tóm
tắt trong bảng 1), gồm ba nhóm tiêu chí chính: Kiến thức, Kỹ năng và Thái độ

12


Bảng 1: Bảng tóm tắt chuẩn đầu ra ngành kinh tế tại Đại học kinh tế quốc
dân (ban hành kèm theo Quyết định số 01/QĐ-ĐHKTQD ngày 03/01/2017)

Tiêu chí
đánh giá

Mục tiêu yêu cầu
Kiến thức - Có nền tảng kiến thức giáo dục đại cương theo chuẩn chương
cơ bản

trình đào tạo Quốc gia ngành kinh tế do Bộ GD&ĐT ban hành;
- Có hệ thống kiến thức cơ bản về kinh tế, quản lý và quản trị
kinh doanh hiện đại;
- Có hiểu biết rộng về lý luận và thực tiễn kinh tế thị trường
trong nước và trên thế giới.

Kiến thức - Nắm vững kiến thức chuyên sâu về kinh tế, quản lý trên cấp
chuyên

độ nền kinh tế, ngành và lĩnh vực tương ứng với chuyên ngành

ngành


đào tạo;
- Nắm vững các phương pháp, công cụ phân tích, hoạch định
và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách và chương trình - dự án phát triển kinh tế - xã hội
trên phạm vi nền kinh tế, ngành, lĩnh vực và địa phương.

Kiến thức

13


Kỹ năng - Có kỹ năng vận dụng hệ thống kiến thức được trang bị để
cứng

phân tích, hoạch định và tổ chứcc, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách và chương trình – dự án phát triển kinh tế - xã hội trên
phạm vi nền kinh tế, ngành, lĩnh vực và địa phương;
- Có kỹ năng phân tích, hoạch định và tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực kinh tế - xã hội;
- Có bản lĩnh nghề nghiệp, có khả năng thích ứng linh hoạt
trước diễn biến của thực tiễn
- Có kỹ năng xác định và giải quyết vấn đề trong phạm vi

Kỹ năng

chuyên môn, sáng tạo trong công việc;
- Có khả năng cập nhật kiến thức, độc lập nghiên cứu và tự học
để đáp ứng yêu cầu của công việc.
Kỹ năng - Có kỹ năng giao tiếp và làm việc theo nhóm;

mềm

- Kỹ năng tin học: Đạt trình độ về tin học theo chuẩn đầu ra
của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là đạt chứng chỉ tin học
quốc tế IC3 hoặc MOS
- Trình độ ngoại ngữ: Trình độ tiếng Anh bậc 3/6 theo khung
năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam

Thái độ

- Có đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp; tôn trọng và chấp
hành pháp luật; có ý thức tổ chức kỷ luật; năng động, nhiệt tình
và có tình thần hợp tác trong công việc;
- Có ý thức cộng đồng và trách nhiệm công dân.

1.4. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp thông qua năng lực dưới góc nhìn
nhà sử dụng lao động
Đối với các nhà sử dụng lao động, nguồn nhân lực là những sinh viên mới tốt
nghiệp ra trường mang lại nhiều lợi thế và có giá trị về mặt lâu dài. Mặc dù sinh
viên mới ra trường họ có rất ít kinh nghiệm làm việc, kỹ năng chuyên môn nhưng
không thể phủ nhận sức trẻ, sự linh hoạt và khả năng phát triển sáng tạo mà họ

14


mang lại. Đó là những nguồn gió mới rất cần để trau dồi, phát triển; để không
những các nhân viên trẻ đó mà cả công ty có thể phát triển theo nhiều hướng đa
dạng với nhiều tiềm năng khác nhau. Vì vậy, việc tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp
không những dễ đào tạo phát triển mà còn đem lại nhiều lợi ích phát triển cho công
ty. Từ mục đích tuyển dụng đó sẽ kéo thêm nhiều vấn đề cần quan tâm như phương

hướng đào tạo, cách thức tổ chức, tuyển dụng của công ty và quan trọng hơn cả là
chất lượng sinh viên qua sự đào tạo, thực tập trong thời gian ngắn ở công ty đó; liệu
họ có đủ năng lực để phát triển khi ở môi trường mới. Từ đó, thể hiện được một
phần chất lượng giáo dục của nhà trường với những kỹ năng, kiến thức cơ bản và
hơn thế là thể hiện được khả năng áp dụng, phát triển của chính bản thân sinh viên
có phù hợp với công việc của công ty hay không. Trong phần mục này nhóm nghiên
cứu muốn đưa ra lý thuyết về hai vấn đề. Một là mục đích sử dụng sinh viên tốt
nghiệp của các nhà tuyển dụng, để làm rõ những lợi thế, năng lực quan trọng để các
sinh viên nắm rõ và áp dụng điều đó phát triển bản thân một cách đúng hướng, đánh
trúng mục đích mà nhà tuyển dụng cần. Hai là chất lượng sinh viên tốt nghiệp dưới
góc nhìn của nhà tuyển dụng, cũng và vấn đề chính của đề tài nghiên cứu, để từ đó
sinh viên và các nhà đào tạo sẽ trau dồi những kỹ năng cần thiết để đáp ứng công
việc, đáp ứng đúng dựa trên mục đích tuyển dụng của các nhà sử dụng lao động.
Trước hết là mục đích sử dụng sinh viên tốt nghiệp từ các nhà sử dụng lao
động. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu đã làm rõ vấn đề này. Các tổ
chức tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp vì họ muốn những người ‘sáng dạ’ (CUCD,
1990) hoặc ‘trí tuệ” (Darby, 1993) để làm việc và mang lại giá trị vượt trội cho tổ
chức của họ. Trên thế giới, một số nghiên cứu đã đưa ra được danh sách các lợi thế
của việc tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp bao gồm những thứ mà sinh viên tốt
nghiệp thể hiện: sự linh hoạt, tham vọng, suy nghĩ logic, học nhanh, động lực cao,
kỹ năng giao tiếp tốt, sáng tạo, trưởng thành, kiến thức chuyên môn, kỹ năng phân
tích, sáng kiến, v.v. (Gordon, 1983).
Một nghiên cứu về chất lượng sinh viên tốt nghiệp đại học, dựa trên nghiên
cứu thực nghiệm và đánh giá tài liệu, cho thấy rằng có bốn lý do cơ bản cho việc
tuyển dụng của sinh viên tốt nghiệp: Kiến thức và ý tưởng mà sinh viên tốt nghiệp
15


mang đến cho một tổ chức; Sự sẵn sàng học hỏi và tốc độ học tập; Tính linh hoạt,
khả năng thích ứng và khả năng đối phó với sự thay đổi của sinh viên tốt nghiệp;

Các kỹ năng về tư duy logic, phân tích, phê phán, giải quyết, tổng hợp vấn đề của
sinh viên tốt nghiệp và tác động của sinh viên tốt nghiệp đối với sự đổi mới.
Bốn lý do cơ bản để tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp trên có thể được coi với
mục đích là sự liên tục tăng cường, nâng cao bao gồm việc sinh viên tốt nghiệp
được thêm vào tổ chức và sau đó là tạo ra sự chuyển đổi trong tổ chức. Càng nhiều
nhân viên là sinh viên tốt nghiệp có thể hoạt động cho doanh nghiệp, sự phát triển
tiềm năng của tổ chức càng lớn.
Những người trả lời trong một nghiên cứu của Gordon (1983) cho rằng sinh
viên tốt nghiệp “mang lại một tinh thần sáng tạo mới cho công việc”, “học hỏi
nhanh, có xu hướng đặt câu hỏi giả định và do đó, có khả năng đối phó với sự thay
đổi nhiều hơn” và “mang lại những sự nhanh nhạy về công nghệ”. Một nghiên cứu
trước đây cũng cho thấy rằng các nhà tuyển dụng đang tìm kiếm nhiều hơn những
sinh viên tốt nghiệp mà không chỉ đơn giản là có khả năng làm được một công việc,
mà điều họ thực sự muốn là những sinh viên tốt nghiệp có thể tạo ấn tượng về cách
thức làm việc trong tổ chức, doanh nghiệp (Harvey, Burrows và Green, 1992).
Ngoài ra, điều tra của nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, chính sinh viên là những người
mang đến, tạo ra những ý tưởng mới mẻ.
Tiếp theo là vấn đề chất lượng sinh viên tốt nghiệp các trường đại học theo
quan điểm của người sử dụng lao động. Chất lượng sinh viên tốt nghiệp được nhiều
nhà nghiên cứu định nghĩa ở những thời điểm khác nhau. Đó có thể là chất lượng
sinh viên ở thời điểm vừa mới ra trường, thể hiện ngay ở kết quả giáo dục đào tạo
của nhà trường. Nhưng cũng có thể là chất lượng sinh viên khi đã tốt nghiệp đi làm
trong thời gian ngắn, điều đó không những thể hiện được kết quả giáo dục của
trường đại học mà còn thêm cả khả năng thích ứng làm việc trong môi trường công
ty. Có nhiều định nghĩa khác nhau về các kỹ năng cần có đối với sinh viên mới tốt
nghiệp đi làm. Harvey và Green (1994) đã chỉ ra các kỹ năng cơ bản cần thiết để
hoàn thành tốt công việc, chia ra thành năm nhóm: Kiến thức; Năng lực tư duy; Khả

16



năng làm việc trong tổ chức hiện đại; Kỹ năng giao tiếp liên cá nhân;Kỹ năng thông
tin.
Để đánh giá được chất lượng sinh viên tốt nghiệp việc đầu tiên là phải xác
định được các kỹ năng mà sinh viên cần có sau khi tốt nghiệp. Rất nhiều nghiên cứu
trên thế giới đã được thực hiện về việc xác định và đánh giá các kỹ năng đó. Theo
Duoc và Mertzger (2006), trong nhiều năm, các nhà giáo dục, người sử dụng lao
động và các cán bộ tại các trường đại học đã rất quan tâm đến chất lượng của sinh
viên tốt nghiệp, bởi vì nhu cầu về việc tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp tại các doanh
nghiệp có sự giảm đáng kể trong thị trường lao động. Do đó đã có rất nhiều nghiên
cứu về vấn đề việc làm, về vấn đề chất lượng của sinh viên tốt nghiệp và sự hài lòng
của người sử dụng sinh lao động đối với những sinh viên đó. Các học giả đã đưa ra
rất nhiều định nghĩa khác nhau về các kỹ năng mà công việc yêu cầu để sinh viên
tốt nghiệp có thể làm tốt công việc của mình, không những có thể đi sâu vào tất cả
các công việc (chiều dọc) mà có thể linh hoạt làm được những công việc trong tất cả
các ngành (chiều ngang) (Harvey & Green, 1994; McDermott, 2006). Điều này diễn
ra là do những thay đổi nhanh chóng diễn ra trong nền kinh tế, tạo ra áp lực cho nhà
tuyển dụng trong việc xác định và tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp- những người mà
sở hữu kỹ năng việc làm quan trọng đối với nhu cầu của doanh nghiệp.
Việc làm sau đại học là một khía cạnh quan trọng của ngành giáo dục đại học.
Nó đánh giá sự thành công và khả năng của một tổ chức trong việc đào tạo được các
sinh viên tốt nghiệp có thể sẵn sàng làm việc trong thị trường lao động. Khả năng
tuyển dụng đã được sử dụng như một chỉ số về hiệu suất cho các tổ chức giáo dục
đại học. Harvey (2001) đã định nghĩa việc làm theo nhiều cách khác nhau từ quan
điểm cá nhân đến quan điểm của tổ chức. Khả năng được tuyển dụng của cá nhân
được định nghĩa là người đó có thể chứng minh được các thuộc tính mình có để có
được việc làm. Thông thường, sự tin tưởng của các doanh nghiệp trong việc chọn
lựa sinh viên của trường đại học được đo lường bằng tỷ lệ việc làm của sinh viên tốt
nghiệp đại học của trường đó. Trước đó, Harvey và Howard (1999) đã gợi ý rằng sự
thành công của sinh viên tốt nghiệp trong công việc phụ thuộc nhiều vào các thuộc


17


tính (năng lực, kỹ năng, kiến thức,...) mà họ có hơn là bằng cấp cấp cụ thể mang
tính hạn hẹp. Hơn nữa, Barrie (2004) chỉ ra rằng các thuộc tính (attributes) tốt
nghiệp chung của sinh viên sẽ liên quan trực tiếp đến kết quả của việc có được
tuyển dụng hay không của sinh viên đó.
Theo Yorke và Knight (2006), kỹ năng sử dụng lao động là tiềm năng mà
một sinh viên tốt nghiệp có được và thành công ở cấp độ đại học. Họ cho rằng các
khía cạnh việc làm có thể được phân loại thành: Phẩm chất con người (ví dụ: tự
nhận thức và tự tin), kỹ năng cốt lõi (ví dụ: phân tích phản biện và sáng tạo), kỹ
năng xử lý (ví dụ: ứng dụng trên máy tính và đối phó với sự phức tạp). Những kỹ
năng này trở thành phương tiện để sinh viên tốt nghiệp có thể bước vào thị trường
lao động. Al-Alwneh (2014) cho rằng sinh viên có việc làm tốt hơn khi họ có được
sự trau dồi và trải nghiệm các hoạt động khác nhau do mỗi hoạt động có nền tảng
kiến thức cần thiết cũng như ngữ cảnh khác nhau, thay vì triển khai các kỹ năng
phẩm chất chung. Khả năng tuyển dụng được coi là hiệu quả hơn khi có được sự
tương tác giữa con người với bối cảnh mà họ được trải nghiệm. Như vậy, một việc
làm có thể coi là chất lượng khi chất lượng nơi làm việc và chất lượng con người
làm việc tốt.
Harvey (2001) định nghĩa việc làm sau đại học là khả năng tốt nghiệp để thể
hiện những phẩm chất mà người sử dụng lao động cần cho các nhu cầu trong tương
lai của doanh nghiệp. Kỹ năng làm việc là một tập hợp các thành tích, hiểu biết, thái
độ/ phẩm chất cá nhân thể hiện cá nhân đó có tiềm năng và có khả năng để được
công việc mong muốn và thành công hơn trong sự lựa chọn nghề nghiệp. Nói
chung, kỹ năng việc làm là những khía cạnh về kỹ năng và kiến thức mà sinh viên
cần phải trang bị để đáp ứng các nhu cầu việc làm đa dạng trong thị trường lao động
sau khi hoàn thành việc học. Các khía cạnh về khả năng việc làm đóng một phần rất
quan trọng trong sự phát triển của sinh viên tốt nghiệp trong tương lai. Chúng là cốt

lõi để họ có thể học tập cao hơn và nâng cao trình độ để cho phép họ được các nhà
quản lý sử dụng thành công trong thị trường việc làm. Ngoài phạm vi kỹ năng và
kiến thức, nhà tuyển dụng cũng đòi hỏi phẩm chất và tính cách tốt từ sinh viên tốt

18


nghiệp. Trong số các yếu tố quan trọng được xem xét là khả năng thích ứng với văn
hóa của công ty và mong muốn học hỏi một cách liên tục (Cai, 2012).
Gần đây, các tổ chức giáo dục đại học dành nhiều sự quan tâm hơn vào khả
năng có việc làm của sinh viên. Theo Ausin (2010), trong các thập kỷ qua, các
trường đại học đã đảm nhận vai trò bổ trợ cho việc dạy và học, nghiên cứu và đổi
mới. Hiệu quả trong giáo dục đại học ngày nay không chỉ được nhìn thấy từ các kỹ
năng của sinh viên của họ mà còn cũng từ các khía cạnh thực tế khác, chẳng hạn
như tỷ lệ vị trí việc làm và sự chuyên nghiệp của sinh viên. Khả năng làm việc là về
cách các cá nhân theo đuổi các cơ hội, cách mà họ phản ánh và chứng minh, thể
hiện các kỹ năng, năng lực của họ (Harvey, Locke, & Morey, 2002; Al-Alawneh,
2014).
Tại Anh, khả năng tuyển dụng vẫn cao trong các chương trình nghị sự của các
tổ chức giáo dục. Rae (2007) ghi nhận rằng việc phân tích chương trình giảng dạy
thông qua những kết nối với các tổ chức, doanh nghiệp là rất quan trọng. Đây cũng
là một thách thức không hề nhỏ bởi vì sự kết nối đó đòi hỏi hỏi phải liên quan đến
tất cả các bên liên quan đến giáo dục đại học (sinh viên, giáo viên nhà trường và
những nhà tuyển dụng). Một nghiên cứu được thực hiện tại Trung Quốc (Guo &
Beatrice, 2008) đã báo cáo rằng hầu hết các tổ chức giáo dục đang cố gắng mở rộng
kiến thức của sinh viên không chỉ từ sách vở mà còn hướng tới việc cung cấp các
"kỹ năng làm việc" thực tế yêu cầu tại các doanh nghiệp. Như thế, chương trình học
sẽ được thiết kế lại bằng cách cho sinh viên tiếp xúc với những kiến thức kinh tế từ
các chương trình đặc biệt.
Một nghiên cứu được thực hiện cho các khóa học tiếp thị nhấn mạnh rằng

các kỹ năng giải quyết vấn đề rất quan trọng trong việc chuẩn bị cho sinh viên tận
dụng các cơ hội có được từ các khóa học capstone và để đáp ứng tốt hơn nhu cầu và
mong đợi của các nhà tuyển dụng tiềm năng(Diamond et al., 2008). Ngoài ra,
Hodges và Burchell (2003) đã khảo sát các nhà tuyển dụng New Zealand Quan
điểm về việc sinh viên tốt nghiệp ngành kinh doanh được chuẩn bị tốt như thế nào
cho công việc của mình. Họ phát hiện ra rằng các nhà tuyển dụng rất chú trọng đến
các kỹ năng mềm của sinh viên tốt nghiệp, khả năng giải quyết vấn đề một cách
19


thấu đáo và hiệu quả với nhu cầu công việc. Họ đưa ra bằng chứng cho thấy các nhà
tuyển dụng tin rằng sinh viên tốt nghiệp có những kỳ vọng không thực tế về cuộc
sống trong môi trường kinh doanh và nói chung là thiếu kỹ năng giao tiếp. Hodges
và Burchell (2003) khuyến nghị rằng các chương trình giáo dục hợp tác có thể giúp
sinh viên hiểu rằng nơi làm việc là nơi họ phải chịu trách nhiệm xác định nhu cầu
học tập của chính mình và sau đó phải làm điều gì đó để thay đổi và thích nghi với
yêu cầu công việc. Andrew và Higson (2008) đã khám phá những quan điểm của
nhà tuyển dụng về khả năng tuyển dụng tốt nghiệp kinh doanh tại bốn quốc gia châu
Âu (Anh, Áo, Slovenia và Romania). Họ phát hiện ra rằng có những điểm tương
đồng đáng chú ý trong quan điểm của người sử dụng lao động về những gì có thể
được gọi là các thành phần cốt lõi về khả năng tuyển dụng trong lĩnh vực kinh
doanh. Các thành phần cốt lõi bao gồm giá trị của kiến thức và kỹ năng cứng liên
quan đến kinh doanh, tầm quan trọng của các kỹ năng mềm, năng lực liên quan đến
kinh doanh và nhu cầu kinh nghiệm làm việc trước đó.
Mặt khác, hai nhà nghiên cứu Ting và Ying (2012) chứng minh rằng các học
viên và học giả có quan điểm tương tự về tầm quan trọng của năng lực của sinh viên
tốt nghiệp trong những kỹ năng viết, kỹ năng nói, kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng tiếp
thu kiến thức, sự trung thực, siêng năng, tháo vát, sự nâng cao giá trị bản thân, khả
năng làm việc nhóm, kỹ năng sáng tạo và kỹ năng tin học. MdSaad, Robani, Jano và
Majid (2013) nhận thấy rằng khả năng giải quyết vấn đề, năng lực xử lý công việc

và kỹ năng thuyết trình được đánh giá cao trong số các kỹ năng mà các nhà tuyển
dụng yêu cầu. MdSaad et al. (2013) bổ sung thêm rằng một nhân viên, người sở hữu
khả năng suy nghĩ chín chắn, hành động logic và đánh giá, phân tích tình huống để
đưa ra quyết định và giải quyết vấn đề, là những yếu tố rất có giá trị cho doanh
nghiệp. Rasul, Rauf và Mansor (2013) chỉ ra rằng các nhà tuyển dụng rất coi trọng
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tư duy và phẩm chất cá nhân mà sinh viên cần tập trung
để được tuyển dụng trong các lĩnh vực. Các học giả trên cũng cung cấp bằng chứng
cho thấy các nhà tuyển dụng nhấn mạnh rằng mọi vị trí trong bất kỳ lĩnh vực kinh
doanh ở bất cứ quy mô nào cũng đòi hỏi một tinh thần làm việc đồng đội.

20


Một nghiên cứu của Salleh, Yusoff, Harun và Memon (2015) tập trung vào
việc xác định các kỹ năng mềm của sinh viên tốt nghiệp được coi là quan trọng của
ngành và để đánh giá mức độ hài lòng của họ đối với mức độ kỹ năng của sinh viên
tốt nghiệp. Kết quả khảo sát nhà sử dụng lao động rằng sự thành thạo trong ngôn
ngữ tiếng Anh (về mặt nói, viết, trình bày bằng miệng và trình bày bằng văn bản)
được đánh giá là kỹ năng quan trọng nhất mà sinh viên tốt nghiệp cần có. Các phát
hiện tiếp tục tiết lộ rằng các nhà tuyển dụng ít hài lòng nhất với các kỹ năng đàm
phán của sinh viên tốt nghiệp và tư duy phân tích và phê bình. Những phát hiện là
hữu ích trong việc xác định rõ được các mong đợi của người sử dụng lao động về
kỹ năng mềm và xác định những khoảng trống tồn tại trong chất lượng về kỹ năng
mềm của những sinh viên tốt nghiệp.
Saad và Majid (2014) đã thực hiện một cuộc khảo sát với 299 nhà tuyển dụng
Malaysia từ các loại cơ quan và tổ chức khác nhau, sử dụng các sinh viên tốt nghiệp
ngành kỹ thuật và công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT). Phát hiện của
họ cho thấy rằng khả năng giải quyết vấn đề, năng lực xử lý công cụ, kỹ năng thuyết
trình và kỹ năng làm việc nhóm rất được các nhà tuyển dụng đánh giá cao như là
các kỹ năng quan trọng đòi hỏi từ sinh viên tốt nghiệp. Trong khi ở Tunisia, Klibi và

Oussii (2013) đã phân tích nhận thức của sinh viên về các kỹ năng cần thiết và cố
gắng đưa họ đến gần hơn với kỳ vọng của nhà tuyển dụng. Họ thấy rằng các nhà
tuyển dụng nhấn mạnh sự cần thiết của sinh viên tốt nghiệp trong việc phát triển các
kỹ năng chung liên quan đến nhận thức đạo đức, giao tiếp, phân tích phản biện và
làm việc theo nhóm. Họ kết luận rằng các trường đại học nên có những sự thay đổi
cần thiết trong việc phát triển các chính sách và khung tiêu chuẩn rõ ràng để thúc
đẩy khả năng về trí tuệ, nhận thức, về xã hội, về việc đào tạo và sự phát triển cá
nhân của các sinh viên tốt nghiệp.
E. Ramadi, S. Ramadi và Nasr (2015) đã khám phá những lỗ hổng giữa kỳ
vọng và thực tế của các nhà sử dụng lao động về bộ kỹ năng của sinh viên kỹ sư.
Họ đã đo lường tầm quan trọng mà các nhà quản lý kỹ sư đặt vào 36 kỹ năng liên
quan đến kỹ sư. Kết quả cho thấy khoảng cách đáng kể giữa sự kỳ vọng và sự hài
lòng của nhà quản lý đối với tất cả 36 kỹ năng. Các nhà quản lý cảm thấy rằng sinh
21


×