Tải bản đầy đủ (.doc) (1 trang)

Dưới thời cai trị Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.1 KB, 1 trang )

Dưới thời cai trị Trung Quốc, Việt Nam được người cai trị Trung Quốc gọi là An Nam (có nghĩa
là Miền nam yên bình theo hy vọng của Trung Quốc). Khi Việt Nam độc lập, nó được gọi là Đại
Cồ Việt, Đại Ngu hay Đại Việt. Năm 1804, vua Gia Long xin phép nhà Thanh đổi tên nước thành
Nam Việt, lý do là thống nhất An Nam và Việt Thường. Để tránh sự hiểu lầm với quốc hiệu của
nhà Triệu và đề phòng việc yêu sách đất đai, vua Càn Long nhà Thanh đảo thứ tự hai từ thành Việt
Nam. Năm 1838, dưới thời Nguyễn, tên nước được đổi tạm thời thành Đại Nam. Dưới thời thực
dân pháp, Việt Nam bị chia thành: Tonkin (Bắc kỳ hay Bắc Việt Nam), Annam (Trung kỳ hay
Trung Việt Nam), và Cochinchine (Nam Kỳ hay Nam Việt Nam)
Thời Kinh Dương Vương: Xích Quỷ khoảng năm 2879 TCN (có nguồn nói là năm 2897 TCN)
Thời Hồng Bàng: Văn Lang
Thời Thục Phán An Dương Vương: Âu Lạc
Thời nhà Triệu: Nam Việt
Thời nhà Hán: chia làm 3 quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
Thời nhà Tiền Lý, năm 542 - 602: Vạn Xuân
Thời nhà Đường: An Nam Đô hộ phủ 618-866, Tĩnh Hải quân 866-967
Thời nhà Đinh - Tiền Lê - Nhà Lý: Đại Cồ Việt 968 - 1054
Thời nhà Lý-nhà Trần: Đại Việt 1054 - 1400
Dưới triều vua Lý Anh Tông, nhà Tống công nhận một quốc gia độc lập, tên An Nam Quốc
Nhà Hồ: Đại Ngu 1400 ("Ngu" nghĩa là hoà bình)
Nhà Hậu Lê - Nhà Tây Sơn: Đại Việt
Nhà Nguyễn: Việt Nam, từ năm 1804
Vua Minh Mạng (1820 - 1840) đổi tên nước là Đại Nam
Tháng 4 năm 1945 đến tháng 8 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc
Việt Nam
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 2 tháng 7 năm 1976 đến nay

×