TAP CHấ KHOA HOĩC, aỷi hoỹc Huóỳ, Sọỳ 47, 2008
TRIT Lí THIN TễNG - MT NI DUNG QUAN TRNG C
CHUYN TI TRONG TH THIN THI NG TNG TRUNG QUC
V TH THIN VIT NAM THI Lí TRN
Trn Th Thanh
Trng i hc Khoa hc, i hc Hu
TểM TT
Trit lý Thin Tụng l mt ni dung ht sc quan trng c th hin trong th Thin
thi ng Tng Trung Quc v th Thin Vit Nam thi Lý Trn. bi vit ny chỳng tụi trỡnh
by hai vn c bn:
1. Nhng vn c bn ca trit lý Thin Tụng
2. Cỏch chuyn ti trit lý Thin Tụng trong th Thin thi ng Tng Trung Quc v th
Thin Vit Nam thi Lý Trn.
nhm lm rừ cỏch th hin nhng trit lý Thin Tụng trong th Thin hai nc ó cú mt thi
k ng vn v cú s nh hng v vn húa qua li ln nhau.
Chuyn ti trit lý Thin Tụng l mt ni dung ht sc quan trng ca th Thin.
õy l cỏch truyn bỏ h thng giỏo ngha. Pht giỏo ly Pht, Phỏp, Tng lm thnh h
thng truyn phỏp, xõy dng o trng, hỡnh thnh hon cnh tu tp v em lý nhp cựng
hnh nhp lm phng phỏp tu tp. Pht giỏo chỳ ý n kinh in gii ngha, vic ngi
yờn nim Pht v nghiờn cu ch quỏn c coi trng. Cũn Thin Tụng ph nhn lý nhp
v hnh nhp, m ra muụn vn phng tin, ly vic ch thng nhõn tõm, bn thõn khụng
vng vo ụ nhim lm nn tng. Cho nờn, vic t ng, t chng chớnh l phng phỏp
ca Thin Tụng. Nhng ngi tu hnh theo phỏi Thin Tụng nhiu khi i qua sui nghe
ting nc chy, ting hũn si chm vo gc cõy u cú th khai ng; thy hoa o bng
n khi mựa xuõn n sau nhng ngy giỏ rột, thy mt tri nhụ lờn dóy nỳi m xa, u cú
th minh tõm; cng cú th nghe ting hột, nhỡn thy cỏi nhng my chp mt, gi pht
t, a tay v vũng trũn, tham cụng ỏn cng ng o. Vỡ vy, cỏc bi th Thin thi
ng Tng Trung Quc v Vit Nam thi Lý Trn u chuyn ti trit lý Thin Tụng.
Nhng trit lý ú chớnh l nhng vn Pht, chõn nh, vụ minh, gii thoỏt, tch dit,
hu vụ, sinh lóo bnh t c chuyn ti trong th Thin.
1. Nhng vn c bn ca trit lý Thin Tụng
Trit lý Thin tụng l li c Th tụn din thuyt c tp hp trong cỏc b kinh
in v quy lut hng thng, v l sinh, tr, d, dit i. Trong rt nhiu giỏo lý ca
nh Pht thỡ T diu , Thp nh nhõn duyờn, Bỏt chỏnh o l nhng trit lý c
bản ngay từ ngày đầu Phật giáo hình thành nhưng lại được phái Thiền Tông tiếp thu đầy
đủ và thể hiện một cách uyên áo rồi ăn sâu vào đời sống nhân dân, gắn chặt với cuộc
sống trần gian, nhiều lúc nó trở thành nguồn an ủi vỗ về về mặt tinh thần của con người.
Tứ diệu đế bao gồm khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Sách “Chỉ trì hội tập âm
nghĩa” nói” “khổ” ở đây có nghĩa là thống não thường bức não bởi hoạn luỵ vô thường,
nên gọi là khổ. Và nói rằng: Vô lượng chúng sinh có ba loại thân khổ là lão, bệnh, tử; ba
loại tâm khổ tham, sân si; ba loại hậu thế khổ là đại ngục, súc sanh, ngạ quỉ. Nói tóm lại
là có tam khổ, bát khổ. Nó chính là hoạn luỵ trong tam giới. Xét kỹ thì thấy sinh tử thực
là khổ nên gọi là khổ đế.
Tập đế: Tập có nghĩa là chiêu tụ, nếu tâm tương ứng với kết nghiệp thì đến thời vị
lai thực năng chiêu tập khổ quả trong tam giới nên gọi là tập đế.
Diệt đế: Diệt tức là tịch diệt. Diệt có nghĩa là diệt vô. Kế nghiệp đã hết thì không
còn sinh tử hoạn luỵ nên gọi là Diệt. Nếu tam giới nghiệp phiền não diệt, tức là diệt đế.
Diệt đế tức như Niết Bàn. Nhân diệt nên quả diệt. Như vậy Niết Bàn thực chất là Tịch
diệt.
Đạo đế: Đạo có nghĩa là năng thông. Chính đạo và trợ đạo hỗ trợ cho nhau để đưa
tới Niết bàn cho nên gọi là Đạo đế. Nói khác đi, Đạo đế chính là con đường đưa người tu
hành đến cõi Niết Bàn - nơi chân như không sinh, không diệt.
“Thập nhị nhân duyên” là nói về trình tự duyên khởi của chúng sinh trong ba đời
và luân hồi trong sáu đường (lục đạo). Mười hai nhân duyên đó là:
1. Vô minh: là phiền não của thời quá khứ vô thuỷ
2. Hành: là nghiệp thiện ác gây ra dựa vào đời quá khứ.
3. Thức: một niệm nương vào nghiệp đời quá khứ mà chịu thụ thai vào đời hiện
tại.
4. Danh sắc: là lúc giai đoạn bào thai dần dần có danh tướng.
5. Lục xứ: là sáu căn. Đây là giai đoạn sáu căn đầy đủ sắp xuất thai.
6. Xúc: là giai đoạn khoảng hai ba tuổi đối với sự vật chưa biết thế nào là sướng,
thế nào là khổ, chỉ muốn tiếp xúc với vật.
7. Thụ: là thời kỳ khoảng 6, 7 tuổi trở đi, dần dần đối với sự vật đã biết phân biệt
sướng khổ mà cảm thụ nó.
8. Ái: là giai đoạn lúc 14, 15 tuổi trở đi, lúc này nảy sinh đủ thứ ái dục rất mạnh
mẽ.
9. Thủ: là giai đoạn lúc trưởng thành về sau. Ái dục thịnh sẽ đuổi theo cái cảnh để
cầu lấy cái sở dục.
10. Hữu: Đó là giai đoạn nương theo phiền não. Ái thủ mà gây ra biết bao nghiệp,
quyết định cái quả tương lai.
11. Sinh: là địa vị nương vào cái nghiệp hiện tại mà thị sinh ở đời vị lai.
12. Lão tử: là đại vị lão tử ở đời sau này.
“Bát chính đạo” tức là đạo của bậc thánh giả gồm: 1. chính kiến; 2. chính tư duy;
3. chính ngữ; 4. chính nghiệp; 5. chính mệnh; 6. chính tinh tiến; 7. chính niệm; 8. chính
định. Đây chính là những con đường dẫn nhà tu hành đến sự đắc đạo.
2. Cách chuyển tải triết lý Thiền Tông trong thơ Thiền thời Đường Tống
Trung Quốc và thơ Thiền Việt Nam thời Lý Trần.
Từ những giáo lý cơ bản của triết lý Thiền Tông, các Thiền thi ở thời Đường
Tống Trung Quốc và thời Lý Trần ở Việt Nam đã đưa những khái niệm của Phật giáo
như: Pháp, Niết Bàn, chân như, sinh, lão, bệnh, tử, nghiệp, mê vọng, sắc, không, hữu, vô,
phiền não, bồ đề, thân, tâm vào trong thơ rất linh hoạt. Trong số những tác phẩm thi ca
hay và đẹp của vườn Thiền, “Chứng đạo ca” là tác phẩm dài, chứa đựng sâu xa Thiền lý
và nổi bật về giá trị văn chương. Tác giả của “Chứng đạo ca” (dài trên 1.800 chữ, làm
theo thể Nhạc phủ) là Đại sư Huyền Giác - người Vĩnh Gia, Chiết Giang, Trung Quốc.
Ông xuất gia từ thuở bé, đọc rộng Tam Tạng kinh điển, tinh thông pháp môn chỉ quán
của tông Thiên Thai. “Chứng đạo ca” là một tác phẩm ở thời Đường có nội dung rất rộng,
chuyển tải được giáo lý của đạo Phật, có kiến giải của Thiền, có yếu quyết cầu đạo, có
lịch sử truyền thừa của Thiền Tông. Toàn bài ca là những kinh nghiệm triệt ngộ của bản
thân nhà sư và đưa ra những lời khuyên răn đối với những người tu đạo. Đoạn đầu của
bài ca viết:
“Quân bất kiến:
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân
Vô minh thực tính tức Phật tính
Ảo hoá không thân tức pháp thân.
Pháp thân giác liễu vô nhất vật
Bản nguyên tự tính thiên chân Phật
Ngũ ấm phù vân không khứ lai
Tam độc thuỷ bào hư xuất một.
Chứng thực tướng, vô nhân pháp
Sát - na diệt khước A - tỳ nghiệp
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sinh
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.”
(Huyền Giác - Chứng đạo ca)
(Anh thấy chăng:
Học thông Phật học bậc tu nhàn,
Chẳng trừ vọng tưởng miễn cầu chân
Thực tính vô minh tức tính Phật
Thân không ảo hoá tức pháp thân.
Pháp thân đã giác không một vật
Nguồn Thiền chân Phật tự tánh còn
Ngũ ấm: mây trôi qua lại lại
Tam độc: bọt nước lúc còn không.
Chứng được thực tướng, pháp nhân không
Sát - na rũ sạch A - tỳ nghiệp
Bằng đem lời vọng dối chúng sinh
Rút lưỡi tự mình sa trần thế.)
Trong đoạn thơ này, tác giả đã kiến giải những khái niệm “vọng tưởng”, “vô
minh”, “phật tính”, “pháp thân”, “tự tính”. Đó là những điều nằm trong triết lý của Phật
giáo Thiền tông.
Cách đưa triết lý đạo Phật vào thơ Thiền thật cao diệu. Tùy từng cảm hứng, tùy
căn cơ của từng người mà cách chuyển tải triết lý Thiền vào thơ một cách khác nhau. Tô
Đông Pha một nhà thơ Trung Quốc rất hâm mộ đạo Thiền lại tìm thấy lời nói chân thật
của Phật ở tiếng suối reo, pháp thân thanh tịnh của Phật chính là ở sắc núi.
“Khê thanh tiện thị quảng trường thiệt
Sơn sắc khởi phi thanh tịnh thân.”
(Tô Đông Pha - Tặng Đông Lâm Trưởng lão)
(Tiếng suối chính là Phật diệu âm
Màu non hiện thì pháp thân tịnh.)
“Quảng trường thiệt” tướng lưỡi dài rộng - chính là biểu tượng của Phật nên tác
giả viết “khê thanh tiện thị quảng trường thiệt” nghĩa là tiếng suối reo chính là lời nói
chân thật của Phật. Vậy, Phật chẳng ở đâu xa. Ở ngay chính cái gì gần gũi ta nhất và
chính Phật ở trong tâm ta. Lời nói của Phật dạy ta nghe văng vẳng như tiếng suối. Pháp
thân của ngài hiển hiện như sắc núi xanh. Cách chuyển tải này rất là thơ nhưng cũng rất
là Thiền. Thật đúng là “dĩ Thiền nhập thi”. Cũng như vậy, Vương Duy, nhà thi Phật nổi
tiếng đời Đường, đã chuyển tải triết lý Thiền vào thơ thật tài tình. Cái qui luật luân hồi
sinh tử của Phật giáo đã được ông đưa vào thơ.
“Nhật nhật nhân không lão
Niên niên xuân cánh qui.”
(Vương Duy - Tống xuân từ)
(Ngày ngày tuổi già đến
Năm qua xuân lại về.)
Đây chính là cảm thức Phật giáo với cái nhìn luân hồi. Cho nên sinh tử là chuyện
đương nhiên không có gì phải lo lắng, hoảng sợ.
“Sinh tử tại bát nghị
Cùng đạt do nhất ngôn.”
(Vương Duy - Ngụ ngôn nhị thủ)
(Chuyện sống chết đều do bát mục
Đạt hay cùng cũng chỉ một lời thôi.)
Hay:
“Dục tri trừ lão bệnh
Duy hữu học vô sinh.”
(Vương Duy - Thu dạ độc toạ)
(Muốn biết trừ lão bệnh
Chỉ có học vô sinh.)
Sinh, lão, bệnh, tử là bốn giai đoạn của đời người phải trải qua. Nó nằm trong “
thập nhị nhân duyên”. Xét dưới quan điểm yên tịnh vĩnh hằng thì cuộc sống kinh nghiệm
cá thể từ khi sinh đến khi chết chỉ là một giai đoạn trong vô vàn đoạn trên con đường đi
tới Niết Bàn. Lẽ đời có thủy thì sẽ có chung, mà vô thuỷ thì sẽ vô chung nên “vô sinh” -
đừng sinh ra thì sẽ chẳng bao giờ có “lão”, “bệnh” và “tử”. Đối với người bình thường
hay u mê thì tồn tại ở cõi đời này là hoan lạc, còn Niết Bàn là nhạt nhẽo. Đối với các bậc
thánh thì tồn tại là đau khổ, Niết Bàn là hoan lạc nên muốn “trừ lão bệnh” thì phải “học
vô sinh”.
Mục đích của thơ Thiền là phản ánh các triết lý của đạo Thiền và các bài học về
cách tu thiền, cho nên đọc bất cứ bài thơ Thiền nào của Trung Quốc và Việt Nam chúng
ta cũng bắt gặp chất Thiền, dù là phát biểu trực tiếp hoặc gián tiếp. Theo sự thống kê của
nhà nghiên cứu Nguyễn Phạm Hùng ở “Văn học Lý Trần nhìn từ thể loại” thì trong 148
đơn vị tác phẩm thơ Thiền đời Lý chỉ có 29 bài là những lời phát biểu trực tiếp các triết lý
Thiền, còn 119 trường hợp thể hiện các triết lý Thiền thông qua các hình ảnh trong tự
nhiên. Chúng ta bắt gặp quan niệm luân hồi của đạo Phật trong “Cáo tật thị chúng” của
Mãn Giác Thiền sư.
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai ”
(Mãn Giác Thiền sư - Cáo tật thị chúng)
(Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Cái già đến trên đầu.)
Đây là qui luật tất yếu, nó mang tính khách quan không ai cưỡng lại nổi. Tuy
nhiên con người đừng có buồn đau trước những điều sinh, lão, bệnh, tử, vì: “Sinh lão
bệnh tử, tự cổ thường nhiên” (Ni sư Diệu Nhân - Sinh lão bệnh tử). Sinh lão bệnh tử là
chuyện thường nhiên từ xưa đến nay. Nó như quy luật của thiên nhiên, xuân đến thì trăm
hoa nở, xuân đi thì trăm hoa rụng. Con người ta có sinh thì tất có tử, có tử thì tất có sinh,
do vậy Thiền sư Vạn Trì đời Lý nói:
“Hữu tử tất hữu sinh
Hữu sinh tất hữu tử.”
(Thiền sư Vạn Trì Bát - Hữu tử tất hữu sinh)
(Có chết tất có sinh
Có sinh tất có chết.)
Quan niệm Phật giáo cho rằng, nghiệp sinh tử trong vũ trụ là vô thường, mau lẹ,
giống như hạt sương trên đầu ngọn cỏ.
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô.
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.)
(Thiền sư Vạn Hạnh - Thị đệ tử)
(Thân như bóng chớp có rồi không.
Cây cối xuân tươi thu não nùng.
Nhậm vận thịnh suy đừng sợ hãi.
Kia kìa ngọn cỏ hạt sương đông.)
Sự vô thường, biến động là tất yếu trong cuộc sống của con người, nó cũng chính
là tính tất yếu của pháp tướng trong quan niệm của đạo Phật. Tuy nhiên, người đời bị vô
mình che lấp thì sẽ thấy sợ hãi, còn bậc tu hành đã đạt tới trình độ “nhậm vận” rồi thì sẽ
biết trở về với tự tính, an nhiên nằm trong sự vận động của bản thể - một sự vận động
vĩnh cửu trường tồn, trong đó cuộc đời của mỗi con người ngắn ngủi như ánh chớp, lúc
có rồi lại không, sống và chết như mặc áo vào cởi áo ra
“Sinh như trước sam.
Tử như thoát khổ.”
(Trần Thánh Tông - Sinh tử )
(Sống như mặc áo vào
Chết như cởi áo ra.)
Vì vậy chớ sợ hãi mà phải lạc quan yêu đời bởi vì cuộc sống là sự sinh sôi nảy nở,
trong cái chết cái tàn lụi đã có sự ươm mầm của lẽ sống.
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
(Mãn Giác Thiền sư - Cáo tật thị chúng)
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua xuân trước nở nhành mai.)
Rất nhiều bài thơ Thiền trong văn học Lý Trần phát biểu quan niện sinh tử, sắc
không, tâm pháp, hữu vô, chân tính. Thiền sư Từ Đạo Hạnh đời Trần khi mới xuất gia
còn mang nặng cái tự ngã, ông đã gặp Thiền sư Kiều Trí Huyền để tham vấn chân tâm.
“Cửu hỗn phàm trần vị thức kim
Bất tri hà xứ vị chân tâm.
Nguyện thuỳ chỉ đích khai phương tiện
Liễu kiến như như đoạn khổ tầm.”
(Từ Đạo Hạnh - Vấn Kiều Trí Huyền)
(Phàm trần lăn lóc vàng thau lẫn
Chân tâm chẳng biết ở nơi nào.
Mong người chỉ đích mở phương tiện
Để thấy “như như” đỡ khổ tìm.)
Và Kiều Trí Huyền đã chỉ cho ông tới con đường chân tâm ngắn nhất. Đó là:
“Cá trung mãn mục lộ Thiền tâm
Hà sa cảnh thị Bồ đề đạo
Nghĩ hướng Bồ đề cách vạn tầm.”
(Kiều Trí Huyền - Đáp Từ Đạo Hạnh chân tâm chi vấn)
(Trong mắt tràn đầy Thiền tâm lộ
Hà sa cảnh ấy đạo Bồ đề
Đừng nghĩ cõi Phật xa vạn dặm.)
Như vậy bản thể, chân tâm đâu phải ở nơi xa trừu tượng nào, mà nó tràn đầy trong
con mắt của nhân sinh. Nó trộn lẫn với trần tục như cát sông Hằng. Chỉ cần con người có
cái tâm Thiền, khi giác ngộ thì bản thể thần diệu ấy tưởng là hư không nhưng hàng ngày
lại hiển hiện khoe bày khắp hằng hà sa thế giới. Khi con người giác ngộ là nhìn đúng
chân tâm, thực tướng nên nhận thức được đúng qui luật của cuộc đời:
“Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiện nhậm suy di.”
(Viên Chiếu - Tâm không)
(Thân như tường vách có lúc suy
Đời người vội vã ai chẳng bi
Nếu đạt tâm không, sắc không nốt
Sắc không ẩn hiện tự dời đi.)
Đúng như Bách Trượng Hoài Hải Thiền sư đời Đường từng nói:
“Tâm địa nhược không
Tuệ nhật tự chiếu.”
(Nếu tâm địa là không
Mặt trời tuệ tự chiếu.)
Khi tâm không thì ánh sáng tuệ chiếu rõ, lúc đó ta thấy “sắc”, “không” ẩn hiện
mặc nó đổi dời, cũng như cái “có” và cái “không”, “cái hữu” và “cái vô” mà đạo Phật
thường nhắc tới. Thiền sư Đạo Hạnh đã nói đến cái có và không ở trong bài “Hữu vô”:
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thuỷ nguyệt
Vật trước hữu không không.”
(Đạo Hạnh - Hữu vô)
(Làm có thì cát trần là có
Làm không thì nhất thiết đều không
Có không như trăng soi mặt nước
Chớ bảo rằng có có lại không không.)
Tìm đến sự tuyệt đối để phân biệt giữa cái có và cái không thì là nhị kiến. Phật
giáo nói, mọi cái là vô thuỷ vô chung, pháp tướng vô thường. “Vạn vật trong vũ trụ này
cùng chung một bản thể. Cùng một bản thể mà lại biến hoá và biểu hiện dưới muôn vàn
dạng thức khác nhau, những dạng thức ấy luôn biến động, luôn luôn thay đổi và được gọi
là pháp tướng vô thường” [3,54]. Đúng vậy! sinh lão bệnh tử, sinh trụ dị diệt, thành trụ
hoại không, không có gì là tồn tại vĩnh viễn nó luôn thay đổi trong từng khoảnh khắc nên
không là sắc và sắc cũng là không.
“Sắc thị không, không tức sắc
Không thị sắc, sắc tức không.”
(Lê Thị Ỷ Lan - Sắc không)
(Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không.)
Hay
“Đoạn tri không hữu bất tương sai
Sinh tử nguyên đồ nhất phái ba.
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt.
Tân niên hoa phát cố niên hoa
Tân sinh điều hốt chân phong chúc
Cửu giới tuần hoàn thị nghi ma.
Hoặc vấn như hà vi cảnh
Ma-ha-bát-nhã Tát-bà-ha.”
(Trần Tung - Đốn tỉnh)
(Đoán biết hữu không chẳng xa nhau
Sống chết vốn sinh cùng đợt sóng
Trăng đêm qua là trăng đêm nay
Hoa năm mới vốn hoa năm cũ
Đuốc soi trước gió tựa tam sinh
Miệng cối kiến bò ấy cửu giới
Ai hỏi cứu cánh như hà vi
Tát-bà-ha, Ma-ha-bát nhã.)
Bài “Đốn tỉnh” - chợt tỉnh của Trần Tung đời Trần đã chuyển tải được khá nhiều
triết lý đạo Thiền thông qua các thuật ngữ “hữu”, “vô”, “sinh”, “tử”, “tam sinh”, “cửu
giới” và vòng luân hồi chuyển vận thông qua các hình ảnh trăng sáng đêm qua cũng là
trăng của đêm nay; hoa nở năm mới cũng chính là hoa năm cũ; ba kiếp luân hồi của đời
người (kiếp trước, kiếp này, kiếp sau) chỉ như ngọn đuốc trong gió; chín cảnh giới phân
ra từ tam giới tuần hoàn như kiến bò trên miệng cối xay bột.
Nói về chân và huyễn tác giả Lã Định Hương cũng có bài “Chân dữ huyễn”:
“Bản lai vô xứ sở
Xứ sở thị chân tông
Chân tông như thị huyễn
Huyễn hữu tức không không.”
(Lã Định Hương - Chân dữ Huyễn)
(Đạo vốn không xứ sở
Xứ sở ấy chân tông
Chân tông như là huyễn
Huyễn hữu tức là không.)
Tính triết lý, tính truyền giáo của thơ Thiền thời Đường Tống ở Trung Quốc và
thời Lý Trần ở Việt Nam là không thể phủ nhận. Quan niệm về sự luân hồi, về sắc không,
về vô tướng, về hùng lực siêu phàm, về sự chuyển động từ cái nọ sang cái kia đã được
thể hiện trên cái nền cơ bản là sự trực cảm tâm linh vượt khỏi tầng không gian suy luận
và nhận thức lý trí khiến cho thơ cũng chuyển tải được triết lý của phật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Tùng Bách, Thơ Thiền Đường Tống, NXB Đồng Nai, 1999.
2. Nguyễn Phạm Hùng, Văn học Lý Trần nhìn từ thể loại, NXB Giáo dục, 1996.
3. Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Văn học Việt Nam TKX - nửa đầu TK XVIII, NXB
Giáo dục, Hà Nội (1998).
4. Dusetzteitaro Suzuki, Thiền Luận (Quyển thượng, quyển trung, quyển hạ), NXB
TP. Hồ Chí Minh, 2001.
5. O.O.Rozewberg, Phật giáo những vấn đề triết học, Trung tâm tư liệu Phật học
xuất bản, Hà Nội, 1990.
6. Thơ văn Lý Trần (tập 1, tập 2, tập 3), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, 1978,
1989.
7. Đoàn Thị Thu Vân, Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỷ
X - thế kỷ XIV, Trung tâm nghiên cứu quốc học và Nhà xuất bản Văn học, 1996.
THE PHILOSOPHY OF ZEN BUDDHISM – AN IMPORTANT CONTENT
TRANSFERRED IN ZEN POETRY OF TANG AND CONG DYNASTIES OF
CHINA AND THAT OF LY – TRAN DYNASTIES IN VIETNAM
Tran Thi Thanh
College of Sciences, Hue University
SUMMARY
The philosophy of Zen Buddhism is a very important content that is expressed in Zen
poetry of Tang and Cong dynasties of China and that of Ly Tran dynasties of Vietnam.
This research presents two basic issues:
1. Some basic issues of the philosophy of Zen Buddhism.
2. The transference of the philosophy of Zen Buddhism in Zen poetry of Tang and Cong dynasties
of China and that of Ly Tran dynasties of Vietnam aims at clear expression of the philosophy of
Zen Buddhism in Zen poetry of two countries that had the same culture and had mutual influence
on culture.