Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 161 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DIỆU LINH

VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành

: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử

Mã số

: 9 22 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. PHẠM VĂN ĐỨC

HÀ NỘI - 2018
1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận án tiến sĩ triết học với đề tài “Vấn đề khai thác nội lực
và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân dưới sự
hướng dẫn nghiên cứu của GS.TS. Phạm Văn Đức. Các số liệu, tài liệu trích dẫn và tài
liệu tham khảo trong luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.


TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Diệu Linh

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ..................................................................................................................................5
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận về khai
thác nội lực và khai thác ngoại lực..............................................................................5
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực ở
Việt Nam hiện nay .......................................................................................................16
1.3. Những công trình nghiên cứu về các giải pháp khai thác nội lực và ngoại
lực ở Việt Nam .............................................................................................................21
1.4. Nhận định chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực đề tài ............26
Chƣơng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC .........29
2.1. Khái niệm và mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực.........................29
2.2. Vai trò của nội lực và ngoại lực đối với sự phát triển của một quốc gia................46
2.3. Kinh nghiệm khai thác nội lực, ngoại lực của một số nước trên thế giới...............59
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .........................................................................................................72
3.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam
hiện nay.........................................................................................................................72
3.2. Thực trạng khai thác nội lực ở Việt Nam hiện nay................................................80
3.3. Thực trạng khai thác ngoại lực ở Việt Nam hiện nay...........................................100
Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHAI THÁC NỘI
LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...............................................124

4.1. Phương hướng cơ bản trong khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện
nay...............................................................................................................................124
4.2. Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn nội lực.........................126
4.3. Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn ngoại lực.....................138
KẾT LUẬN ................................................................................................................148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................151
3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự lực, tự cường là một trong những đức tính quý báu của con người Việt
Nam. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dựa vào sức mình là chính,
khai thác sức mạnh nội lực luôn luôn là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của dân
tộc. Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận được vai trò
quan trọng của yếu tố ngoại lực - những tinh hoa về văn hóa, khoa học công
nghệ hiện đại, trình độ quản lý của thế giới, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài những yếu tố vô cùng cần thiết cho quá trình phát triển nhanh và bền vững của
đất nước trong giai đoạn hiện nay. Bởi vậy, phát huy dân chủ, khơi dậy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước
là bài học mà chúng ta luôn coi trọng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Chính sách đổi mới toàn
diện là một bước đột phá tạo đà phát huy các nguồn nội lực, khơi thông ngoại
lực, làm cho sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên rất nhiều. Đất nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo tiền đề quan trọng để đẩy
nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh

tế phát triển chưa bền vững. Bởi vì, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững
chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng, khai thác các
nguồn lực (nội lực và ngoại lực) còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải.
Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng,
chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo
dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp gây
bức xúc trong xã hội. Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh
tế. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được
quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa
phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng
1


vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Việc khai thác, tiếp nhận những
nguồn lực từ bên ngoài vào để "đi tắt đón đầu" như vốn, khoa học công nghệ...
chưa thực sự hiệu quả. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố
gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Con đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta cũng đang đặt ra
nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết trên tất cả các lĩnh vực. Đổi mới là cần
thiết, hội nhập là tất yếu, nhưng đổi mới làm sao để khai thác tối đa các nguồn
nội lực của quốc gia và hội nhập phải trên cơ sở khai thác hiệu quả các nguồn
ngoại lực. Bởi vậy vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực như thế nào, mối quan
hệ giữa khai thác nội lực và khai thác ngoại lực ra sao đang là mảng lý luận mở
cho các nhà khoa học tập trung nghiên cứu để bổ sung vào lý luận phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
và nhiều biến động của thế giới hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá mà trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đang
tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến mọi quốc gia, dân tộc,

thì không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được mà lại tách biệt, cô
lập với thế giới. Mở cửa, hội nhập, chủ động gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá
là đòi hỏi tất yếu, nhưng cũng chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và phát
huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển. Nhận thức sâu sắc
tính tất yếu và cơ hội đó, Đảng ta luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong những bài học
kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã đưa ra một trong các quan
điểm phát triển quan trọng là: “Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng
thời chủ động hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài để phát triển nhanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển
mạnh doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân, làm động lực nâng
cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế” [34, tr.270, 271].
Với tất cả những lý do trên, tác giả luận án đã chọn “Vấn đề khai thác nội
lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2


- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ các khái niệm về nội lực và ngoại lực cũng như những
đặc điểm của đất nước trong giai đoạn hiện nay, luận án tập trung phân tích,
đánh giá những mặt thành tựu cũng như hạn chế của quá trình khai thác các
nguồn nội lực và ngoại lực, từ đó đề xuất những giải pháp khai thác, sử dụng có
hiệu quả hơn các nguồn lực ấy.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận án phải giải quyết một số nhiệm vụ sau:
Một là, khái quát tổng quan chung về các công trình nghiên cứu liên quan
đến nội lực và ngoại lực, vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực hiện nay.
Hai là, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về nội lực và ngoại lực.

Ba là, phân tích làm rõ thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt
Nam hiện nay.
Bốn là, đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả
hơn các nguồn nội lực và ngoại lực của đất nước.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về đối tượng nghiên cứu: đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là vấn đề
khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay.
- Về phạm vi nghiên cứu: đề tài xác định khảo sát ở góc độ triết học dựa
trên các mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, về vai trò của con người
đối với xã hội, với lịch sử, về vị trí, vai trò của việc khai thác các nguồn nội lực
và ngoại lực tạo động lực phát triển đất nước.
Để định hướng cho quá trình nghiên cứu, đề tài xác định nghiên cứu trong
lãnh thổ Việt Nam, với các nguồn nội lực sẵn có và các nguồn ngoại lực đã và
đang tác động đến Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, từ năm 1986 đến nay. Cụ
thể là các nguồn nội lực và ngoại lực như: nguồn lực con người, văn hóa, tài
nguyên thiên nhiên, vị thế địa chính trị, khoa học - công nghệ, vốn đầu tư vào
Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài còn
sử dụng một số phương pháp sau: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp lôgíc, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp quy nạp và diễn dịch.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
3


- Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của những người đi trước,
luận án sẽ đi sâu phân tích làm rõ về mặt lý luận khái niệm nội lực và ngoại lực
cũng như mối quan hệ giữa khai thác nội lực và ngoại lực.
- Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực của
đất nước hiện nay, tác giả sẽ tập trung chỉ ra những tiềm năng chưa khai thác

được ở các nguồn lực, đồng thời đưa ra một số giải pháp tăng cường việc khai
thác có hiệu quả hơn các nguồn lực này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Thực hiện chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, cung cấp các
luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với những kết quả nghiên cứu như trên,
luận án sẽ góp phần làm phong phú hơn những lý luận về quan điểm, đường lối
của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định các chủ chương, chính sách liên
quan tới việc khai thác các nguồn nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước
trong tình hình mới.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác
nghiên cứu về vấn đề khai thác các nguồn lực trong nước, là tài liệu tham khảo
bổ ích cho các giờ giảng của giáo viên khi dạy về phần chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, và là tài liệu bổ ích cho những bạn đọc quan
tâm về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương 13 tiết.

4


Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Ở bất cứ một quốc gia nào, vấn đề sử dụng, khai thác và phát huy sức mạnh
nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội luôn thu hút được sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu.

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận
về khai thác nội lực và khai thác ngoại lực
1.1.1. Về khái niệm nội lực và ngoại lực
- Khái niệm nội lực:
Định nghĩa về nguồn lực trong nước, nhà nghiên cứu Trần Văn Chử nhấn
mạnh giới hạn xác định các nguồn lực, cho rằng:
“Nguồn lực trong nước là các nguồn lực chỉ có khả năng khai
thác, sử dụng nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Các nguồn lực đó bao
gồm: lao động, khoa học và công nghệ, vốn và tài nguyên thiên
nhiên, cùng với các yếu tố nguồn lực mang tính chính trị xã hội thể chế chính trị, cơ chế chính sách, truyền thống và tính cộng
đồng, kinh nghiệm quản lý” [14, tr.32].
Trong bài “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng
và phát triển đất nước hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Phúc - Viện Triết học,
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam ngày 7-5-2012, tác giả đã phân tích khá sâu sắc khái niệm sức mạnh dân
tộc. Tác giả cho rằng khái niệm sức mạnh dân tộc đồng nhất với khái niệm nội
lực:
“Sức mạnh dân tộc hay nội lực của một dân tộc, một quốc gia
chính là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của
dân tộc, quốc gia đó. Những lợi thế, những nguồn lực này bao
hàm trong toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội;
chúng là tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, là tổng thể
những giá trị vật chất, tinh thần, truyền thống văn hoá,... Sức
mạnh dân tộc, vì thế là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của một dân tộc. Như vậy, sức mạnh dân tộc, nội lực
5


của chúng ta bao gồm cả những nguồn lực, những tiềm lực tự

nhiên và xã hội” [83].
Từ đó, tác giả Nguyễn Văn Phúc xác định nguồn nội lực có thể xác định
trên hai bình diện là nguồn lực tự nhiên và nguồn lực xã hội. Trên bình diện
nguồn lực tự nhiên, Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lí, giao thông, có bờ biển
dài rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển; lâm sản, hải sản, khoáng sản tuy
không thật nhiều nhưng khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, những nguồn lực
tự nhiên, tự nó, chỉ tồn tại như là tiềm năng. Vấn đề là làm sao khơi dậy, huy
động được những nguồn lực, những lợi thế đó trong phát triển. Trên bình diện
nguồn lực xã hội, Việt Nam cũng có những ưu thế về mặt văn hoá và con người.
Có thể nói, đó là những nguồn lực nội sinh giữ vị trí trung tâm của phát triển;
bởi con người với những sức mạnh về văn hoá, chính là chủ thể của sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước, là chủ thể của sự khai thác, huy động và hợp
nhất các lợi thế, các nguồn nội lực khác.
Nguyễn Văn Hoà trong bài viết “Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội lực”
đăng trên Tạp chí Triết học, số 3, 2008 đã phân tích quan điểm của Phan Bội
Châu về những yếu tố cấu thành nội lực của đất nước: Thiên thời, địa lợi, nhân
hoà là các yếu tố cấu thành nội lực. Các yếu tố đó có quan hệ mật thiết với nhau,
trong đó nhân hòa là yếu tố đóng vai trò quyết định. Bên cạnh đó, tri thức cũng
là thành tố quan trọng của nội lực [49].
Bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong phòng,
chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay"
của nhà nghiên cứu Phạm Thanh Sơn in trên Tạp chí Khoa học quân sự (tháng
8-2010) đã nêu lên các yếu tố cấu thành sức mạnh dân tộc “là kết quả tổng hợp
của các tiềm lực kinh tế, chính trị, tinh thần, văn hoá… của một dân tộc, của một
quốc gia, được biểu hiện ở năng lực huy động, kết quả khai thác và sử dụng hiệu
quả các tiềm lực ấy vào nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”. Tuy nhiên,
tác giả phân tích tiếp, "các tiềm lực kinh tế, chính trị, tinh thần, văn hoá…, tự
bản thân nó chưa bao hàm hết sức mạnh dân tộc; bởi dân tộc vừa được hiểu theo
nghĩa "chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung sinh
hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, văn hoá có những đặc thù”, vừa được hiểu theo

nghĩa "chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh
thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống
nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn
hoá và truyền thống đấu tranh chung trong quá trình lịch sử lâu dài dựng nước
6


và giữ nước”. Dù được hiểu theo nghĩa nào thì dân tộc và quốc gia cũng không
tách rời nhau, sức mạnh quốc gia có cội nguồn từ sức mạnh dân tộc, đồng thời
hun đúc, liên kết sức mạnh dân tộc, tạo nên sự bền vững của sức mạnh quốc gia.
Vì vậy, phát huy sức mạnh dân tộc ở nước ta hiện nay là phát huy nguồn nội lực
của quốc gia, từ sức mạnh vật chất đến sức mạnh tinh thần, văn hoá, khoa học công nghệ…, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện thắng lợi
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường, củng cố quốc phòng, an
ninh, xây dựng và kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng và thế trận quốc phòng với thế
trận và lực lượng an ninh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các
thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" [91].
Trong bài “Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt
Nam”, tác giả Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Tokyo) đưa ra một yếu tố cấu
thành nội lực của đất nước: “Nội lực, nếu hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm
khả năng của chính phủ trong việc hoạch định kế hoạch, chính sách phát triển và
khả năng quản lý, sử dụng vốn nước ngoài” [104].
Trong cuốn Những nguồn lực (Sách tham khảo) của tác giả E.F.
Schumacher, Anh Quế dịch, Nhà xuất bản Lao động ấn hành năm 1994, tác giả
đã phân tích các nguồn lực trong một đất nước và nhấn mạnh cần sử dụng tốt
các nguồn lực trong xã hội để đẩy mạnh phát triển kinh tế. Nguồn lực đầu tiên là
nền giáo dục, sử dụng đất đai hợp lý, nguồn lực cho nền công nghiệp, năng
lượng hạt nhân, sử dụng công nghệ mới [40].
Bên cạnh đó, có một số bài nghiên cứu cũng đề cập đến khái niệm nội lực
như: Suy nghĩ thêm một số yếu tố trong các nguồn nội lực của tác giả Nguyễn
Quang Luyện thuộc Viện Kinh tế học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn

quốc gia, đăng trên Tạp chí Hoạt động khoa học, số 4, năm 1999; Nguồn nội lực
của dân tộc, Văn Hùng, Tạp chí Thương mại, số 17, 2006.
- Khái niệm ngoại lực:
Bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong phòng,
chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay"
của tác giả Phạm Thanh Sơn in trên Tạp chí Khoa học quân sự (tháng 8-2010)
cho rằng: “Sức mạnh thời đại là khái niệm chỉ các thành tựu do con người sáng
tạo ra theo các quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, theo đó
thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội” [91].
Trong bài viết Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt
Nam của tác giả Trần Văn Thọ (Giáo sư kinh tế, Đại học Waseda, Tokyo) trên
7


cơ sở tập trung vào các nguồn lực như vốn, công nghệ và tri thức quản lý, kinh
doanh, tác giả đưa ra cái nhìn biện chứng giữa nội lực và ngoại lực trong các
nguồn lực: Tri thức quản lý và năng lực kinh doanh có thể gọi chung là nguồn
lực kinh doanh (managerial resources). Nguồn vốn (capital resources), công
nghệ và nguồn lực kinh doanh là những biểu hiện cụ thể của từ lực trong nội lực
và ngoại lực. Các nguồn lực này được vận dụng qua hoạt động của các doanh
nghiệp. Do đó, nội lực và ngoại lực vừa có thể được đánh giá trên bình diện vĩ
mô (vị trí của hai nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân) vừa có thể được đánh
giá qua kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn trong nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư của nước ngoài.
Đặc biệt, bàn sâu về nội lực và ngoại lực, trong bài "Kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc" của Nguyễn Ngọc
Hồi trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân (tháng 5 - 2014), tác giả đã phân biệt cho
chúng ta thấy sự giống và khác nhau giữa các khái niệm: nội lực, sức mạnh bên
trong, sức mạnh dân tộc và ngoại lực, sức mạnh bên ngoài, sức mạnh thời đại.
Trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX), vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với

sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc chưa đứng riêng thành một quan điểm độc
lập, mà được xem xét trong mối quan hệ giữa nội lực với ngoại lực, giữa sức
mạnh trong nước với sức mạnh bên ngoài (điều kiện quốc tế). Tại quan điểm thứ
năm, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) xác định: “ra sức phát huy nội lực,
đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài”; đồng thời
nhấn mạnh ở quan điểm thứ ba: “Sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định”. Ở
đây, dường như “nội lực” - yếu tố bên trong của đất nước, được xem là “sức
mạnh dân tộc”; và “thuận lợi ở bên ngoài”, hay là yếu tố bên ngoài - ngoại lực,
được xem là “sức mạnh thời đại”. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ, chưa toàn diện.
Với nhận thức biện chứng hơn, sâu sắc hơn nội hàm “sức mạnh của dân
tộc” và “sức mạnh của thời đại” trong so sánh với yếu tố nội lực - bên trong và
yếu tố ngoại lực - bên ngoài, Nghị quyết số 28-NQ/TW (khóa XI) không chỉ đặt
vấn đề “phát huy nội lực” và “kết hợp phát huy nội lực với tranh thủ tối đa mọi
thuận lợi từ bên ngoài”, mà còn bổ sung thêm mệnh đề “Phát huy sức mạnh của
dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại”. Rõ ràng ở đây, sức mạnh của dân
tộc không chỉ là sức mạnh nội lực và không chỉ bó hẹp ở sức mạnh bên trong,
bởi nó còn bao gồm cả một phần ngoại lực cần được huy động cho sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là nguồn lực to lớn về vật chất và tinh thần, chất xám
cùng nguồn lực tài chính và tấm lòng hướng về cội nguồn của hơn 4,5 triệu
8


người Việt Nam ở nước ngoài, vốn đã được coi “là một bộ phận không tách rời
của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Do vậy, “sức mạnh của dân tộc” có nội hàm
rộng hơn “nội lực” và “sức mạnh bên trong”; nó “thể hiện ở sức mạnh tổng hợp
cả về vật chất và tinh thần. Đó là sự phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền
vững; sức mạnh quốc phòng toàn dân ngày càng hiện đại; sự ổn định chính trị xã hội vững chắc; bản sắc văn hóa dân tộc không ngừng được phát huy; sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân
dân”. Còn sức mạnh của thời đại cần phát huy cũng không hoàn toàn chỉ là các
yếu tố bên ngoài - ngoại lực, mà còn bao gồm cả một phần yếu tố bên trong - nội

lực. Sự kiên định của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - mục tiêu được hình thành do có yếu tố thời
đại - trong đường lối chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đâu phải là ngoại lực,
mà đó chính là nội lực, là sức mạnh bên trong, nhưng lại được gắn kết nhuần
nhuyễn với yếu tố thời đại, yếu tố bên ngoài. Tương tự khi chúng ta kiên định
thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài - thành phần kinh tế do yếu tố thời đại đem lại - được coi là một
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, được khuyến khích phát
triển. Đó chính là sức mạnh bên trong, sức mạnh nội lực, nhưng lại chứa đựng ở
đó những yếu tố ngoại lực, của thời đại. Trên tầm tư duy biện chứng như vậy,
Nghị quyết 28-NQ/TW (khóa XI) không đồng nhất “sức mạnh dân tộc” với “sức
mạnh nội lực, sức mạnh bên trong”; không đồng nhất “sức mạnh thời đại” với
các yếu tố “từ bên ngoài”, mà tiếp cận vấn đề một cách toàn diện hơn và khoa
học hơn, khi vừa khẳng định “Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp
với sức mạnh của thời đại”, vừa nhấn mạnh bộ phận căn bản nhất, nòng cốt nhất
của sức mạnh dân tộc là nhân tố nội lực giữ vai trò quyết định.
Như vậy, về khái niệm nội lực và ngoại lực, còn có cách hiểu khác nhau,
chủ yếu đồng nhất nội lực với sức mạnh dân tộc, ngoại lực với sức mạnh thời
đại. Tác giả đồng tình với quan điểm của Nguyễn Ngọc Hồi trong bài "Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc" khi
có sự phân biệt giữa các khái niệm: nội lực với sức mạnh dân tộc, sức mạnh bên
trong; ngoại lực với sức mạnh thời đại, sức mạnh bên ngoài. Tuy nhiên nội dung
bài viết trên chỉ xoay quanh vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
9


1.1.2. Về vai trò của khai thác nội lực và ngoại lực đối với sự phát triển
của đất nước

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định:
"Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng
thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng
để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh
tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
sâu rộng và có hiệu quả" [33, tr.102].
Trong cuốn sách “Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2012, các
tác giả Phạm Ngọc Anh (chủ biên), Ngô Xuân Dương, Lê Thị Hằng đã trình bày
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy các nguồn lực của dân làm lợi
cho dân. Phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp chủ yếu vận dụng, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân
trong công cuộc đổi mới.
Với quan điểm cho rằng sự đồng lòng, chung sức của nhân dân là một yếu
tố quan trọng tạo nên sức mạnh nội lực của dân tộc, Phan Bội Châu cho rằng,
lòng người có quyền nắm tất cả thiên thời địa lợi. Vận thời sẽ trở về và thành
công sẽ đến, khi mọi người đồng lòng chung sức. Nội dung này được tác giả
Nguyễn Văn Hoà phân tích trong bài “Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội lực”
đăng trên Tạp chí Triết học, số 3, 2008.
Trong bài "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc” trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân (tháng 5-2014), tác giả
Nguyễn Ngọc Hồi đã chỉ ra: sự kết hợp giữa nội lực và ngoại lực phải theo tinh
thần “phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc”, lấy việc “phát huy nội lực là
nhân tố quyết định” trong khi tận dụng tối đa những thuận lợi từ bên ngoài. Đây
chính là sự quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết
mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại, mà theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải nêu cao tinh thần “tự
lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Dựa vào sức mình là chính đòi hỏi
phải chăm lo xây dựng nội lực, phát huy sức mạnh dân tộc. Điểm mới mà Nghị

quyết 28-NQ/TW (khóa XI) nhấn mạnh không chỉ là phát huy sức mạnh dân tộc
nói chung, mà là “phát huy cao nhất” sức mạnh đó. Điều này là cần thiết và khả
thi, khi mà thế và lực của đất nước được nâng lên rất nhiều so với trước đây;
10


đồng thời, tiềm năng sức mạnh dân tộc còn lớn, chưa được phát huy có hiệu quả
cao. Thêm nữa, trong bối cảnh quốc tế đầy biến động, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất
trắc, khó lường, yêu cầu “phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc”, “phát huy
nội lực là nhân tố quyết định” không chỉ thể hiện tinh thần tích cực, chủ động,
không trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài của chúng ta, mà còn là điều kiện để chúng
ta tiếp nhận có hiệu quả các yếu tố ngoại lực do xu thế thời đại đem lại. Hơn thế,
có phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội lực, chúng ta mới giữ
vững được độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại,… để trên cơ sở đó chủ động chuyển hóa sức
mạnh ngoại lực thành sức mạnh nội lực. Phát huy cao nhất sức mạnh của dân
tộc, coi phát huy nội lực là nhân tố quyết định, đòi hỏi phải chăm lo xây dựng và
phát huy cao độ các yếu tố tạo thành sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội lực.
Cuốn sách Dân chủ hóa và phát huy nội lực của tác giả Hồ Bá Thâm do
Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành. Nội dung cuốn sách phân tích dân chủ ở
Việt Nam; tiến trình, tính chất và trình độ phát triển; vấn đề phát huy vai trò
động lực dân chủ; vấn đề dân chủ hóa và phát huy nội lực. Đó là cái nhìn triết
học chính trị trong dòng chảy triết học nhân văn và triết học phát triển mà tác
giả đã bàn tới.
Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam của
tác giả Trần Văn Thọ, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2006
nêu ra quan điểm Đông Á là khu vực năng động nhất trên địa cầu hiện nay.
Cuốn sách này trả lời các câu hỏi trên và tập trung phân tích hầu hết các vấn đề
liên quan đến công nghiệp hoá, đề khởi các chiến lược, chính sách, biện pháp
nhằm tăng sức cạnh tranh của kinh tế Việt Nam để đối phó hữu hiệu với các

thách thức và tận dụng các cơ hội phát triển ở vùng Đông Á. Công nghiệp hoá
và công bằng xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá và thời đại công nghệ thông tin,
lợi thế so sánh động, công nghiệp phụ trợ, nội lực và ngoại lực, liên kết hàng
dọc và hàng ngang giữa doanh nghiệp trong nước với các công ty đa quốc gia,
chiến lược khám phá và tiếp cận thị trường, tinh thần doanh nghiệp, đạo đức
kinh doanh,... là những chủ đề được bàn đến trong tầm nhìn về con đường công
nghiệp hoá Việt Nam.
Giáo sư Phan Huy Lê đã nhấn mạnh vai trò của yếu tố ngoại lực: “Đóng
góp thêm vào nội lực tiềm tàng đó, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình,
Việt Nam còn tranh thủ được sức mạnh của thời đại, sự ủng hộ của dư luận quốc
tế, của nhân dân các nước kể cả nhân dân nước đi xâm lược”, bài viết "Sức
11


mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại sẽ làm nên thắng lợi", Báo Công lý online cơ quan ngôn luận của Tòa án nhân dân tối cao, ngày 19-5-2014.
Bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong phòng,
chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay"
của tác giả Phạm Thanh Sơn in trên Tạp chí Khoa học quân sự (tháng 8-2010)
đã phân tích sức mạnh của thời đại mà chúng ta đang sống hiện nay gắn liền với
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, tạo ra những tiền đề vật chất,
tinh thần trong đấu tranh vì hoà bình dân tộc, tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong đấu tranh phòng,
chống "diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay là
quá trình tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, huy động và sử dụng tốt nhất các
nguồn nội lực và ngoại lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp, chủ động đối phó và
làm phá sản âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình” trên các lĩnh vực chính trị
tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, quốc phòng an ninh... của các thế
lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phân tích về vai trò của sức mạnh thời đại, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Phúc viết: Mặc dù có vai trò quyết định, nhưng sức mạnh dân tộc hay nội lực

không phải là tất cả. Sẽ là hạn chế và khiếm khuyết nếu không biết đến những
nguồn lực bên ngoài, những sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển, bài
viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát
triển đất nước hiện nay", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 7-5-2012.
Tác giả Nguyễn Nam Thắng đã phân tích trong bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh
về thi đua yêu nước và việc phát huy nội lực bảo vệ Tổ quốc hiện nay": Thực
tiễn phát triển của dân tộc ta qua mấy nghìn năm lịch sử đã chứng tỏ sức mạnh
to lớn về tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta, giúp dân tộc ta vượt lên
mọi khó khăn, thách thức giành những thành tựu vẻ vang trong công cuộc dựng
nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tốt đẹp đã khẳng định tầm cao
nhân cách, chiều sâu văn hóa của mỗi công dân đối với Tổ quốc; đồng thời là
sức mạnh tiềm tàng, nội sinh thường trực trong lòng dân tộc; là nguồn lực không
bao giờ cạn trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Đây còn là đặc trưng tiêu
biểu về nhân cách của con người Việt Nam, là một trong những động lực quan
trọng nhất góp phần gắn kết cộng đồng, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy đất nước phát triển.
"Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay" của tác giả Trần Quang
12


Cơ, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 4 - 2005 nêu: Từ tính chất thời đại sâu
sắc và ý nghĩa quốc tế to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng
ta xác định rõ tầm quan trọng to lớn của những nhân tố bên ngoài đối với cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta và ta có khả năng tranh thủ
được các nhân tố đó để gia tăng sức mạnh của dân tộc lớn gấp bội. Không tận
dụng được các nhân tố bên ngoài, không vận dụng được sức mạnh của các lực
lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới ủng hộ ta thì có thể nói, kháng chiến
khó giành được thắng lợi, hoặc phải đấu tranh rất trầy trật và không thể thắng lợi
hoàn toàn. Tất nhiên, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta giành được

thắng lợi hay không chủ yếu là do quyết tâm của nhân dân ta, do sức mạnh của
quân đội ta, của dân tộc ta, nhưng yếu tố quốc tế cũng quyết định một phần lớn.
Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn và hết sức sáng tạo, nên đã vận
dụng được tối đa các nhân tố quốc tế, phát huy được sức mạnh thời đại ủng hộ
nhân dân ta chống Mỹ thắng lợi.
Ngoài ra, có nhiều bài viết, sách báo nêu lên vai trò của nội lực đối với sự
phát triển của đất nước như: "Malayxia trông cậy vào sức mạnh và nguồn lực
của chính mình" của Phương Ly đăng trên Tạp chí Đông Nam Á, số 3, 2005;
"Nội lực Việt Nam" của Trần Thanh Đạm, Tạp chí Xưa và nay, số 236, 2005;
"Vốn hóa các tài sản trong dân - Vấn đề quan trọng để huy động các nguồn lực
cho đầu tư" của Đan Đức Hiệp, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 149, 2009;
"Quản lý ODA trong giáo dục ở Việt Nam: Nâng tầm ngoại lực" của Nguyễn
Hữu Hiếu, Tạp chí Tài chính, số 4, 2007; "Nội lực vẫn là yếu tố quyết định" của
Lê Hải, Tạp chí Đầu tư chứng khoán, số 286, 2005.
1.1.3. Về mối quan hệ giữa khai thác nội lực và khai thác ngoại lực
Bài viết "Kết hợp sức mạnh với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát
triển đất nước hiện nay", nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Phúc - Viện Triết học,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 7-5-2012, phân tích mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại: Với tư cách là nguồn lực của phát triển, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại là thống nhất. Tuy nhiên, việc huy động và kết hợp hai nguồn lực này trong
thực tế là có một vấn đề mà nếu không giải quyết hợp lý thì hiệu quả sẽ không
cao. Đó là cách tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc, xem nhẹ sức mạnh thời đại hay
ngược lại, tuyệt đối hoá sức mạnh thời đại, xem nhẹ sức mạnh dân tộc đều là
cách nhìn nhận phiến diện và bất lợi cho phát triển.
13


Khi tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc, người ta cho rằng, chỉ những nhân tố
bên trong là trực tiếp quyết định sự phát triển của sự vật. Bởi vậy, nếu quá chú ý

đến sức mạnh thời đại có nghĩa là hạn chế việc phát huy các yếu tố nội lực; là lệ
thuộc vào nước ngoài, dễ dẫn tới mất độc lập và mất bản sắc trong phát triển.
Ngược lại, quan điểm tuyệt đối hoá sức mạnh bên ngoài lại được biện minh bằng
tính quy định của thời đại đối với phát triển. Một dân tộc khó có thể phát triển
mạnh nếu đứng ngoài những tác động của yếu tố thời đại. Những giá trị thời đại
là những giá trị hình thành trong quá trình hiện đại hoá đã dẫn đến những thành
công, đặc biệt là những thành công về kinh tế, công nghệ ở các nước phát triển.
Chúng mang ý nghĩa phổ quát và đặc trưng cho thời đại. Hiện đại hoá xã hội, do
vậy, không thể xem nhẹ tính quy luật này; không thể không coi trọng và tiếp
nhận những nguồn lực, những giá trị mang tính quốc tế, tính thời đại. Nếu chỉ chú
ý đến nội lực, tuyệt đối hóa nội lực, thì sẽ rơi vào bảo thủ, biệt lập, trì trệ, tụt hậu.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan
hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái giai cấp, cái dân tộc và cái nhân loại phổ
biến, có thể khẳng định rằng, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại có
mối quan hệ biện chứng. Trong quan hệ này, việc phát huy sức mạnh dân tộc là
có ý nghĩa quyết định, là cơ sở để mở rộng và tăng cường việc tranh thủ một
cách có hiệu quả sức mạnh thời đại, và ngược lại, việc tận dụng sức mạnh thời đại
là nhân tố không thể thiếu để phát triển và khơi dậy tiềm năng, sức mạnh dân tộc.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không khi nào xem nhẹ ngoại lực, sức mạnh thời đại, nhưng Người luôn nêu cao
tinh thần "tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Dựa vào sức mình là
chính đòi hỏi phải đẩy mạnh việc tạo dựng nội lực, phát huy sức mạnh dân tộc.
Sức mạnh dân tộc bao gồm cả những nguồn lực tự nhiên, kinh tế, văn hoá, con
người,... Do vậy, việc phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi không chỉ đẩy mạnh
tạo dựng, phát triển từng nguồn lực với tư cách là yếu tố cấu thành sức mạnh
dân tộc, mà còn đòi hỏi kết hợp các yếu tố đó thành một hợp lực. Nói cách khác,
yêu cầu phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi phát triển đồng bộ các thành phần,
các yếu tố của nội lực, sức mạnh dân tộc. Chủ động và tích cực xây dựng nội lực
không chỉ có nghĩa là làm gia tăng bản thân nội lực, mà còn có nghĩa là tạo ra
điều kiện để tiếp nhận ngoại lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng,

muốn người ta giúp mình thì trước hết mình phải tự giúp mình đã. Phải đẩy
mạnh xây dựng lực lượng bản thân mới tạo ra được "thế" và "lực" để tiếp nhận
sự giúp đỡ từ bên ngoài. Hơn thế, từ bình diện chính trị có thể thấy, có xây dựng
14


và phát huy được sức mạnh dân tộc hay nội lực mới bảo đảm giữ vững được độc
lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh,... Đại hội Đảng
lần thứ XI khẳng định: "Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí
độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế”. Độc lập, tự chủ chính là
yêu cầu sống còn, là bản sắc, lẽ sống của dân tộc ta.
Trong điều kiện hiện nay, những thành quả mà nhân loại đạt được trong thế
giới hiện đại là những yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển đất nước
ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (2011) và Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 đã khẳng định rằng, mục tiêu của chúng ta
là làm sao đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đó, một mặt, đòi hỏi phải hiện đại hoá các yếu
tố thuộc sức mạnh dân tộc hay nội lực, mặt khác, đòi hỏi phải chủ động tích cực
tiếp như các yếu tố sức mạnh thời đại hay ngoại lực, hiện đại tiêu biểu cho thời
đại. Vốn nước ngoài, công nghệ hiện đại cùng những giá trị văn hoá tinh thần
gắn liền với công nghệ hiện đại là nguồn ngoại lực, sức mạnh thời đại cần thiết
cho sự phát triển đất nước hiện nay. Các yếu tố ngoại lực đó chính là tác nhân
quan trọng không thể thiếu để hiện đại hoá đất nước. Nhưng, như đã phân tích,
những vấn đề ngoại lực chỉ có thể phát huy tác dụng khi được tiếp nhận và
chuyển hóa thành sức mạnh bên trong, thành nội lực. Về vấn đề này, Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng viết: "Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta, ta
khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta”. Đó
chính là biện chứng của quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Như vậy, biện chứng của quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa sức mạnh

dân tộc và sức mạnh thời đại dẫn đến yêu cầu là: tăng cường và phát huy những
sức mạnh dân tộc cho phát triển, tạo cơ sở và điều kiện để tiếp nhận những sức
mạnh của thời đại. Đồng thời chủ động và tích cực tiếp sức thời đại, dân tộc hoá
chúng, biến chúng thành sức mạnh bên trong cho phát triển. Thực hiện đồng bộ
và hiệu quả hai yêu cầu đó sẽ tạo ra hợp lực, sức mạnh tổng hợp cho sự phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bài “Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội lực” của Nguyễn Văn Hoà đăng
trên Tạp chí Triết học số 3, 2008, đã phân tích quan điểm rất tiến bộ của cụ Phan
Bội Châu: Tăng cường sức mạnh nội lực không có nghĩa là đóng kín, khước từ
sự giúp đỡ ở bên ngoài; trái lại, phải biết mở rộng và tăng cường tận dụng các
yếu tố của nguồn lực bên ngoài để nhân lên sức mạnh của mình - sức mạnh nội
15


lực. Nguồn lực trong nước không tách rời với nguồn lực nước ngoài và trong
mối quan hệ giữa hai nguồn lực này, Phan Bội Châu khẳng định, nguồn lực
trong nước - nội lực là cái giữ vai trò quyết định; còn ngoại viện, một trong
những yếu tố của nguồn lực nước ngoài - ngoại lực chỉ làm thanh thế cho nội lực
mà thôi; lực lượng bên ngoài phải thông qua lực lượng bên trong mới phát huy
được tác dụng của nó. Như vậy, ở đây, Phan Bội Châu đã nhận thức được vị trí,
vai trò và sức mạnh của nội lực, cũng như nhận thức được mối quan hệ giữa tự
lực, tự cường và viện trợ của nước ngoài.
Phát huy nội lực từ nguồn sức mạnh của tinh thần dân chủ và quyền lực
nhân dân, của ý chí tự lực, tự cường và kết hợp với tranh thủ khai thác mọi
nguồn lực bên ngoài là một trong những chủ trương lớn của Phan Bội Châu
nhằm tăng cường thực lực để vũ trang bạo động, diệt trừ dị tộc, giành lấy chính
quyền về tay nhân dân, xoá bỏ tận gốc chính thể quân chủ xấu xa, lập nên chính
thể dân chủ cộng hoà tốt đẹp. Tư tưởng hướng đến một xã hội mới cao hơn xã
hội phong kiến đương thời đã có tác dụng kích thích, khuyến khích mọi người
phát huy sức mạnh vì sự sống còn và tương lai của đất nước.

Ngoài ra còn có một số bài viết đề cập đến vấn đề này như: "Kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong tình hình mới" của Nguyễn Hùng Sơn
in trên Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 83 (tháng 12 - 2010); Phát huy nội lực,
tranh thủ các nguồn lực quốc tế để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước của Hồ Văn Vĩnh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12, 2005; Tư tưởng Hồ Chí
Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Lưu Ngọc Khải,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6, 2013.
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng khai thác nội lực và
ngoại lực ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Thực trạng khai thác nội lực
Cuốn sách People resoursing (Nguồn lực con người) của tác giả Stephen
Taylor, do Học viện Cán bộ và phát triển (Chartered Institute of Personnel and
Development) ở Anh ấn hành năm 2006. Nguồn lực con người là sách giáo khoa
hàng đầu cho các mô đun nguồn lực con người CIPD và được liên kết chặt chẽ
với các tiêu chuẩn CIPD. Nó cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về vấn
đề quản lý nguồn nhân lực như thu hút các ứng cử viên tốt nhất, giảm số lượng,
tăng năng suất lao động của nhân viên thông qua hướng dẫn thực tế và nền tảng
lý thuyết. Tác giả Stephen Taylor cũng có một cuốn sách hay là Resoursing and
talent management (Nguồn lực và quản lý tài năng) xuất bản năm 2010.
16


Trong bài "Đổi mới tư duy về nguồn lực và động lực phát triển kinh tế" của
nhà nghiên cứu Ngô Doãn Vịnh - Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển đăng
trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 11, 2008, tác giả đã phân tích những vấn đề
đặt ra từ nhận thức đến phương cách tiếp cận mới trong quá trình khai thác và
sử dụng nguồn lực và tạo dựng động lực ở Việt Nam:
+ Các nguồn lực chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Chính sách
đối với bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên chưa thoả đáng.
+ Trong khi Việt Nam thiếu điện, phải nhập từ Trung Quốc thì chúng ta

xuất khẩu than sang Trung Quốc mà không dành để phát triển nhiệt điện.
+ Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học
nhưng những nguồn tài nguyên này chưa được nghiên cứu khai thác thoả đáng.
+ Việt Nam là quốc gia không nhiều đất nông nghiệp, nhưng tình trạng làm
nhà xưởng chỉ có một tầng tràn lan khắp nơi, gây ra tình trạng tốn nhiều đất cho
phát triển công nghiệp và dịch vụ. Trong khi quỹ đất để phát triển đô thị không
nhiều, khó đến nỗi mà người ta đòi mở rộng Thủ đô Hà Nội, nhưng không có
chủ trương xây dựng các nhà chung cư cao tầng một cách có kế hoạch hữu ích
mà cứ để nhân dân tự xây dựng nhà ở cá nhân tràn lan, hoặc không có chủ
trương bắt các doanh nghiệp phải xây dựng nhà cao tầng đối với những trường
hợp có thể như các lĩnh vực sản xuất hàng điện tử, hàng may mặc...
Việt Nam đang rất thiếu nhân tài, nhưng có rất nhiều người đi học ở nước
ngoài xong không về nước phục vụ và cống hiến. Nhiều người chạy ra khỏi cơ
quan nhà nước, đi làm cho các công ty nước ngoài hoặc công ty trong nước có
chế độ đãi ngộ tốt hơn. Việc Việt Nam thu hút nhân tài từ nước ngoài không
kèm theo cơ chế chính sách nên vẫn chỉ là ý tưởng.
Trong cuốn Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất
ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2007, nhà
nghiên cứu Phạm Công Nhất đã phân tích thực trạng phát huy nhân tố con người
ở nước ta hiện nay. Tác giả chỉ ra rằng Việt Nam là một trong những quốc gia có
dân số đông, đó là một thuận lợi cho việc huy động nguồn nhân lực, song, thị
trường lao động Việt Nam cũng đang đứng trước nghịch lý "dồi dào những vẫn khan
hiếm", thiếu đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, thiếu thợ giỏi đáp
ứng sự phát triển của nền kinh tế.
Trong cuốn Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của tác giả Vũ Hy Chương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002,
với cách nhìn hệ thống, tác giả đã phân tích, đánh giá từng nguồn lực theo nguồn
17



gốc xuất xứ, theo số lượng và chất lượng, theo cách thức, giải pháp được huy
động, xem xét đến các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác; dự báo khả
năng, xu hướng diễn biến, đưa ra các giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
“Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm bảo đảm tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Võ Văn Đức, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, năm 2009, đã phân tích về vị trí, vai trò, tiềm năng của các
nguồn lực, thực trạng khai thác và sử dụng các nguồn lực đó vào quá trình phát
triển kinh tế của đất nước.
"Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế" của tác giả Võ Văn Thắng (Tạp chí Triết học, số 2,
2013), trên cơ sở luận giải thêm về nội hàm khái niệm trí thức, phân tích thực
trạng đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời gian qua, tác giả bài viết đề xuất
những giải pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Bài viết dẫn lời
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức: "Để
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020, cần phát huy tối đa mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt
là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức". Tác giả phân tích thực trạng số lượng,
chất lượng, cơ cấu của đội ngũ trí thức nước ta trong những năm vừa qua, các
công trình khoa học đóng góp của đội ngũ trí thức nước nhà và những hạn chế
của trí thức Việt Nam về ngoại ngữ, văn hóa ứng xử, giao lưu quốc tế.
Bài “Huy động nguồn lực về vốn, chất xám của người Việt Nam ở nước
ngoài”, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở
nước ngoài Nguyễn Phú Bình đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2, 2007
nêu lên tiềm năng to lớn của nguồn lực về vốn, chất xám của người Việt Nam ở
nước ngoài. Trong số gần 3 triệu người Việt Nam sinh sống định cư ở nước
ngoài, ước tính có khoảng 300.000 người được đào tạo ở trình độ đại học và
công nhân kỹ thuật bậc cao, có kiến thức cập nhật về văn hóa, khoa học và công
nghệ, về quản lý kinh tế. Trong đó có nhiều người đạt được vị trí quan trọng

trong các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện, công ty kinh doanh của
các nước và các tổ chức quốc tế.
Tiềm lực khoa học và công nghệ của các thế hệ người Việt Nam ở nước
ngoài không ngừng phát triển, trong đó một thế hệ tri thức mới người nước
18


ngoài gốc Việt đang hình thành và phát triển, nhất là ở các nước Bắc Mỹ, Tây
Âu và châu Đại Dương. Đội ngũ này tập trung ở nhiều lĩnh vực khoa học chuyên
ngành và kinh tế mũi nhọn như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo
máy, điều khiển học, sinh học, quản lý kinh tế, ngân hàng, chứng khoán...
Thế mạnh của đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài là được đào
luyện, tiếp cận môi trường khoa học công nghệ tiên tiến và hiện đại, tiếp cận và
nắm bắt được phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô và chuyên ngành. Họ có khả
năng phát kiến sáng tạo, có năng lực tổng hợp thông tin, tư vấn đề xuất và tạo
dựng mối quan hệ với các cơ sở khoa học, cơ sở kinh tế ở nước sở tại. Từ trước
đến nay, đội ngũ trí thức kiều bào vẫn được các cơ quan chức năng trong nước
đánh giá là thế mạnh của cộng đồng, là một nguồn lực có thể góp phần tích cực
cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, vài năm
gần đây, lực lượng này cũng biến động mạnh, một số vừa tham gia hoạt động
kinh tế vừa nghiên cứu khoa học, một số khác thì chuyển hẳn sang kinh doanh,
không còn làm chuyên môn như đã được đào tạo.
Luận án Tiến sĩ Triết học Phát huy nguyồn lực thanh niên trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, LATS Triết học: 5.01.03,
của Nguyễn Thị Tú Oanh: Đánh giá vai trò của nguồn lực thanh niên với sự phát
triển xã hội. Thực trạng của nguồn lực thanh niên hiện nay. Các nguyên nhân
yếu kém và bài học kinh nghiệm cùng phương hướng giải pháp chủ yếu để phát
huy quyền lực thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ Triết học của Nguyễn Thị Tùng Lâm Vấn đề khai thác và

sử dụng một cách hợp lý nguồn lực tự nhiên và nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, năm 2005. Trên cơ sở phân tích
mối quan hệ giữa nguồn lực tự nhiên và nguồn lực con người, thực trạng khai
thác và sử dụng hai nguồn lực này, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm khai
thác và sử dụng hợp lý nguồn lực tự nhiên và nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
1.2.2. Thực trạng khai thác ngoại lực
Cuốn sách Thu hút và sử dụng ODA vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế ở
Việt Nam của tác giả Phạm Thị Túy, Nxb. Chính trị quốc gia, 2010, đã cung cấp
một cái nhìn tổng quát về tình hình thu hút và sử dụng ODA cho phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế ở nước ta thời gian qua. Với rất nhiều số liệu được cập nhật,
19


phân tích một cách rõ ràng, tác giả đã chỉ ra được những đóng góp của ODA đối
với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thời gian qua, đặc biệt thông
qua việc nâng cao chất lượng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế. Đặc biệt, tác giả
cũng chỉ ra và phân tích nguyên nhân của một số tồn tại gây nhiều bức xúc trong
dư luận về sử dụng vốn ODA hiện nay.
Để tìm hiểu về thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam, trong đó có sự
tác động của khoa học - công nghệ tiên tiến của thế giới, có cuốn sách Phát triển
thị trường khoa học - công nghệ Việt Nam của PGS. TS. Phạm Văn Dũng, Nxb.
Chính trị quốc gia, 2010.
Cuốn sách Những điều cần biết về Nhật Bản và kinh nghiệm giao tiếp
thương mại với người Nhật của tác giả Trần Anh Phương, Nxb. Chính trị quốc
gia, 2009, đã phân tích những kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình giao lưu,
ứng xử, giao tiếp thương mại với người Nhật - đất nước dẫn đầu trong viện trợ
ODA cho Việt Nam trong những năm qua. Để thu hút và sử dụng tốt hơn các
nguồn ngoại lực, ngoài việc tuân thủ những quy tắc, quy định thương mại thì
một yêu cầu không kém phần quan trọng là chúng ta phải nắm được những thói

quen, kỹ năng cơ bản trong giao tiếp thương mại của đất nước đầu tư vốn.
Nghiên cứu kỹ vấn đề này sẽ giúp nâng cao khả năng tiếp cận và khai thác tốt
hơn những nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam, không chỉ của Nhật Bản mà còn
của rất nhiều tổ chức, các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Tác giả Phạm Đình Hạnh với bài viết Thu hút vốn đầu tư nước ngoài phát
triển hạ tầng giao thông vận tải theo hình thức PPP, Tạp chí điện tử Giao thông
vận tải, ngày 6-5-2016 đã phân tích nhu cầu đầu tư trong lĩnh vực giao thông
vận tải, cơ hội, thách thức trong thu hút FDI vào lĩnh vực giao thông vận tải và
gợi mở xu hướng đầu tư theo hình thức PPP.
Ngoài ra có thể kể đến các công trình khoa học như: cuốn Nguồn lực và
động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam của nhà nghiên cứu Lê Du Phong, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà
Nội, xuất bản năm 2006; Dương Thế Phương với bài Đầu tư trực tiếp nước
ngoài nguồn ngoại lực quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình
Dương, đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước, số 9, 2004; Chuyển hoá ngoại lực
thành nội lực để kinh tế Đồng Nai phát triển bền vững, Tạp chí Kinh tế và Dự
báo, số 422, 2008; Huy động và sử dụng nguồn lực cho đầu tư phát triển. Những
chuyện vui, buồn... của Hoàng Minh đăng trên Tạp chí Tài chính, số 1, 2005.
20


1.3. Những công trình nghiên cứu về các giải pháp khai thác nội lực và
ngoại lực ở Việt Nam
Cuốn Kinh nghiệm khai thác các nguồn lực trong công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Nhật Bản của nhà nghiên cứu Hồ Văn Thông chủ biên, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2000, thông qua việc phân tích những
thành tựu cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nhật Bản, tác giả đã nêu
ra những kinh nghiệm trong việc khai thác các nguồn lực của Nhật Bản, từ vai
trò của chính phủ với các chính sách, thiết chế sử dụng, phát huy các nguồn lực,
vai trò của các nhân tố văn hóa và xã hội, kinh nghiệm nhập khẩu công nghệ,

khai thác nguồn lực khoa học, thông tin, thị trường, việc sử dụng các nguồn lực
trong các doanh nghiệp Nhật Bản.
Luận án Tiến sĩ kinh tế "Chính sách khai thác nội lực phát triển kinh tế
trong phong trào Saemaul Hàn Quốc và những bài học kinh nghiệm đối với Việt
Nam" của Lee Jung Sook nghiên cứu phong trào Saemaul ở Hàn Quốc, đặc biệt
vai trò của chính phủ và sự hưởng ứng của nhân dân đối với thành công của
phong trào từ đó tìm ra bài học kinh nghiệm có thể áp dụng vào điều kiện Việt
Nam nhằm thực hiện thành công công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nông thôn
Việt Nam.
Cuốn sách Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội do nhà nghiên cứu
Lê Hữu Tầng chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản năm
1997. Tác giả đã đưa ra hệ thống các động lực của sự phát triển xã hội, đặc biệt
tập trung nghiên cứu tính tích cực của con người và những phương hướng tác
động để chúng ta có thể khơi dậy, nuôi dưỡng, phát huy tính tích cực đó (như
việc quan tâm đến các nhu cầu và lợi ích: kinh tế, chính trị - tư tưởng, văn hóa,
môi trường tâm lý - xã hội, niềm tin, khoa học) nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Trong bài "Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế", tác giả Võ Văn Thắng (Tạp chí Triết
học, số 2, 2013), cũng nêu lên một số giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức Việt Nam như: đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, có
chính sách phù hợp thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo môi trường thuận
lợi cho đội ngũ trí thức nghiên cứu, làm việc, đặc biệt là một môi trường dân
chủ, tự do thực sự, tránh đố kỵ, hẹp hòi, ích kỷ để họ sáng tạo khoa học, tham
gia giải quyết những vấn đề lớn của xã hội từ góc độ khoa học. Từ đó chúng ta
mới phát huy được mọi tiềm năng cá nhân, nhóm, tổ chức để họ gắn bó lâu dài
21


với công việc, khắc phục tình trạng “dịch chuyển chất xám” hay “chảy máu chất

xám”. Và giải pháp quan trọng là phải có chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn
vinh trí thức một cách thiết thực.
Cuốn sách Động lực và tạo động lực phát triển xã hội của nhà nghiên cứu
Hồ Bá Thâm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004 đã xem xét
động lực dưới nhiều góc độ. Tác giả cho rằng động lực nằm trong quan hệ mâu
thuẫn và phát triển biện chứng và là sản phẩm của chính sự vận động.
Đổi mới tư duy về nguồn lực và động lực phát triển kinh tế của nhà nghiên
cứu Ngô Doãn Vịnh - Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển đăng trên Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, số 11, 2008, đưa ra những kiến nghị đổi mới tư duy về
nguồn lực và động lực trong thời kỳ phát triển tới. Cần có nhận thức mới theo
chiều hướng thực tế, thiết thực hơn, kết hợp định tính với định lượng trong đánh
giá nguồn lực và động lực phát triển; làm cho nguồn lực và động lực mang giá
trị đúng của nó để phát triển đất nước nhanh, có chất lượng và bền vững. Cụ thể
như sau:
Đối với nguồn lực: Những thứ được coi là nguồn lực phải là những thứ
được sử dụng hoặc có khả năng sử dụng trong thời kỳ dự kiến phát triển. Tiềm
năng chưa đưa được vào sử dụng hoặc chưa có khả năng đưa vào sử dụng thì
chưa được xem là nguồn lực. Các nguồn lực được xem xét dưới nhiều góc độ.
Có nghĩa là dưới nhiều góc độ, người ta chia các nguồn lực thành các loại khác
nhau để có thái độ đúng đắn và có cách ứng xử với chúng thích hợp.
Đối với động lực: Đứng trên quan điểm phát triển, những thứ mang tính
động cơ tạo ra lực lôi kéo và lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ hệ thống
được xem là động lực phát triển. Động lực mang tính lịch sử. Chẳng hạn, ở thời
kỳ này thì cái đó là động lực phát triển, nhưng ở thời kỳ khác thì nó không còn
là động lực nữa. Qua phân tích thực tiễn và bằng những kiến thức lý luận có
được, chúng tôi cho rằng, động lực tồn tại dưới hai hình thức: động lực vật chất
và động lực tinh thần.
Với tinh thần đổi mới và với quan điểm duy vật biện chứng, chúng ta nhận
thấy rằng, con người vừa là nguồn lực quan trọng nhất lại vừa là động lực có sức
mạnh nhất. Có con người chất lượng cao sẽ có thể có tất cả. Con người nghĩ ra

cơ chế, chính sách, sáng tạo ra công nghệ hiện đại cũng như sáng tạo ra mọi giá
trị cần thiết cho xã hội. Vì thế, nó là nguồn lực quan trọng nhất. Khi nói con
người là động lực có sức mạnh nhất là vì, con người có nhu cầu rất đa dạng và
rất lớn, lại tăng lên không ngừng, vì thế nó kích thích phát triển và chính điều đó
22


×