Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

CƠ sở lý LUẬN và THỰC TIỄN sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP nêu vấn đề TRONG dạy học tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.87 KB, 55 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH


- Cơ sở lý luận
- Khái niệm phương pháp nêu vấn đề
- Khái niệm nêu vấn đề
Thuật ngữ "dạy học nêu vấn đề" được nhắc đến trong xu
thế đổi mới PPDH theo đó là PPDH lấy người học làm trung
tâm. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu đã có nhiều quan
điểm, các tiếp cận mới như sư phạm tương tác, lớp học đảo
ngược và dạy học dựa trên vấn đề... Trong đó, tiếp cận dạy
học dựa trên vấn đề đã được các nhà giáo dục nghiên cứu,
ứng dụng nhằm khai thác tính hiệu quả và tính tích cực của
người học, giúp người học phát huy khả năng của bản thân,
nâng cao thành tích học tập. Có thể gọi nêu vấn đề hay tình
huống có vấn đề tuy khác cách gọi nhưng có cùng bản chất và
cách thức sử dụng giống nhau.
“Tình huống có vấn đề” là tình huống mà có khi mâu
thuẫn khách quan của bài toán nhận thức được học viên chấp
nhận như một vấn đề học tập mà học viên có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới.
Theo I.Ia.Lecne, “Tình huống có vấn đề là một khó khăn


được chủ thể ý thức rõ ràng hay mơ hồ, mà muốn khắc phục
thì phải tìm tòi những tri thức mới, những phương thức hành
động mới” [26, tr.25]. Như vậy “tình huống có vấn đề” là trở
ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện khi học viên chưa biết
cách giải quyết. Tình huống này kích thích con người tìm tòi


cách giải quyết hay hành động mới. “Tình huống có vấn đề”
là quy luật của hoạt động sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định
sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra
trong quá trình nêu và giải quyết vấn đề.
Theo Nguyễn Ngọc Quang, “Tình huống có vấn đề là
trạng thái tâm lí độc đáo của người gặp chướng ngại nhận
thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết mâu
thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng
tìm tòi sáng tạo tích cực đầy hưng phấn và khi tới đích thì lĩnh
hội được cả kiến thức phương pháp giành kiến thức và cả
niềm vui sướng của sự phát hiện” [36, tr.130].
Như thế, “tình huống có vấn đề” trong học tập là tình huống
tạo ra các mâu thuẫn khách quan giữa nhiệm vụ nhận thức và
khả năng của học viên, tạo cho học viên một sự căng thẳng về trí
tuệ, tác động đến tính tích cực, độc lập hoạt động tư duy của họ,
để giải quyết vấn đề. Chính vì vậy, đặt học viên trước tình huống


có vấn đề mới phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo tìm tòi
cách giải quyết của học viên.
Có thể hiểu nêu vấn đề là: cách thức nêu và đặt vấn đề là
quá trình phát hiện mâu thuẫn và quá trình giải quyết mâu
thuẫn. Trong nghiên cứu của Thái Duy Tiên đã cho rằng:
“Nêu vấn đề là quá trình xây dựng vấn đề từ mâu thuẫn trong
nhận thức hoặc trong thực tiễn” [17, tr.19].
Như vậy, có hai mặt của phương pháp giải quyết vấn đề:
Thứ nhất: Đó là quá trình tương tác giữa người dạy và
người học, với việc phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề.
Thứ hai: Đó là kết quả của quá trình tìm ra phương án để
giải quyết vấn đề.

- Đặc trưng của nêu vấn đề
Theo Machiuskin, A. M “nêu vấn đề là quá trình phát
hiện ra mâu thuẫn và trở ngại về mặt trí tuệ trong các tình
huống về mặt lý luận lẫn thực tiễn [36, tr.56]. Như vậy, vấn đề
đặt ra ở đây được thể hiện giữa câu hỏi, mâu thuẫn đặt ra
trong lý luận và thực tiễn nhưng kiến thức của bản thân chưa
đủ để giải quyết, nhận biết được ngay mà cần quá trình tư


duy, nhận thức để giải quyết vấn đề. Như vậy, tình huống có
vấn đề trong quá trình nảy sinh trong tiếp nhận tri thức và khả
năng của bản thân với việc tiếp nhận tri thức, khái niệm.
Dạy học nêu vấn đề là người dạy đưa ra các tình huống có
vấn đề, đặt người học vào quá trình giải quyết các mâu thuẫn.
Quá trình giải quyết mâu thuẫn giúp người học chiếm lĩnh tri
thức, lĩnh hội kỹ năng và rèn luyện thái độ học tập chuẩn
mực. Trên cơ sở đó, người học chiếm lĩnh tri thức và phát
triển các kỹ năng như lập kế hoạch, tự định hướng học tập và
phát triển kỹ năng tư duy trong cuộc sống.
Từ vấn đề có mâu thuẫn chủ quan đến khách quan về mặt
nhận thức trong đó chủ thể nhận thức chưa đủ để giải quyết
mâu thuẫn. Như vậy, vấn đề đưa ra là xuất hiện các tình
huống, tình huống ở đây là tình huống chủ quan và tình huống
khách quan. Để làm rõ chúng tôi thể hiện qua sơ đồ sau:
TÌNH HUỐNG - MÂU THUẪN CHỦ QUAN

CHỦ THỂ - MÂU THUẪN KHÁCH QUAN


TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ

Từ khái quát về nêu vấn đề có thể thấy, để sử dụng được
PPDH này, đòi hỏi người giảng viên cần thiết kế, tạo ra tình
huống vừa sức giải quyết của học viên, tức là ở “vùng phát
triển gần nhất”, mâu thẫu sẽ được giải quyết thuận lợi hơn nếu
giảng viên biết xây dựng mâu thuẫn giữa mức độ biết và chưa
biết phù hợp.
- Khái niệm về phương pháp nêu vấn đề
+ Phương pháp dạy học
Phương pháp giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
phát huy tối đa vai trò của người học. Người học thụ động, trở
thành cái máy, con vẹt hay trở thành chủ thể tự giác, tích cực,
độc lập, sáng tạo phụ thuộc vào phương pháp. Số lượng, chất
lượng kiến thức, kỹ năng, thái độ học tập ở học viên tỉ lệ
thuận với chất lượng sử dụng các phương pháp. Cho nên có
phương pháp tốt là tìm cách thức nhanh nhất chuyển tải
những kiến thức, kỹ năng, thái độ đến học viên nhằm đạt
được mục tiêu dạy học. Có phương pháp, học viên biết cách
khắc phục những khiếm khuyết và biết phát huy tối đa năng
khiếu, tài năng, biết tranh thủ ngoại lực để phát triển tối đa nội


lực trong việc rèn đức, luyện tài chuyển từ quá trình dạy học
sang tự học nhằm đáp ứng được yêu cầu xã hội.
Khái niệm phương pháp dạy học có nhiều kết quả nghiên
cứu:
Lu.Le.Babanxki, 1983: “Phương pháp dạy học là cách
thức tương tác giữa thầy và trò nhằm giải quyết các nhiệm vụ
giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học”
[32, tr.34]. I.Ia.Lécne, 1981: “Phương pháp dạy học là hệ
thống những hành động có mục đích của giảng viên nhằm tổ

chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh đảm
bảo cho các em lĩnh hội nội dung học vấn” [32, tr.34].
I.D.Dverép, 1980: “Phương pháp dạy học là cách thức hoạt
động tương hỗ giữa thầy và trò nhằm đạt được mục đích dạy
học. Hoạt động này được thể hiện trong việc sử dụng các
nguồn nhận thức, các thủ thuật logic, các dạng hoạt động độc
lập của học viên và cách thức điều khiển quá trình nhận thức
của giáo viên” [32, tr.38].
Như vậy, có thể hiểu, “PPDH là một hệ thống tác động
liên tục của giảng viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và
thực hành của học sinh để học sinh lĩnh hội vững chắc các


thành phần của nội dung giáo dục nhằm đạt được mục tiêu đã
định”.
+ Phương pháp dạy học Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Phương pháp dạy học Tư tưởng Hồ Chí Minh rất đa dạng
và phong phú, cần chú ý đến đặc điểm bộ môn, điều kiện,
phương tiện dạy học, đối tượng, nhân cách của giảng viên.
Phương pháp dạy học Tư tưởng Hồ Chí Minh là cách thức
hoạt động của giảng viên và của học viên trong hoạt động dạy
học, giảng viên giữ vai trò chỉ đạo nhằm phát huy tính tích
cực của người học.
Phương pháp dạy học Tư tưởng Hồ Chí Minh cần chú ý 3
tiêu chí đó là: trang bị cách học; phát huy tính chủ động của
người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong
hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn tư liệu giáo dục
mở và nguồn tư liệu chính thống trên các trang mạng xã hội,
ngoài ra lựa chọn, sử dụng các công trình, giáo trình tiên tiến
của các nước.

Phương pháp dạy học Tư tưởng Hồ Chí Minh phải trả lời
những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn của dạy học như:
Dạy ai, dạy học Tư tưởng Hồ Chí Minh để làm gì, dạy học cái


gì, dạy học như thế nào
+ Phương pháp dạy học nêu vấn đề:
Có thể thấy, dạy học nêu vấn đề không nằm riêng rẽ mà
nằm xen kẽ, phối hợp với các phương pháp khác để bảo đảm
cho quá trình dạy học được hiệu quả. Tuy nhiên, phương pháp
nêu vấn đề giữ vai trò chủ chốt trong quá trình dạy học từ
soạn bài đến tổ chức học đến kiểm tra, đánh giá.
Để dạy học nêu vấn đề không bị lấn át với các phương
pháp khác thì giảng viên cần đi đúng trong mạch kiến thức và
sử dụng phương pháp nêu vấn đề làm chủ chốt. Dưới sự
hướng dẫn của giảng viên, người học sẽ chủ động tìm kiếm,
nhận ra vấn đề, xác định phương hướng giải quyết, đánh giá
các giả thuyết, giảm nhẹ khó khăn để học viên giải quyết
được nhanh chóng. Điều đó cho thấy, đây là phương pháp dạy
học tích cực, bởi người học là trung tâm của quá trình lĩnh hội
tri thức, vai trò người dạy ở đây không phải đưa người học
đến các kiến thức đó mà là dẫn dắt, chỉ dẫn để người học
chiếm lĩnh tri thức. Tuy hoạt động tìm tòi của học viên trong
quá trình giải quyết vấn đề rất đa dạng nhưng chúng ta có thể
phân ra các bước cơ bản sau:


Đặt vấn đề: Làm cho người học hiểu rõ vấn đề
Phát biểu vấn đề
Xác định phương hướng giải quyết, đề xuất giả thuyết

Lập kế hoạch giải quyết theo giả thuyết
Thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề
Đánh giá việc thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề
Với mỗi giả thuyết, thực hiện một kế hoạch giải và đánh
giá:
Nếu xác nhận giả thuyết đúng thì chuyển sang bước khác
Nếu phủ nhận giả thuyết thì quay trở lại bước 3, chọn giả
thuyết khác.
Kết luận về lời giải: giảng viên sửa chữa, bổ sung và chỉ
ra kiến thức cần lĩnh hội
Kiểm tra lại và ứng dụng kiến thức vừa thu được.
Thực tế, quy trình dạy học trên có thể đôi khi thay đổi các
bước phụ thuộc vào tri thức cần lĩnh hội ở mức độ nào và khả
năng nhận thức của người học. Dạy học nêu vấn đề có nhiều


tên gọi khác nhau:
Dạy học nêu vấn đề
Dạy học nêu vấn đề - Ơritxtic
Dạy học nêu vấn đề - tìm tòi
Dạy học giải quyết vấn đề
Dạy học nêu và giải quyết vấn đề
Dạy học tình huống có vấn đề
- Cơ sở khoa học và ý nghĩa của phương pháp dạy học
nêu vấn đề
Cơ sở khoa học
- Cơ sở triết học
Theo triết học duy vật biện chứng, mâu thuẫn là nguồn
gốc, động lực của sự phát triển. Đó là quá trình xuất hiện mâu
thuẫn giữa cái đã biết và chưa biết, từ cái chưa biết sẽ nảy

sinh nhu cầu nhận thức và chủ thể sẽ tìm kiếm cách thức giải
quyết vấn đề.
- Cơ sở tâm lí học


Khi con người ghi nhớ có ý nghĩa thì bảo đảm lĩnh hội tri
thức một cách sâu sắc, bền vững và nếu quên cũng dễ nhớ lại
hơn. Nếu con người ghi nhớ không chủ định thì đặc biệt hiệu
quả khi con người có những cảm xúc rõ ràng và mạnh mẽ.
Như vậy, dạy học nêu vấn đề giúp học viên nảy sinh nhu cầu
nhận thức, từ đó cùng quá trình tạo ra tri thức sẽ giúp người
học chiếm lĩnh tri thức và rèn rũa kỹ năng.
Bên cạnh đó, sự hứng thú khi nhận biết “tình huống có
vấn đề”, niềm vui sướng khi giải quyết được vấn đề sẽ tạo
động lực học tập tích cực cho học viên.
Dạy học nêu vấn đề đã vận dụng các quan điểm của tâm lí
học để nâng cao hiệu quả học tập.
- Cơ sở giáo dục học
Dạy học nêu vấn đề dựa trên nguyên tắc tích cực, tự giác,
độc lập nhận thức của học viên trong giáo dục bởi vì nó khơi
gợi được động cơ học tập. Muốn hoạt động học tập đạt kết
quả cao, học viên phải biết cách học. Qua dạy học nêu vấn đề,
giảng viên giúp học viên biết được con đường chiếm lĩnh tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo. Hơn nữa, phương pháp dạy học này còn
tạo cho học viên hoàn thiện tri thức để giải quyết các hoạt


động học tập.
Ý nghĩa của phương pháp dạy học nêu vấn đề
- Đối với học viên: Giúp học viên hiểu và nắm chắc nội

dung cơ bản của bài học, biết vận dụng những tri thức xã hội
vào trong thực tiễn cuộc sống. Giúp học viên hình thành kỹ
năng giao tiếp, tổ chức, khả năng tư duy, tinh thần hợp tác, hoà
nhập cộng đồng.
- Đối với giảng viên: Giúp giảng viên có thể đánh giá một
cách khá chính xác khả năng tiếp thu của học viên, nắm bắt
trình độ tư duy của họ, tạo điều kiện cho việc phân loại học
viên một cách chính xác.Giúp cho giảng viên có điều kiện
trực tiếp điều chỉnh những kiến thức sai lệch, không chuẩn
xác, định hướng kiến thức cần thiết cho học viên, giúp giảng
viên dễ dàng biết được năng lực nhận xét, đánh giá, khả năng
vận dụng lý luận vào thực tiễn xã hội của học viên.
- Quy trình dạy học phương pháp nêu vấn đề
- Nêu vấn đề


Xây dựng tình huống có vấn đề

Xây dựng tình huống : Giảng viên đưa ra vấn đề dưới dạng
câu hỏi hoặc tình huống hay là dạng bài tập để học viên giải
quyết vấn đề. Học viên sẽ phát hiện giữa cái mâu thuẫn giữa cái
biết và chưa biết.
Từ vấn đề được đưa ra, có thể phát triển vấn đề như vấn
đề đó là quá trình mâu thuẫn trong nhận thức hay trong thực
tiễn, hay vấn đề đó cần hình thành nhằm bổ xung kiến thức
mới, hoặc nhằm rèn luyện kiến thức, kỹ năng...
- Giải quyết vấn đề
+ Hình thành giả thuyết:
Việc hình thành giả thuyết đưa ra mâu thuẫn, từ đó học viên



đưa ra các vấn đề để chứng minh các giả thuyết đúng so với thực
tế hoặc kiến thức kỹ năng.
Để người học có thể chứng minh được các giả thuyết đưa
ra, giảng viên có thể dự thảo cách thức để đưa ra phương pháp
thực hiện đồng thời biết so sánh kết luận để tìm ra phương
thức chứng minh giả thuyết.
Vận dụng: Từ kết quả được chứng minh trong giả thuyết,
học viên có thể đưa ra cách vận dụng trong thực tiễn hay
trong lý luận.
Ðể giải quyết vấn đề cần nêu ra một giả thuyết, đó chính
là định hướng cho các hoạt động quan sát, thí nghiệm để
chứng minh vấn đề mới.
Các giả thuyết đó chính là các ý tưởng có cơ sở khoa học,
dựa vào vốn tri thức đã biết để hình thành các phán đoán, suy
luận lý giải cho vấn đề mới .
Ðối với học viên, giả thuyết là kết quả quá trình tư duy
sáng tạo khi nhận thức vấn đề mới và tiếp cận với phương
pháp nghiên cứu khoa học đặc thù của bộ môn. Tính khoa học
chính xác của giả thuyết phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể nhận


thức, vì vậy trong cùng một vấn đề học viên có thể đưa ra
nhiều giả thuyết khác nhau.
Khi hình thành một giả thuyết cần lưu ý:
Các giả thuyết phải được hình thành qua suy nghĩ, phát
triển từ cái đã biết có liên quan đến vấn đề mới. Vì vậy nội
dung các giả thuyết không được mâu thuẫn với tri thức đã có
của chủ thể.
Trong dạy học nêu vấn đề học viên có thể đưa ra các giả

thuyết khác nhau về cùng một vấn đề, giảng viên cần lựa chọn
và tập trung sự trao đổi thảo luận của học viên vào một vài giả
thuyết điển hình.
Khi hình thành giả thuyết tùy theo đối tượng học viên,
giảng viên có thể sử dụng các phương pháp như: Giảng viên
phân tích cơ sở khoa học và đề xuất những ý tưởng trong giả
thuyết, giảng viên và học viên cùng xây dựng giả thuyết bằng
phương pháp đàm thoại gợi mở, học viên độc lập tìm ra giả
thuyết, đó là kết quả tư duy sáng tạo của chủ thể.
+ Chứng minh giả thuyết
- Ðể giúp học viên có thể độc lập vạch kế hoạch chứng


minh giả thuyết, giảng viên có thể hướng dẫn học viên hành
động như sau:
+ Từ giả thuyết suy ra kết luận cần chứng minh.
+ Dự thảo kế hoạch: phương pháp quan sát hay thí
nghiệm?...
+ Nắm vững và ghi chép các kết quả đạt được.
+ Ðánh giá kết quả.
Việc đánh giá cần hướng hoạt động của học viên theo các
bước sau đây:
Phân tích, lý giải các kết quả đã xử lý và phân biệt dấu
hiệu bản chất và không bản chất của các hiện tượng, từ đó
khái quát rút ra kết luận.
So sánh kết luận tìm ra phù hợp với giả thuyết, hãy suy
nghĩ và phát biểu nội dung của vấn đề mới (khái niệm, qui
luật...).
Việc đánh giá cần tiến hành ngay trong tiết học, giảng
viên tổ chức học viên đánh giá bằng lời nói hoặc trình bày

dưới dạng hình vẽ, bảng, sơ đồ, biểu đồ…


+ Vận dụng
Kiến thức mới đạt được là các khái niệm, định luật, định
lý.... Cần được kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống và vận
dụng linh hoạt để trả lời các câu hỏi, giải các bài toán, giải
thích các hiện tượng sinh học trong tự nhiên.
- Các phương pháp dạy học nêu vấn đề
- Phương pháp diễn giảng nêu vấn đề:
Phương pháp nêu vấn đề cũng giống với phương pháp
diễn giảng thông báo - tái hiện là giảng viên đóng vai trò chủ
đạo. Học viên lĩnh hội thụ động các tri thức. Tuy nhiên trong
phương pháp này, giảng viên trình bày các tri thức theo con
đường suy nghĩ, tìm tòi ở các nhà khoa học trong quá trình
khám phá tìm ra các chân lí khách quan do đó học viên được
làm quen với phương pháp tư duy khoa học, khả năng phát
hiện mâu thuẫn nhận thức, hình thành vấn đề và đề xuất giả
thuyết giải quyết vấn đề thông qua phương pháp diễn giải nêu
vấn đề để học viên tiếp cận và từng bước nâng cao vai trò độc
lập, sáng tạo.
- Phương pháp đàm thoại nêu vấn đề (còn gọi là phương


pháp hỏi đáp):
Phương pháp đàm thoại tái hiện - thông báo là câu trả lời
của học viên chỉ cần trình bày các tri thức đã biết hoặc là mô
tả các hiện tượng, thuộc tính, kết quả mà học viên quan sát
được từ các đối tượng trong tự nhiên, thí nghiệm và các loại
phương tiện trực quan khác.

Phương pháp đàm thoại nêu vấn đề là phương pháp bao
gồm một hệ thống câu hỏi tổ chức học viên độc lập phát hiện
và giải quyết vấn đề mới trong nhận thức.
Hệ thống câu hỏi bao gồm câu hỏi tái hiện và câu hỏi có
vấn đề, trong đó câu hỏi có vấn đề là thành tố chính. Các câu
hỏi tái hiện giúp cho học viên tìm ra các tri thức là cơ sở khoa
học của vấn đề mới, là điểm tựa cho hoạt động giải quyết vấn
đề.
Giảng viên đưa ra câu hỏi có vấn đề có tác dụng định
hướng cho học viên phát hiện mâu thuẫn khách quan chuyển
thành mâu thuẫn logic của chủ thể và đề xuất phương án giải
quyết vấn đề đó.
Trong phương pháp đàm thoại nêu vấn đề, giảng viên


phải kết hợp giữa 2 loại câu hỏi tái hiện và câu hỏi có vấn đề
một cách hợp lí, hài hòa sao cho câu hỏi tái hiện có tác dụng
hỗ trợ tích cực giúp học viên độc lập giải quyết các câu hỏi có
vấn đề.
- Phương pháp quan sát nêu vấn đề: Trong quá trình dạy
học không thể thiếu được vai trò hỗ trợ của các loại phương
tiện trực quan như các vật tự nhiên, các vật tượng hình, các thí
nghiệm...
Phương pháp tổ chức hoạt động quan sát cho học viên
diễn ra dưới 2 hình thức chủ yếu:
+ Học viên quan sát các phương tiện trực quan do giảng
viên biểu diễn gọi là phương pháp trực quan.
+ Học viên trực tiếp tác động trên các phương tiện trực
quan và quan sát theo định hướng, gọi là phương pháp quan
sát thực hành.

Phương pháp quan sát tùy theo mục đích sử dụng trong
quá trình dạy học để phân ra 2 loại phương pháp cụ thể :
+ Phương pháp quan sát thông báo - tái hiện
+ Phương pháp quan sát nêu vấn đề: Trong phương pháp


này, phương tiện trực quan như thí nghiệm, mẫu vật tự nhiên,
mô hình... Đóng vai trò là nguồn kiến thức để tạo tình huống,
nêu và giải quyết vấn đề.
- Ưu điểm và hạn chế của phương pháp nêu vấn đề
- Ưu điểm:
Nêu vấn đề là phương pháp dạy học không chỉ phát huy
trí sáng tạo, tự lực trong tìm kiếm tri thức mà đó còn là đỉnh
cao của phát triển trí sáng tạo, năng lực của người học.
Với vấn đề đặt ra, dưới sự hướng dẫn của giảng viên, học
viên tự tìm tòi giải quyết vấn đề, làm chủ tri thức, kiến thức
và hình thành các kỹ năng mới. Tính ưu việt của phương pháp
dạy học này là có khả năng khơi dạy người học ở việc huy
động sự nhạy bén của tư duy và ý chí vươn lên trong học tập
để lĩnh hội tri thức.
- Hạn chế:
Hạn chế, khuyết điểm dễ gặp nhất của phương pháp này là
mất nhiều thời gian nếu như giảng viên không quản lý lớp học
phù hợp giữa các mạch kiến thức. Trong đó thường gặp nhất là
các câu trả lời, hoặc nội dung giải quyết vấn đề không phù hợp


với nội dung chính của bài do vậy giảng viên sẽ mất thời gian
để giảng giải vấn đề và tóm lược lại các vấn đề chính của bài
học.

Hơn nữa việc áp dụng các phương pháp tùy thuộc và năng
lực soạn bài và đặc thù của từng bài. Những bài với dung
lượng kiến thức nhiều sẽ khó để giảng viên đi theo trình tự
nêu vấn đề.
Tùy từng nội dung học tập mà xây dựng được tình huống
có vấn đề. Tức là vận dụng được phương pháp dạy học nêu
vấn đề, giảng viên cần am hiểu nội dung và hình thành các giả
thuyết từ đó mới có thể xây dựng vấn đề.
Đây là phương pháp dạy học cần để người học có thời
gian tư duy, suy nghĩ do vậy so với các phương pháp khác nếu
nội dung bài dạy quá nhiều hoặc lớp học quá đông khó có thể
điều khiển được lớp và bài dạy dàn trải thì học viên cũng khó
có thể tiếp thu được kiến thức.
- Đặc điểm môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh


Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã xác định khá
toàn diện và hệ thống về nội hàm tư tưởng Hồ Chí Minh như:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý
giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” [6].
Trong khái niệm trên có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh
bao gồm:
Thứ nhất: Bản chất cách mạng, khoa học và nội dung của
tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và

sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, phản
ánh tính chất quy luật của cách mạng Việt Nam; đó là tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Thứ hai: Về nguồn gốc, lý luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh là quá trình kế thừa quan điểm của Mác- Lênin, tinh hoa
văn hóa của nhân loại và những giá trị dân tộc.


Thứ ba: Ý nghĩa, sức sống lâu bền, giá trị văn hóa của tư
tưởng Hồ Chí Minh là giá trị vô giá, tài sản tinh thần to lớn
của dân tộc Việt Nam và của Đảng, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng cho nhân dân Việt Nam dành thắng lợi trên
con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Là hệ thống lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh được cấu trúc
chặt chẽ, mạch lạc, trong đó nội dung cốt lõi là tư tưởng về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội- giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
- Đối tượng nghiên cứu của môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh
Để xác định đối tượng nghiên cứu của môn học phải căn
cứ vào vai trò, chức năng của môn học; các chỉ dẫn trực tiếp
của Hồ Chí Minh khi Người xác định về nội dung các bài
viết, bài nói, các tác phẩm; các quan điểm có tính định hướng
của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu của môn học Tư tưởng Hồ Chí
Minh bao gồm hệ thống các quan điểm, quan niệm, lý luận về
cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của thời đại mới mà cốt
lõi là tư tưởng độc lập,tự do của dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa



xã hội với tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người; về độc lập dân tốc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, về các quan điểm cơ bản trong hệ thống Tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Đối tượng của môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ
là bản thân hệ thống các quan điểm, lý luận được thể hiện
trong toàn bộ di sản Hồ Chí Minh mà còn là quá trình vận
động, hiện thực hóa các quan điểm, lý luận đó trong thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
- Nhiệm vụ của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Trên cơ sở đối tượng, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có
những nhiệm vụ chính sau:
Làm rõ cơ sở khách quan và chủ quan về hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh, qua đó khẳng định sự ra đời của tư tưởng
Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan và giải đáp các vấn đề
về dân tộc, lịch sử nước ta.
Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của
các quan điểm trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vai trò nền tảng của tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động


×