Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

CƠ sở lí LUẬN và THỰC TIỄN của VIỆC xây DỰNG và sử DỤNG hệ THỐNG tư LIỆU điện tử TRONG dạy học địa lí lớp 12 ở TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.14 KB, 50 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG
HỆ THỐNG TƯ LIỆU ĐIỆN TỬ TRONG
DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 12 Ở TRƯỜNG
THPT


Đổi mới giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển
năng lực
Những quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục phổ thơng theo
hướng phát triển năng lực
Ngày 28.07.2017 chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
được Ban Chỉ đạo đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục
phổ thơng thơng qua. Chương trình giáo dục phổ thơng được xây
dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn
bản, tồn diện giáo dục và đào tạo; có sự kế thừa và phát triển
những ưu điểm của các chương trình giáo dục phổ thơng giai đoạn
trước, đồng thời tiếp thu những giá trị trong khoa học giáo dục và
kinh nghiệm xây dựng chương trình của các nền giáo dục hiện đại
trên thế giới. Điều 27, Luật giáo dục quy định mục tiêu của giáo
dục phổ thông là: “Giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản; phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo của học sinh, hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học
lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”.


Chương trình giáo dục phổ thơng mới u cầu bảo đảm phát
triển phẩm chất và năng lực người học thông qua nội dung giáo


dục với những kiến thức cơ bản, thiết thực, hiện đại; hài hịa đức,
trí, thể, mỹ; chú trọng thực hành [2],vận dụng kiến thức để giải
quyết vấn đề trong học tập và đời sống. Khung chương trình giáo
dục đảm bảo tích hợp cao ở các lớp học dưới, phân hóa dần ở các
lớp học trên. Như vậy, chương trình giáo dục phổ thơng mới địi
hỏi phải có sự kết nối chặt chẽ giữa các cấp học, lớp học và liên
thơng với các chương trình giáo dục ở các bậc học cao hơn. Điều
28, Luật giáo dục quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thơng
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học
sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Chương trình giáo dục phổ thơng được xây dựng theo hướng
mở, chương trình chỉ mang tính chất định hướng với các nội dung
giáo dục cốt lõi, bắt buộc trên phạm vi toàn quốc, nhưng quyền
chủ động và trách nhiệm giáo dục được trao cho nhà trường và địa
phương, sao cho phù hợp với các điều kiện thực tiễn về cơ sở vật
chất, văn hóa địa phương,... Chương trình chỉ quy định những
nguyên tắc, định hướng chung yêu cầu cần đạt về phẩm chất và
năng lực của học sinh. Nội dung chi tiết của chương trình giáo dục


được trao cho tác giả sách giáo khoa và nhà trường, giáo viên,
nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo trong thực hiện chương
trình.
Trong tương lai, việc dạy học khơng chỉ dừng lại ở việc ứng
dụng công nghệ thông tin và truyền thơng mà chúng ta cịn hướng
tới xây dựng một nền “giáo dục điện tử”. Ở đó, mọi thành tố của
quá trình giáo dục đều được trang bị các phương tiện và kĩ năng

công nghệ thông tin, các thành tựu mới nhất của công nghệ đều
được cập nhật và đưa vào phục vụ giảng dạy, yếu tố công nghệ trở
thành tất yếu trong nền giáo dục của thời đại 4.0. Đây là cuộc
cách mạng đang làm thay đổi toàn bộ mơ hình học tập trong thế kỉ
XXI, giúp chúng ta nhanh chóng xóa nhịa khoảng cách với các
nền giáo dục hàng đầu trên thế giới. Chính vì vậy, việc xây dựng
hệ thống tư liệu điện tử trong dạy học chỉ là những bước đi đầu
tiên cần thiết trong một nền giáo dục hiện đại đang được định hình
ở nước ta.
Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển
năng lực
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam (khóa XI) đã thơng qua Nghị quyết về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã


hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thơng, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo. Mục tiêu đổi mới được quy định: “Đổi mới chương
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến
căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông;
kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần
chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo
dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức,
trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh.” [2]
Như vậy, nền giáo dục Việt Nam thế kỉ XXI đang chuyển dần từ
một nền giáo dục nặng về định hướng nội dung sang một nền giáo
dục chú trọng phẩm chất, năng lực của người học. Mục tiêu của

nền giáo dục mới nhằm hiện thực hóa triết lí giáo dục của
UNESCO với bốn trụ cột giáo dục: “học để biết, học để làm, học
để cùng chung sống và học để tự khẳng định mình”. Như vậy,
nhiệm vụ của giáo dục là chuẩn bị cho con người khả năng giải
quyết các tình huống của cuộc sống. Trong bối cảnh đó địi hỏi
mỗi người giáo viên phải khơng ngừng đổi mới phương pháp dạy
học để nâng cao chất lượng giáo dục.
Biện pháp hiệu quả nhất để đổi mới phương pháp dạy học là
tích cực hố hoạt động của học sinh, trong đó giáo viên đóng vai
trị là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động học tập, tạo môi trường


học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích
học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện
năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và khả
năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kỹ năng đã
tích lũy được để phát triển. Các hoạt động học tập của học sinh
bao gồm hoạt động khám phá vấn đề, hoạt động luyện tập và hoạt
động thực hành, được thực hiện với sự hỗ trợ của thiết bị dạy học,
đồ dùng học tập, đặc biệt là công cụ tin học và truyền thông [2].
Không gian học tập có thể được tổ chức ở cả trong và ngồi
khn viên nhà trường thơng qua các hình thức chủ yếu: học lý
thuyết, thí nghiệm, trị chơi, đóng vai, dự án học tập, xêmina,
tham quan, cắm trại, đọc sách, hoạt động phục vụ cộng đồng.
Trong các hình thức học tập này, học sinh có thể được tổ chức làm
việc tập thể hoặc làm việc cá nhân nhằm tạo điều kiện cho học
sinh được tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm các
kinh nghiệm thực tế.
Trong nội dung đổi mới phương pháp dạy học, người giáo
viên cần đa dạng hóa các hình thức và phương pháp dạy học sao

cho phương pháp và hình thức dạy học đó phù hợp với nội dung
bài học, môn học và phát huy tối đa sự tích cực của học sinh. Giáo
viên có thể phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau, bao
gồm cả các phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp
dạy học hiện đại. Hiện nay, nhờ sự phát triển của khoa học giáo


dục, giáo viên đã được tiếp cận với lí thuyết của nhiều phương
pháp dạy học, như phương pháp thuyết trình, phương pháp dạy
học giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học dự án, phương pháp
dạy học hợp đồng,... Mỗi phương pháp dạy học sẽ có những ưu
điểm, nhược điểm nhất định và sẽ khơng có một phương pháp nào
được coi là tồn năng, chính vì vậy địi hỏi người giáo viên phải
linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học.
Mơn Địa lí là một mơn học có tính chất đặc thù, mơn học
này hướng tới sự hình thành tư duy khơng gian lãnh thổ, hình
thành nhận thức về quy luật phát triển của các yếu tố tự nhiên và
KT – XH. Chính vì vậy, Địa lí là mơn học có nhiều cơ hội để đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động
khám phá của người học, đồng thời có khả năng ứng dụng cơng
nghệ thơng tin vào trong q trình dạy học nhằm đạt hiệu quả cao
nhất.
Trên thực tế, ở các nhà trường phổ thơng, mơn Địa lí thường
được coi là mơn học phụ, mơn học thuộc và ít nhận được sự chú ý
của học sinh; mơn Địa lí vẫn chưa có vị thế xứng đáng trong
khung chương trình mơn học trong nhà trường. Chính vì vậy, để
lấy lại vị trí của mơn học, nâng cao tính hiệu quả trong q trình
giảng dạy, địi hỏi người giáo viên phải không ngừng đổi mới
phương pháp dạy học, tận dụng các lợi thế vượt trội của cuộc cách
mạng cơng nghiệp 4.0 nhằm giúp mơn Địa lí trở lên sinh động,



hứng thú hơn đối với học sinh. Đa dạng hóa các hình thức,
phương pháp dạy học là yêu cầu cấp bách nhằm chống lại hội
chứng “buồn ngủ”, chán học ở học sinh và phịng tránh việc đóng
vào tư duy của học sinh một lối học thụ động, thiếu sáng tạo.
Có nhiều phương pháp dạy học tích cực có thể áp dụng trong
mơn Địa lí, bao gồm các phương pháp dạy học truyền thống và
phương pháp dạy học hiện đại, đòi hỏi người giáo viên phải linh
hoạt trong việc lựa chọn, kết hợp các phương pháp. Một số
phương pháp dạy học tích cực được gợi ý như:
Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề:
Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề là phương pháp dạy
học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức
hoạt động một cách sáng tạo, có những nét cơ bản của sự tìm tịi
khoa học. Bản chất của nó là tạo nên một chuỗi những “tình
huống vấn đề”, “tình huống học tập” và điều khiển học sinh giải
quyết những vấn đề học tập đó. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho học
sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển năng lực
tư duy sáng tạo và hình thành cơ sở thế giới quan khoa học [1].
Tình huống có vấn đề bao gồm: tình huống nghịch lý, tình
huống bác bỏ, tình huống “tại sao”, các tình huống này địi hỏi
học sinh phải vận dụng kiến thức và kỹ năng vốn có để giải quyết
vấn đề đặt ra. Học sinh phải tìm ra được các mối liên hệ, đặc biệt
là mối liên hệ nhân quả, tìm ra được nguyên nhân dẫn đến kết quả
đó, người học có thể thường xun giải thích các sự sai khác giữa


lý thuyết và thực tiễn, từ đó việc vận dụng tri thức vào giải quyết
các tình huống thực tiễn sẽ được nâng cao.

Phương pháp đàm thoại:
Phương pháp đàm thoại (vấn đáp) là phương pháp giáo viên
khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho
học sinh sáng tỏ những vấn đề mới; tự khai phá những tri thức
mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh
nghiệm đã tích luỹ được trong cuộc sống, nhằm giúp học sinh
củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hoá tri thức đã tiếp
thu được và nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp học sinh tự
kiểm tra, tự đánh giá việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trong
quá trình dạy học [1].
Chúng ta có thể sử dụng linh hoạt các hình thức đàm thoại sau:
đàm thoại gợi mở (dùng khi dạy bài mới), đàm thoại củng cố (khi
muốn học sinh đào sâu, mở rộng kiến thức, khắc phục các hiểu biết
sai lệch), đàm thoại tổng kết (khi muốn hệ thống hóa kiến thức),
đàm thoại kiểm tra, đàm thoại tái hiện,...
Trong phương pháp này hệ thống câu hỏi của giáo viên giữ
vai trị chủ đạo, có tính chất quyết định đối với chất lượng lĩnh hội
của cả lớp, hệ thống câu hỏi của giáo viên vừa là kim chỉ nam, vừa
là bánh lái hướng tư duy của học sinh đi theo một logic hợp lý, nó
kích thích cả sự tò mò khoa học và cả sự ham muốn giải đáp của
học sinh. Vì thế, khi kết thúc đàm thoại, học sinh có vẻ như tự lực
tìm ra chân lý và chính khía cạnh này đã tạo ra cho học sinh niềm


vui sướng của nhận thức, một tình cảm rất tốt đẹp cần phát triển ở
học sinh.
Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm:
Phương pháp dạy học theo nhóm là phương pháp đặt học
sinh vào môi trường học tập theo các nhóm học sinh. Một trong
những lí do chính để sử dụng phương pháp này là nhằm khuyến

khích học sinh trao đổi và biết cách làm việc hợp tác với người
khác.
Tổ chức học sinh học tập theo nhóm khơng chỉ phát huy tính
tích cực, tự giác, khả năng chủ động, sáng tạo trong hoạt động
nhận thức của học sinh, tạo điều kiện để mọi người cùng tham gia,
chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, chuẩn bị cho lao động
phân công hợp tác trong cộng đồng mà qua cách học này nhiều kĩ
năng xã hội cũng được hình thành và phát triển.
Phương pháp khảo sát, điều tra trong dạy học địa lí:
Phương pháp khảo sát, điều tra là một phương pháp đặc thù
của việc dạy học địa lí. Vì đối tượng nghiên cứu của khoa học địa
lí là các thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên, các thể tổng hợp sản xuất
theo lãnh thổ và các thành phần của chúng. Muốn cho học sinh
hiểu được các thành phần và các mối quan hệ của các thành phần
trong các thể tổng hợp tự nhiên, các thể sản xuất theo lãnh thổ, thì
giáo viên phải hướng dẫn các em nghiên cứu trên một lãnh thổ cụ
thể - đó là địa phương nơi các em đang sinh sống và học tập [1].


Thơng qua việc tiếp xúc, tìm tịi, điều tra thực tế địa phương
sẽ cung cấp cho học sinh các biểu tượng, khái niệm, các mối quan
hệ nhân quả về các đối tượng địa lí mà các em đang và sẽ học.
Giúp cho học sinh cách quan sát, tìm tịi, thu thập, phân tích, so
sánh các đối tượng địa lí trong mơi trường thực tế, từ đó tìm ra cái
mới cho mình; tập dượt cho học sinh làm quen với cơng tác
nghiên cứu khoa học.
Phương pháp dự án:
Phương pháp dự án được áp dụng vào trong giáo dục từ thập
kỷ đầu của thế kỷ XX và được xác định như một hoạt động thực
hành quan trọng. Hình thức dự án cũng khá đa dạng, dự án có thể

được thực hiện ngồi kế hoạch lên lớp, thực hiện trong khuôn khổ
kế hoạch lên lớp, thực hiện các bài tập theo nhóm ngồi giờ học,...
Trong nhà trường học sinh có thể thiết kế và thực hiện dự án
với sự giúp đỡ của giáo viên. Tuy nhiên vai trò của giáo viên ở
đây là người góp ý hơn là vai trị độc đốn ở bất cứ giai đoạn nào
của dự án. Phương pháp này giúp học sinh nhiều kĩ năng cần thiết
như: kĩ năng điều tra, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng giải quyết
vấn đề, kĩ năng suy nghĩ độc lập, kiên nhẫn và có trách nhiệm với
những quyết định của bản thân.
Ngồi ra cịn rất nhiều phương pháp dạy học tích cực khác
mà giáo viên có thể vận dụng một cách linh hoạt như phương
pháp hướng dẫn học sinh khai thác tri thức từ bản đồ, phương
pháp thảo luận, phương pháp học tập tình huống, phương pháp


đóng vai,... Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả cao nhất của các
phương pháp dạy học thì một yếu tố khơng thể thiếu trong mơn
Địa lí đó là các cơng cụ, phương tiện dạy học. Từ lâu, bản đồ đã là
một phương tiện dạy học, một cuốn sách giáo khoa thứ hai trong
mơn Địa lí, giúp học sinh hình thành tư duy lãnh thổ rất hiệu quả.
Ngoài ra, trong giai đoạn hiện nay, khi mà cuộc cách mạng khoa
học công nghệ đang đạt được những bước tiến vĩ đại, các phương
tiện dạy học được số hóa trở thành một lựa chọn tối ưu trong q
trình dạy và học địa lí. Điều đặc biệt, các phương tiện số này có
thể được cập nhật thường xuyên về hình thức, số liệu nên hạn chế
tối đa tình trạng lạc hậu. Lúc này khi đã có đầy đủ các điều kiện
dạy học lí tưởng trong tay, thì yêu cầu đối với người giáo viên sẽ
không chỉ dừng lại ở kiến thức chuyên môn vững vàng mà cịn địi
hỏi năng lực sáng tạo vơ hạn của người giáo viên.
Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển

năng lực
Đánh giá kết quả học tập là q trình thu thập thơng tin, phân
tích và xử lý thơng tin, giải thích thực trạng việc đạt mục tiêu giáo
dục, tìm hiểu nguyên nhân, ra những quyết định sư phạm giúp cải
thiện hiệu quả học tập của học sinh.Theo quan điểm phát triển
năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra


khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh
giá. Đánh giá kết quả học tập theo năng lực cần chú trọng khả
năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng
khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá
kiến thức, kỹ năng và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa (Leen pil,
2011).
Trong đánh giá theo định hướng phát triển năng lực, có
nhiều hình thức đánh giá như: đánh giá quá trình – đánh giá tổng
kết; đánh giá trong – đánh giá ngoài; đánh giá khách quan – đánh
giá chủ quan; đánh giá chính thức – đánh giá khơng chính thức.
Việc sử dụng các phương pháp đánh giá này nhằm giúp giáo viên
biết được trình độ chung của người học, những học sinh có tiến
bộ, những học sinh sút kém để có thể động viên và giúp đỡ kịp
thời. Kết quả đánh giá giúp giáo viên xem xét và điều chỉnh lại
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học hiện hành. Đồng thời,
việc đánh giá không chỉ dành cho đối tượng giáo viên, trong đánh
giá theo định hướng phát triển năng lực, học sinh cũng là đối
tượng trực tiếp tham gia vào quá trình tự đánh giá, để thu được
các thông tin phản hồi về quá trình học tập của bản thân, từ đó
điều chỉnh hoạt động học tập sao cho phù hợp.
Trong tổ chức các hoạt động học tập, giáo viên thường sử
dụng các phương pháp đánh giá truyền thống như: kiểm tra tự

luận, kiểm tra trắc nghiệm, kiểm tra vấn đáp. Những phương pháp


đánh giá truyền thống này thường được thực hiện bởi giáo viên,
và giúp thu được các thông tin phản hồi về kiến thức, kĩ năng
cứng của học sinh. Tuy nhiên, để có thể đánh giá q trình học tập
của học sinh một cách toàn diện, giáo viên nên kết hợp với các
hình thức kiểm tra, đánh giá hiện đại như: quan sát, trao đổi, trình
diễn, đánh giá sản phẩm dự án, đánh giá qua tình huống thực tiễn.
Với các hình thức đánh giá này, giáo viên có thể tập trung vào
việc đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng, thái độ của
người học. Với việc sử dụng linh hoạt hai hình thức đánh giá
truyền thống và đánh giá hiện đại, giáo viên sẽ thu được các tín
hiệu chính xác về khả năng học tập của học sinh để có những điều
chỉnh kịp thời; đồng thời bản thân người học cũng có thể tham gia
một cách chủ động vào quá trình tự đánh giá kết quả học tập của
mình.
Tư liệu điện tử dạy học
Khái niệm phương tiện dạy học số và tư liệu điện tử dạy
học
Sự ra đời của phương tiện dạy học số và tư liệu điện tử dạy
học được quyết định bởi sự ra đời của máy vi tính và mạng
internet, chính vì vậy cần phải khái quát một số nét về lịch sử ra
đời của các thành tố này.


Máy vi tính đầu tiên xuất hiện vào khoảng thập niên 70 của
thế kỉ XX và có mặt khắp mọi nơi vào thập niên 80. Chiếc máy
tính xách tay đầu tiên ThinkPad 700 của IBM ra đời năm 1992 mở
ra kỉ nguyên của máy tính cá nhân, con người chuyển từ việc phải

chia sẻ máy tính lớn trong các trường đại học, cơ quan nhà nước
sang chủ động hơn với những chiếc máy tính nhỏ gọn, cơ động.
Những năm 2000 đánh dấu sự phát triển vượt bậc của
internet, kèm theo đó là sự ra đời của thiết bị mạng và truyền dẫn.
Với bước đột phá này của công nghệ, những chiếc máy tính ngày
càng trở lên thơng minh hơn, được tích hợp nhiều tính năng hơn.
Đồng thời, những thành tựu đó đã phát động một cuộc cách mạng
giáo dục thực sự cả về phương pháp luận lẫn công nghệ dạy học,
mà ở đó, quan hệ khơng gian – thời gian – trật tự thang bậc theo
quan điểm giáo dục truyền thống đã bị phá vỡ.
Khái niệm phương tiện dạy học số
Phương tiện dạy học số là một thuật ngữ phổ biến ở các quốc
gia có nền giáo dục phát triển như Hoa Kì, Canada, Oxtraylia,...
và đã được nghiên cứu, ứng dụng trong giáo dục từ những năm 90
của thế kỉ XX. Ở Việt Nam, dữ liệu số hóa cũng đã được đưa vào
sử dụng trong dạy học từ năm 2005 dưới dạng thử nghiệm và kết
quả mang lại rất tích cực.
Theo tác giả Phạm Xuân Quế thì “Phương tiện dạy học số là
các phương tiện mà một phần hay toàn bộ được tạo nên và hoạt


động dựa trên công nghệ số”. Phương tiện dạy học số đơi khi cịn
được gọi là đa phương tiện (Multimedia).
Theo tác giả Nguyễn Minh Trung thì “Phương tiện kỹ thuật
dạy học tập hợp các khách thể được vật chất hóa, mơ hình hóa nội
dung của đối tượng dạy học bởi công nghệ mới, bao gồm các
phương tiện kỹ thuật tạo điều kiện cho giáo viên tác động đạt hiệu
quả sư phạm, giúp người học lĩnh hội thông tin học tập một cách
sâu sắc, tạo điều kiện vật chất cần thiết cho sự phát triển kỹ năng,
kỹ xảo, phẩm chất trí tuệ và các phẩm chất nhân cách khác.”

Như vậy, phương tiện dạy học số là: tập hợp những đối
tượng vật chất hoạt động dựa trên công nghệ số được giáo viên sử
dụng với tư cách là những phương tiện tổ chức, điều khiển hoạt
động nhận thức của người học, là phương tiện nhận thức của
người học, thơng qua đó mà thực hiện những nhiệm vụ dạy học.
Về mặt phân loại, phương tiện dạy học số được chia thành 2
loại:
Phương tiện dạy học số cứng: bao gồm máy tính, máy chiếu,
các thiết bị lưu trữ, hiển thị thông tin (ebook, đầu DVD, VCD,
USB, ...).
Phương tiện dạy học số mềm: là tệp dữ liệu số dưới dạng văn
bản, hình ảnh, mơ hình, bảng biểu, bản đồ, video, các phần mềm
dạy học,...
Khái niệm tư liệu điện tử dạy học
Tư liệu điện tử dạy học là một khái niệm mới xuất hiện trong
những năm gần đây và được sử dụng một cách rộng rãi. Tuy


nhiên, khái niệm này vẫn chưa có một cách định nghĩa thống nhất
và luôn thay đổi cùng với sự phát triển nhanh chóng trong lĩnh
vực cơng nghệ thơng tin và truyền thơng. Có thể nêu ra một số
định nghĩa được sử dụng phổ biến hiện nay:
Theo Nguyễn Kim Thân (trong Từ điển tiếng Việt): tư liệu
điện tử là dữ liệu, tin tức giúp con người tìm kiếm thơng tin dựa
trên máy tính và các phương tiện cơng nghệ mới.
Định nghĩa của Bộ GD & ĐT (trong sách giáo khoa Tin học
10): tư liệu điện tử là tài liệu được biên soạn dưới dạng số hóa
hoặc phi số (tài liệu dạng văn bản).
Theo tác giả Lê Văn Nhương (Đại học Cần Thơ) thì tư liệu
điện tử là các tập tin số được tạo ra trên máy tính và các thiết bị

tương đương, các tài liệu này được lưu trữ trực tiếp trên máy tính
hoặc các thiết bị lưu trữ khác: đĩa CD, đĩa DVD, USB, thẻ nhớ,
mạng internet, e – mail,... [10]
Tác giả Trịnh Lê Hồng Phương (Trường Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh) định nghĩa: tư liệu điện tử là các tài liệu
học tập được số hóa theo một cấu trúc, định dạng và kịch bản nhất
định được lưu trữ trên máy tính nhằm phục vụ việc dạy và học
qua máy tính. Dạng thức số hóa có thể là văn bản, slide, bảng dữ
liệu, âm thanh, hình ảnh, video clip, các ứng dụng tương tác và
hỗn hợp của các dạng thức nói trên [13].


Mặc dù đưa ra các định nghĩa khác nhau về tư liệu điện tử
dạy học nhưng các tác giả đều đưa ra các đặc điểm chung nhất của
khái niệm này bao gồm 2 thành tố:
Thành tố thứ nhất của tư liệu điện tử dạy học là phần cứng
(phương tiện): bao gồm các thiết bị lưu trữ, xử lí thơng tin, các thiết
bị hỗ trợ và phục vụ việc dạy học như: máy tính, máy chiếu, các thiết
bị nhúng, thiết bị lưu trữ thông tin,...
Thành tố thứ hai là phần mềm dạy học (cơ sở dữ liệu dạng số
hóa), thơng dụng nhất là các nguồn học liệu, tài nguyên học tập được
số hóa dưới dạng file dữ liệu, các phần mềm ứng dụng, các bài thí
nghiệm ảo, bài giảng điện tử,...
Tài liệu điện tử rất đa dạng về kích cỡ, ngơn ngữ và định
dạng. Các định dạng thường gặp là:
- Văn bản: với các định dạng *doc, *docx, *xls, *xlsx,
*pdf,...
- Ảnh: với các định dạng: *jpg, *jpeg, *gif,...
- Phim, âm thanh với các định dạng: *mp3 *mp4, *avi,...
- Web với các định dạng: *html, *php,...

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả đã tiến hành
nghiên cứu và thiết kế các sản phẩm bao gồm:
+ Các bản đồ 3D thể hiện đặc điểm tự nhiên Việt Nam
+ Các biểu đồ động về địa lí dân cư và địa lí kinh tế Việt
Nam
+ Các hình ảnh đồ họa (infographic) thể hiện nội dung địa lí
tự nhiên, kinh tế - xã hội.
+ Các bài giảng điện tử theo cấu trúc từng bài trong sách
giáo khoa


Ngoài ra, hệ thống tư liệu điện tử cũng được làm phong phú
hơn nhờ các tư liệu sưa tầm: video, câu hỏi trắc nghiệm, sách
tham khảo,…
Đặc điểm của tư liệu điện tử dạy học
Tư liệu điện tử dạy học là một hệ thống hay ngân hàng dữ
liệu dưới dạng file đa phương tiện như âm thanh, video, đồ họa,
văn bản,... được sắp xếp trong một cấu trúc hợp lí, khơng phải là
một bộ sưu tập lung tung, khơng có mục đích. Khi tiến hành xây
dựng một hệ thống tư liệu dạy học, tác giả phải xác định rõ mục
tiêu cần đạt của sản phẩm, đối tượng tiếp nhận, cơ sở vật chất,...
từ đó thu thập, lựa chọn, xử lí, hồn thiện và đưa vào sử dụng sản
phẩm. Hình thức lưu trữ tư liệu điện tử dạy học khá đa dạng, như:
lưu trữ trong các đĩa nén, mạng nội bộ hay đưa lên website.
Như vậy, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của
tư liệu điện tử dạy học như sau:
Thứ nhất, về không gian lưu trữ dữ liệu: tư liệu điện tử dạy
học cho phép lưu trữ một lượng lớn dữ liệu trong một không gian
tối thiểu. Do các dữ liệu trong tư liệu điện tử dạy học là các file đa
phương tiện như âm thanh, hình ảnh, văn bản, đồ họa,...đã được

số hóa nên có kích thước vơ cùng nhỏ lại được lưu trữ trên các
không gian như các trang web, mạng nội bộ, đĩa DVD,... nên dung


lượng lưu trữ trên máy tính cá nhân sẽ được tiết kiệm ở mức tối
đa.
Thứ hai, về tính chất di động khi sử dụng: một hệ thống tư
liệu điện tử dạy học được hoàn thiện và lưu trữ dưới dạng một đĩa
DVD hay mạng nội bộ trường học có thể được sử dụng bởi nhiều
đối tượng học sinh, thậm chí nếu được lưu trữ dưới dạng website
thì có thể được chia sẻ và sử dụng rộng rãi trên phạm vi rộng lớn
qua hình thức dạy học trực tuyến hoặc thơng qua link liên kết qua
gmail, facebook,...
Thứ ba, về tính chất cập nhật của dữ liệu: chúng ta có thể dễ
dàng tạo ra các tập tin và truy cập dữ liệu từ tập tin đó, đồng thời
có thể thường xuyên sửa đổi, thêm mới hoặc loại bỏ các thông tin
cũ, không cần thiết. Mặc dù phải mất rất nhiều thời gian để tạo ra
một hệ thống tư liệu điện tử có chất lượng, nhưng khi đã hồn
thành thì thời gian sử dụng rất dài, thậm chí là suốt cuộc đời và
tính chất cập nhật của dữ liệu sẽ luôn được đảm bảo.
Thứ tư, về khả năng tiếp cận: mọi đối tượng đều có thể tiếp
cận với nguồn tài liệu với chi phí rất thấp, điều này sẽ đặc biệt
đúng khi hệ thống tư liệu điện tử được lưu trữ dưới dạng website,
người học chỉ cần thiết bị có kết nối internet là có thể tiếp cận tài
liệu mọi lúc, mọi nơi.
Thứ năm, về tính logic và lựa chọn phương pháp học tập:
một vấn đề được trình bày dưới nhiều dạng khác nhau: văn bản,
hình ảnh, âm thanh,... nhưng ln đảm bảo tính logic, sự mạch



lạc. Thơng qua các liên kết, người sử dụng có thể nhìn nhận vấn
đề từ cấp độ bao quát đến cấp độ chi tiết, từ đó có thể nhìn nhận
vấn đề một cách toàn diện nhất. Đồng thời, khi sử dụng tư liệu
điện tử, người học có thể hồn tồn chủ động trong việc lựa chọn
thời gian, địa điểm học tập, lựa chọn phương pháp học, nội dung
học mà không gặp bất cứ trở ngại nào, vì vậy, người học sẽ tích
cực, chủ động hơn trong q trình lĩnh hội tri thức.
Ưu điểm và nhược điểm của tư liệu điện tử dạy học
Ưu điểm của tư liệu điện tử dạy học
Tư liệu điện tử dạy học là các tài liệu đã được số hóa với
nhiều hình thức khác nhau như text (văn bản), picture (hình ảnh
tĩnh), voice (tiếng nói), sound (âm thanh), video,... Việc học qua
các dạng tài liệu phong phú này sẽ giúp kích thích sự chú ý của
người học, đồng thời là phương tiện hữu hiệu để giáo viên xây
dựng, chuyển giao các nhiệm vụ học tập một cách sinh động. Việc
sử dụng tư liệu điện tử trong dạy học sẽ trợ giúp hiệu quả cho quá
trình nhận thức của học sinh ở tất cả các khâu: tạo động cơ, hứng
thú học tập; cung cấp các cứ liệu sinh động (hình ảnh, âm thanh,
video,...) nhằm giúp học sinh khái quát hóa các khái niệm trừu
tượng, các quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế - xã hội; có thể sử
dụng trong việc ôn tập, đào sâu, mở rộng, hệ thống hóa kiến thức,
kĩ năng; hỗ trợ việc kiểm tra, đánh giá, tự đánh giá của người học.


Theo lí luận dạy học hiện đại, tư liệu dạy học nói chung, tư
liệu điện tử nói riêng có thể hỗ trợ giáo viên và học sinh trong tất
cả các pha của tiến trình giải quyết nhiệm vụ nhận thức. Ở pha
chuyển gia nhiệm vụ học tập, tư liệu điện tử là công cụ hỗ trợ giáo
viên xây dựng các tình huống có vấn đề, tạo hứng thú nhận thức
và động cơ học tập của học sinh. Ở hoạt động này, giáo viên có

thể sử dụng các mơ hình mơ phỏng các hiện tượng xảy ra trong tự
nhiên nhưng tại thời điểm học tập lại không thể trực tiếp quan sát
được, hay giáo viên có thể sử dụng một số hình ảnh, video mơ tả
một hiện tượng nào đó trái với quan niệm ban đầu của học sinh để
hình thành tình huống có vấn đề, nhằm tạo cho học sinh nhu cầu
tìm hiểu, giải thích – đây là điều mà các tư liệu dạy học truyền
thống khó có thể làm được. Trong pha hành động độc lập, học
sinh phải lựa chọn công cụ sẽ sử dụng, lập phương án làm việc,
thu thập, xử lí dữ liệu nhằm giải quyết nhiệm vụ học tập được
giao. Cuối cùng trong pha tranh luận, thể chế hóa và vận dụng tri
thức mới, tư liệu điện tử là cơng cụ để học sinh trình bày, tranh
luận, đưa ra chứng cứ và bảo vệ kết quả tìm hiểu của bản thân hay
của nhóm.
Với việc xây dựng hệ thống tư liệu điện tử sử dụng trên máy
tính cá nhân sẽ tạo ra thuận lợi cho việc tận dụng tối đa thời gian và
không gian học tập, học sinh có thể học mọi lúc, mọi nơi một cách
chủ động để đạt hiệu quả cao nhất. Nguồn tài liệu được số hóa này


có kích thước rất gọn nhẹ, dễ dàng mang theo, sử dụng dễ dàng chỉ
cần một máy tính với cấu hình vừa phải. Đặc biệt, nguồn tư liệu
điện tử này có thể dễ dàng chia sẻ thơng qua đường link, email nên
gia tăng khả năng chia sẻ và kết nối trên một không gian học tập
rộng lớn.
Hệ thống tư liệu điện tử gồm một tập hợp các cứ liệu theo
từng chủ đề, được sắp xếp một cách logic phù hợp với nội dung
u cầu của chương trình mơn học nên người học có thể chủ động
học tập theo nhu cầu và khả năng của bản thân. Người học có thể
học theo tiến độ của bản thân, có thể học nhiều lần, lặp lại từng
phần tùy nhu cầu cụ thể của người học.

Hệ thống tư liệu điện tử được sắp xếp theo từng chủ đề, với
các hình thức đa dạng như văn bản, bài giảng powerpoint, bài
giảng e – learning, tranh ảnh, bản đồ, video clip,... nên khi học tập
với nguồn cứ liệu này sẽ giúp học sinh phát triển óc thẩm mĩ, tạo
sự hứng thú trong quá trình học tập và lĩnh hội tri thức. Hệ thống
các khái niệm trong sách giáo khoa khá trừu tượng, đối tượng
được đề cập tới là các không gian rộng lớn lại không gần gũi với
đời sống hàng ngày nên các tư liệu có tính trực quan cao sẽ là
phương tiện học tập tuyệt vời để giảm bớt khó khăn cho học sinh
trên con đường hình thành khái niệm và phát triển tư duy.
Cuối cùng, khi khai thác và sử dụng hệ thống tư liệu điện tử
trong dạy học giáo viên sẽ có thể kết hợp được nhiều phương


pháp dạy học tích cực như dạy học dự án, dạy học đảo ngược
thông qua việc cung cấp cho học sinh nguồn tài liệu có sẵn trên hệ
thống, học sinh có nhiệm vụ khai thác, tìm hiểu để đáp ứng các
yêu cầu của giáo viên. Đồng thời, chúng ta sẽ phát huy được quan
điểm lấy người học làm trung tâm: việc lựa chọn phương pháp
học, cách thức học và nội dung học hồn tồn phụ thuộc vào
người học. Vì vậy, người học phải tích cực hơn, chủ động hơn
trong quá trình lĩnh hội kiến thức, phát huy cao độ tinh thần tự
học.
Nhược điểm của tư liệu điện tử dạy học
Bên cạnh những ưu thế vượt trội của hệ thống tư liệu điện tử
được sử dụng trong dạy học, chúng ta cũng cần nhìn nhận một số
hạn chế nhất định của phương tiện này:
Thứ nhất, để xây dựng được hệ thống tư liệu điện tử có chất
lượng địi hỏi rất nhiều thời gian, công sức của người giáo viên,
hệ thống này lại phải thường xuyên cập nhật các dữ liệu mới nên

nhiều giáo viên sẽ không lựa chọn xây dựng nguồn tư liệu này,
thay vào đó sẽ lựa chọn nguồn tư liệu truyền thống. Đây là hệ
thống tư liệu điện tử với hình thức rất đa dạng, đó là các file đa
phương tiện nên địi hỏi người xây dựng khơng chỉ có hiểu biết về
chun mơn mà cần thành thạo một số kĩ năng tin học nhất định,
chính vì vậy đây sẽ là trở ngại lớn nhất đối với giáo viên trên con
đường xây dựng hệ thống tư liệu dạy học cho riêng mình.


Thứ hai, trong điều kiện hiện nay của nước ta, điều kiện kinh
tế của nhiều học sinh vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu về cơ sở
vật chất (như máy tính, mạng internet) để có thể tiến hành học tập
bằng hệ thống tư liệu điện tử, đặc biệt là học sinh ở vùng nông
thôn, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo. Chính vì vậy, các
em vẫn phải chấp nhận học tập trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở
vật chất, phương tiện học tập thiết yếu.
Thứ ba, khi học tập bằng nguồn tư liệu học tập điện tử, học
sinh sẽ được học tập và tương tác trên mơi trường học tập ảo nên
địi hỏi học sinh phải có tính tự chủ rất cao. Nhiều học sinh học
tập trong mơi trường đơn độc, thiếu đi sự kích thích của giáo viên,
bạn học nên không chủ động học tập, đánh mất đi cơ hội tự học,
tự khám phá.
Vai trò của việc sử dụng tư liệu điện tử trong dạy học địa lí
Với sự hỗ trợ của tư liệu dạy học điện tử, mơ hình lớp học
truyền thống sẽ có nhiều thay đổi, thời gian và không gian học tập
của học sinh được mở rộng. Lúc đó, việc dạy của giáo viên và
việc học của học sinh không chỉ diễn ra trên lớp học truyền thống
mà cịn có thể diễn ra ở bất cứ không gian và thời gian nào, thời
gian học sẽ khơng bị gói gọn ở những tiết học theo quy định.
Chính vì vậy, khi sử dụng một cách hợp lí hệ thống tư liệu điện tử

trong dạy học, chúng ta sẽ đạt được các tiêu chí sau:


×