Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.97 KB, 15 trang )

cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy học trực
quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông

1.1 Một số khái niệm liên quan

1.1.1 Phương pháp dạy học trực quan
1.1.1.1 Trực quan:
Trực quan là quá trình quan sát, nhận biết sự vật hiện tượng bằng các giác
quan của con người.
1.1.1.2 Phương tiện trực quan:
Phương tiện trực quan là các phương tiện dạy học (vật thật, vật tượng trưng,
mơ hình, tranh vẽ, sơ đồ, . . .) diễn tả một đối tượng nào đó. Nói cách khác,
phương tiện trực quan là những phương tiện (công cụ) mà giáo viên và học sinh sử
dụng trong quá trình dạy học nhằm cung cấp tri thức, rèn luyện kỹ năng cho học
sinh thông qua sự tri giác trực tiếp bằng các giác quan.
Dựa vào tác động của tài liệu trực quan vào các giác quan người ta chia ra:
phương tiện trực quan nghe, phương tiện trực quan nhìn, phương tiện trực quan
nghe nhìn ...
Dựa vào nguồn gốc, người ta xếp phương tiện trực quan thành hai nhóm cơ bản:
+ Nhóm phương tiện trực quan nhân tạo: Nhóm này gồm có mơ hình, hình vẽ, sơ
đồ nguyên lí, đồ thị, sơ đồ khối, sơ đồ lắp ráp. Những phương tiện trực quan này
dùng để phác họa bản chất, cấu tạo chính của vật phẩm kĩ thuật hay một q trình
sản xuất cơng nghiệp. Nó dùng để phản ánh những mối liên hệ giữa các hiện tượng
vật lí, kĩ thuật và thao tác thực hành kĩ thuật.
+ Nhóm phương tiện trực quan tự nhiên: Nhóm này bao gồm vật thật, sản phẩm kĩ
thuật. Loại phương tiện này có tác dụng giới thiệu cấu tạo, q trình hoạt động của
các máy móc, thiết bị.
Ngồi ra các thao tác (hoặc động tác) mẫu của giáo viên cũng là phương tiện
trực quan sinh động trong việc giới thiệu các hành động, thao tác kĩ thuật.
1.1.1.3 Phương pháp dạy học trực quan:



Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học trong đó sử dụng các
vật thể kỹ thuật, các q trình cơng nghệ, các phương tiện gián tiếp và các thao tác
kỹ thuật công nghệ nhằm giúp học sinh trực tiếp cảm giác, tri giác tài liệu mới trên
cơ sở đó tạo ra các biểu tượng cụ thể trong học sinh, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo.
Phương pháp dạy học trực quan bao gồm: hoạt động quan sát của học sinh và
hoạt động trình bày trực quan của giáo viên. Hai hoạt động này luôn tương tác và
hỗ trợ cho nhau thúc đẩy quá trình nhận thức đạt hiệu quả cao.
1.1.2 Chất lượng dạy học
1.1.2.1 Chất lượng
Theo tiêu chuẩn quản lí của quốc tế thì: "Chất lượng là tập hợp các đặc tính
của một thực thể, tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã được
cơng bố hoặc cịn tiềm ẩn ”.
1.1.2.2 Chất lượng dạy học
Từ khái niệm về chất lượng như trên ta thấy rằng trong hồn cảnh giảng dạy
cụ thể thì kết quả học tập (mức độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh đạt được
sau khi học) phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp giảng dạy của giáo viên. Người
giáo viên cần biết kết hợp, sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp dạy học.
Đồng thời phải biết cách lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với yêu cầu và
nội dung bài giảng sao cho học sinh lĩnh hội được kiến thức, kĩ năng đồng thời
phát triển được tư duy và trí tưởng tượng.
Như vậy chất lượng dạy học chính là chất lượng tri thức mà người giáo viên
truyền thụ cho học sinh, học sinh lĩnh hội những tri thức đó và phải đạt được trình
độ nhất định theo mục tiêu của môn học đặt ra.
Trong thực tế hiện nay của nước ta thì chất lượng dạy học nói riêng và chất
lượng giáo dục nói chung cịn thấp, chưa đáp ứng đuợc nhu cầu của xã hội về
nguồn nhân lực. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do việc kiểm soát quá


trình làm ra chất lượng trong giáo dục và dạy học chưa được thực hiện theo một

hệ thống chuẩn mực thống nhất.
1.1.2 Chất lượng dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông
Mục tiêu đặt ra cho môn học là phải làm sao giúp học sinh:
+ Hiểu được: hệ thống kiến thức cơ bản, hiện đại, thực tiễn về cấu tạo và
nguyên lí hoạt động của động cơ đốt trong; cấu tạo và nguyên lí hoạt động của các
hệ thống chính trên động cơ đốt trong, ơtơ (hiểu được nghĩa là có thể phân tích, so
sánh, phân biệt, tóm tắt, liên hệ, xác định, giải thích ... được về đối tượng nhận
thức).
+ Hình thành và rèn luyện một số kĩ năng: đọc hiểu sơ đồ cấu tạo, sơ đồ
nguyên lý hoạt động của các cơ cấu, hệ thống; nhận biết các dấu hiệu cơ bản để
phân biệt các loại động cơ đốt trong, ôtô.
+ Phát triển tư duy kĩ thuật và năng lực kĩ thuật. Cụ thể là: từ sơ đồ hình
dung được vị trí, hình dạng và cơng dụng của các bộ phận chính trên động cơ đốt
trong, ơtơ; khái qt được ngun lí hoạt động của các bộ phận trên sơ đồ cấu tạo
và chỉ ra ứng dụng thực tế của nó.
+ Hình thành thế giới quan khoa học và nhân cách, định hướng nghề nghiệp.
Mục tiêu này là cơ sở để đánh giá chất lượng dạy học môn kĩ thuật công
nghiệp lớp 11 phổ thông.
1.2 Cơ sở lí luận củaviệc sử dụng phương pháp dạy học trực quan.

1.2.1 Cơ sở khoa học của phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn
kĩ thuật công nghiệp phổ thông
1.2.1.1 Cơ sơ triết học
Chúng ta đều biết rằng mọi lý thuyết bắt nguồn từ thực tiễn. Vì vậy lí luận
về nhận thức coi thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích đồng thời là tiêu chuẩn
kiểm tra kiến thức.


Theo quan điểm duy vật biện chứng quá trình nhận thức trải qua ba giai
đoạn: giai đoạn nhận thức cảm tính, giai đoạn nhận thức lí tính, giai đoạn tái sinh

cái cụ thể và cái trừu tượng. Vấn đề này Lênin đã chỉ ra: ”Từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện
chứng của nhận thức chân lí, nhận thức thực tại khách quan”.
Quan điểm này cho rằng trực quan là xuất phát điểm của nhận thức, tức là
trực quan là nguồn cung cấp tri thức. Sự trực quan sinh động được đặc trưng bởi
quá trình tâm lí đó là: cảm giác, tri giác biểu tượng, các q trình tình cảm và ý chí.
Sự nhận thức này mới chỉ phản ánh được các thuộc tính bên ngồi, thuộc tính
khơng bản chất. Tuy nhiên, ở đây đã xuất hiện yếu tố cơ sở của tư duy (hình ảnh
trực quan). Để nhận thức được bản chất của sự vật và hiện tượng cần xử lí các
thơng tin trong trí óc. Từ hình tượng cảm tính thu được, loại bỏ các khía cạnh ngẫu
nhiên khơng bản chất ghi lại những dấu hiệu cơ bản, giống nhau; nghĩa là để nắm
được bản chất cần có tư duy.
Như vậy trực quan sinh động - nhận thức cảm tính, tư duy trừu tượng và
nhận thức lí tính là những bộ phận hữu cơ của quá trình lĩnh hội tri thức.
Tri thức cần phải kiểm tra và vận dụng qua thực tiễn, tức là kết quả cao nhất
của nhận thức. Thực tiễn cao hơn này lại tạo thành sự trực quan sinh động cao hơn
cho quá trình nhận thức mới. Quá trình nhận thức là sự thống nhất giữa trực quan
sinh động và tư duy trừu tượng với sự xâm nhập của thực tiễn vào cả hai.
1.2.1.2 Cơ sở tâm - sinh lí học.
Quá trình dạy học là một quá trình nhận thức được tổ chức một cách đặc
biệt. Quá trình này theo thuyết duy vật biện chứng gồm ba giai đoạn kế tiếp nhau:
giai đoạn nhận thức cảm tính, giai đoạn nhận thức lí tính và giai đoạn tái sinh cái
cụ thể trong tư duy.
Nhận thức cảm tính là giai đoạn phản ánh trong ý thức con người các sự vật,
hiện tượng với tập hợp các thuộc tính. Nhận thức cảm tính được nảy sinh do các


tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các giác quan của con người (thị giác,
thính giác, . . .). Cơ sở tâm lí của nhận thức cảm tính là tín hiệu thứ nhất. Tư duy
trừu tượng là hệ thống tín hiệu thứ hai, nó là giai đoạn phản ánh trừu tượng, khái

quát hoá đối tượng nhận thức dưới dạng những khái niệm, định luật, học thuyết.
Nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp của q trình nhận thức nhưng nó giữ vai trị
quan trọng vì từ đó tạo ra chất liệu cho quá trình tư duy trừu tượng. Khơng có nhận
thức cảm tính thì sẽ khơng có quá trình tư duy trừu tượng. Giai đoạn tái sinh cái cụ
thể trong tư duy là sự kiểm tra và vận dụng tri thức mới thu được vào tình huống
mới.
Trong dạy học để tổ chức quá trình nhận thức được thuận lợi người ta sử
dụng phổ biến các phương tiện trực quan, nhất là với học sinh phổ thông. Với đối
tượng học tập chính là học sinh phổ thơng, giai đoạn này cần phải đảm bảo cho
chúng nắm vững các tài liệu trực quan, tức là thu nhận được càng nhiều tư liệu cảm
tính thì càng tốt. Tư liệu cảm tính càng phong phú thì sự trừu tượng hố càng hiệu
nghiệm. Việc sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học nhằm giúp học sinh
quan sát và từ đó giúp học sinh thu nhận các thông tin về những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ – quan hệ của cái cụ thể hiện thực. Tuy vậy quan sát phải
gắn bó với tư duy trừu tượng, trên cơ sở khái qt hố thì nó mới để lại dấu vết
mạnh mẽ trong ý thức học sinh. Nhà giáo dục học Liên Xô Usinxki đã khẳng định
rằng: ”Trong ý thức học sinh chỉ để lại dấu ấn sâu sắc nhất khi giáo viên tác động
cùng lúc đến nhiều giác quan học sinh, có nghĩa vừa giảng giải vừa đưa cho học
sinh xem thậm chí cho học sinh cảm giác các sự vật cần nghiên cứu”. Vì vậy khi
giảng bài giáo viên vừa phải giảng bài vừa đưa cho học sinh xem các tranh vẽ, mơ
hình, phim ảnh hay vật thật, . . . để tăng độ rõ của ấn tượng.
Những nghiên cứu về tâm lí trong dạy học cho thấy rằng mỗi giác quan của
con người có khả năng tri giác một khối lượng thông tin khác nhau trong cùng một
thời gian. Để đánh giá khả năng tri giác thông tin trong một đơn vị thời gian, người


ta đưa ra khái niệm năng lực dẫn thông của đường tiếp thu thông tin học tập. Năng
lực dẫn thông là khả năng tiếp nhận thông tin trong một đơn vị thời gian. Với các
giác quan cụ thể người ta đã rút ra đuợc: Năng lực dẫn thông của đường tiếp thu
thông tin bằng thị giác là lớn hơn nhiều (khoảng 100 lần) so với thính giác. Điều

đó được giải thích là vì: khác với lời nói (thơng tin đến với học sinh chậm, chủ yếu
theo con đường thính giác một cách từ từ theo trình tự và ý nghĩa của từng từ, câu
nói), thơng tin truyền theo con đường thị giác cùng một lúc cho một hình ảnh trọn
vẹn với tất cả các chi tiết của đối tượng nhận thức. Điều này nói lên được nhiều ưu
điểm của phương pháp dạy học trực quan so với phương pháp dạy học dùng ngôn
ngữ nhưng không thể coi là tối ưu và vạn năng được, vì nó phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác.
Như vậy người giáo viên phải biết sử dụng hợp lý khả năng dẫn thông của
các đường tiếp thu thông tin để ghi lại các thông tin học tập trong ý thức học sinh.

1.2.1.3 Yêu cầu của bản thân môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông.
Đối tượng nghiên cứu của phân môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thơng
là nghiên cứu một loại máy móc cụ thể, ứng dụng rộng rãi trong thực tế. Nhưng
các loại máy này lại được xây dựng trên cơ sơ lí thuyết mà học sinh chưa đủ kiến
thức cơ sở để hiểu về nó. Ví dụ kiến thức về nhiệt kỹ thuật, cơ kỹ thuật, . . .
Vấn đề đặt ra là người giáo viên phải chỉ rõ cơ sở khoa học và khắc sâu
những nguyên lí kĩ thuật cho học sinh. Giáo viên phải sử dụng hợp lí các phương
tiện trực quan kết hợp với lời giải thích tương ứng.
Xuất phát từ bản thân vật phẩm kĩ thuật, xuất phát từ việc nghiên cứu cấu
tạo và nguyên lí hoạt động của vật phẩm kĩ thuật. Mối liên hệ này thể hiện mối liên
hệ giữa cái cụ thể trực quan với cái trừu tượng lí thuyết trong đó trực quan sinh
động là điểm xuất phát của nhận thức.


Trực quan sinh động đóng vai trị quan trọng để tạo ra ba yếu tố: khái niệm hình ảnh - thao tác giúp tư duy kĩ thuật của học sinh được phát triển. Trực quan
sinh động cịn góp phần hình thành ba khâu: lĩnh hội - thiết kế - vận dụng kĩ thuật
trong việc bồi dưỡng năng lực kĩ thuật của học sinh. Khi hình thành năng lực kĩ
thuật, giáo viên thường phải diễn tả các thao tác để học sinh quan sát, đó chính là
phương tiện trực quan cần thiết.
Như vậy sự thống nhất giữa cái cụ thể và trừu tượng địi hỏi trực quan phải

tác động đến tồn bộ q trình lĩnh hội các tri thức kĩ thuật.
Có thể tóm tắt mối liên hệ giữa cụ thể với trừu tượng như sơ đồ sau:
Trực quan (cụ thể)
Mơ hình
Lý thuyết (khái niệm)
Q trình trừu tượng hố (quy nạp)
Q trình cụ thể hoá (suy diễn)
Sơ đồ trên cho thấy: cái cụ thể (trực quan) và cái trừu tượng (lý thuyết) đều
là kết quả của q trình nhận thức, trong đó mơ hình đóng vai trị cầu nối, thể hiện
mối liên hệ giữa hai con đường nhận thức là quy nạp và suy diễn.
1.2.2 Một số phương tiện trực quan thường dùng trong dạy học môn kĩ thuật
công nghiệp lớp 11 phổ thông
Do đặc điểm của môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông chủ yếu dạy về
hoạt động và cấu tạo của các cơ cấu và hệ thống của động cơ đốt trong và ôtô nên
phương tiện trực quan chủ yếu là:
- Vật thật: các chi tiết, bộ phận của động cơ đốt trong, ơtơ.
- Mơ hình: mơ hình động cơ 4 kỳ, động cơ 2 kỳ, mơ hình động cơ xăng, động
cơ điêden, mơ hình hộp số, mơ hình hệ thống truyền lực, . . .
- Hình vẽ: sơ đồ, tranh giáo khoa, đồ thị, . . . biểu diễn các cơ cấu, hệ thống,
bộ phận, chi tiết, . . . của động cơ đốt trong, ôtô.


Các phương tiện trực quan trên còn được sử dụng như một phương tiện thực
hành để hướng dẫn học sinh tìm tịi bộ phận trong các giờ thực hành.
1.2.3 Những yêu cầu đối với phương tiện trực quan và với việc sử dụng
phương tiện trực quan trong dạy học
1.2.3.1 Những yêu cầu đối với phương tiện trực quan
Phương tiện trực quan phải đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Phương tiện trực quan phải phù hợp với mục tiêu và nội dung bài giảng,
thúc đẩy khả năng tiếp thu của học sinh.

+ Phương tiện trực quan phải đảm bảo tính khoa học; nghĩa là phản ánh
được các dấu hiệu chủ yếu của đối tượng phản ánh.
+ Phương tiện trực quan phải được chế tạo đúng quy định, nhất là các yêu
cầu kỹ thuật, mỹ thuật.
+ Phương tiện trực quan phải đơn giản, dễ sử dụng, không mất nhiều thời
gian trong giờ dạy.
+ Phương tiện trực quan phải đủ lớn đảm bảo cho tất cả học sinh trong lớp
đều quan sát được các sự vật hiện tượng một cách rõ ràng. Vì trong quá trình dạy
học người giáo viên phải tổ chức hướng dẫn và điều khiển học sinh quan sát theo
trình tự, phân tích được tồn diện đối tượng.
1.2.3.2 Những u cầu khi sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học
Khi sử dụng phương tiện trực quan trong giảng dạy cần chú ý tới các yêu
cầu sau:
+ Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ; dùng đến đâu đưa ra đến đó, tránh sự phân tán
chú ý của học sinh.
+ Sử dụng đúng liều lượng, khơng ảnh hưởng đến q trình tư duy của học
sinh.
+ Kết hợp nhiều loại phương tiện trực quan để huy động được nhiều giác
quan của học sinh (đa phương tiện).


+ Sử dụng theo đúng trình tự vận động kiến thức và tiến trình bài dạy; kết
hợp hướng dẫn quan sát với trả lời các câu hỏi gợi mở để học sinh suy nghĩ (tư
duy) tìm ra bản chất của đối tượng nhận thức.
1.3 Thực trạng của việc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công
nghiệp lớp 11 phổ thông

1.3.1 Khái quát về thực trạng dạy học môn kĩ thuật công nghiệp phổ thông
Trên thực tế giảng dạy thì chất lượng dạy học mơn kĩ thuật cơng nghiệp lớp
11 phổ thơng nói riêng và mơn kĩ thuật cơng nghiệp nói chung chưa đạt được hiệu

quả cao, chưa đáp ứng được mục tiêu của môn học đề ra cũng như yêu cầu của xã
hội. Sở dĩ như vậy là vì sau khi học xong chương trình kĩ thuật công nghiệp lớp 11
hầu như học sinh chưa nhận biết được các loại động cơ, chưa hiểu rõ về nguyên lý
hoạt động của chúng. Học sinh chưa định hướng được mục đích mình học mơn học
này để làm gì, áp dụng vào thực tế ra sao. Chính vì vậy mà các em cịn coi thường
mơn học này, chưa quan tâm học hỏi về nó nhiều. Mặt khác mơn học này ở phổ
thông chưa được đánh giá đúng đắn, cịn xem đây lá một mơn học phụ, học sinh
học tập theo kiểu đối phó. Hơn thế nữa nhiều trường cịn tuỳ tiện cắt giảm số tiết
hoặc thậm chí bỏ môn kĩ thuật công nghiệp chỉ dạy môn kĩ thuật nông nghiệp; về
nội dung môn học đa dạng phức tạp nhưng số tiết /tuần quá ít (1tiết); do vậy học
sinh khó nhớ, mau qn; cách tính điểm cho mơn học chưa hợp lí: tính điểm ghép
chung với mơn kĩ thuật nơng nghiệp.
Về phía học sinh thì như vậy cịn về phía giáo viên cũng cịn nhiều vấn đề
chưa được giải quyết. Hiện nay, đội ngũ giáo viên dạy kĩ thuật còn thiếu trầm
trọng. Lực lượng giáo viên đứng lớp dạy kĩ thuật cơng nghiệp chỉ chiếm khoảng
50 ÷ 60% số giáo viên kĩ thuật công nghiệp đã được đào tạo ra. Số giáo viên đúng
chuyên ngành ở trung học cơ sở là 10%, ở trung học phổ thông là 30%, số còn lại
được lấy từ nhiều nguồn khác nhau như giáo viên lí - kĩ thuật cơng nghiệp (Đại học
sư phạm II ), giáo viên Vật lí hay giáo viên Tốn (dạy chương trình kĩ thuật lớp


10 ), . . . Thậm chí ở một số trường, giáo viên các môn xã hội cũng được chuyển
sang dạy môn kĩ thuật công nghiệp.
Như vậy phần lớn giáo viên kĩ thuật công nghiệp là giáo viên kiêm nhiệm
nên tâm lí người dạy khơng ổn định, chất lượng khơng đồng đều, hiệu quả bài dạy
còn hạn chế.
Về phương pháp giảng dạy, hầu hết các giáo viên vẫn sử dụng các phương
pháp giảng dạy nặng về thuyết trình, giảng giải, ít sử dụng phương tiện trực quan,
ít liên hệ kiến thức với thực tế, . . .
Trong thực tế, khoa học và công nghệ đang thay đổi từng ngày từng giờ, các

hiện tượng thực tế học sinh phải tiếp xúc vô cùng phong phú. Nhưng việc đào tạo
lại và bồi dưỡng thêm cho giáo viên không được chú ý đúng mức, vì thế trong
giảng dạy, nhiều giáo viên được đào tạo đúng chuyên ngành vẫn tỏ ra lúng túng
chứ chưa nói đến những giáo viên trái mơn. Do vậy, nhiều khi giáo viên dạy không
đúng kiến thức cho học sinh, dẫn tới tình trạng học sinh học mà đơi khi khơng hiểu
được bản chất của vấn đề.
Nói tóm lại, đội ngũ giáo viên kỹ thuật hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu
dạy kĩ thuật công nghiệp ở các trường phổ thông.
Môn kĩ thuật công nghiệp là một môn mang tính ứng dụng cao. Hầu hết các
nội dung mơn học đều gắn với những ứng dụng trong thực tiễn. Vì vậy, dạy học kĩ
thuật cơng nghiệp có hiệu quả địi hỏi phải có đầy đủ trang thiết bị cần thiết: mơ
hình, vật thật, nhà xưởng, . . . Mơn kĩ thuật cơng nghiệp lớp 11 là phân mơn có
nhiều nội dung khá trừu tượng, nhiều khi giải thích học sinh cũng không hiểu được
nhưng nếu được quan sát bằng phương tiện trực quan kết hợp với lời giảng giải của
giáo viên thì học sinh có thể hiểu và nắm bài rất nhanh.
Trong thực tế hiện nay cho thấy: Khoảng 80% số trường THPT khơng có
phịng học bộ mơn và xưởng thực hành. Xưởng thực hành chỉ được xây dựng ở
một số rất ít trường thành phố, thị xã. Lực lượng ít, xưởng trường khơng có, trang


thiết bị cịn nghèo nàn dẫn đến tình trạng giáo viên chỉ dạy phần lí thuyết, dạy chay
là chủ yếu; việc sử dụng phương tiện đã có hoặc cải tiến làm thêm đồ dùng dạy học
ít được quan tâm.
Từ thực trạng nêu trên mà chất lượng dạy học môn kỹ thuật công nghiệp lớp
11 chưa đạt được hiệu quả cao, chưa đạt được mục tiêu môn học đề ra đặc biệt là
chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Để cải thiện tình hình trên và nâng cao chất lượng dạy học môn kĩ thuật
công nghiệp lớp 11 phổ thông thì cần phải giải quyết một số vấn đề sau:
+ Hồn thiện nội dung chương trình sao cho những vấn đề kĩ thuật được
giảng dạy vừa cơ bản, sát thực tiễn và đảm bảo tính hiện đại.

+ Xác định rõ vị trí vai trị của mơn học.
+ Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường phổ thơng.
+ Phải nâng cao trình độ giáo viên dạy Kĩ thuật.
+ Phải đổi mới phương pháp dạy học.
1.3.2 Tìm hiểu các phương tiện trực quan hiện có ở trường phổ thông cho môn
học kĩ thuật công nghiệp
Như trên chúng ta đã biết được vai trò rất lớn của phương tiện dạy học trực
quan trong việc hỗ trợ người giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh. Phương
tiện trực quan kích thích q trình học tập tìm tịi, sáng tạo, . . .

phát triển tư duy

lôgic của học sinh.
Trong thực tế quá trình học tập trước đây ở phổ thông và qua hai đợt thực
tập sư phạm ở trường PTTH Vân Cốc, em đã trực tiếp tìm hiểu cơ sở vật chất kĩ
thuật của trường thực tập và thu được kết quả như sau:
Phương tiện dạy học trực quan ở các trường phổ thơng hiện nay cịn q ít,
không đủ đáp ứng nhu cầu dạy và học của giáo viên và học sinh. Đối với tất cả các
phân mơn, các khối lớp khác nhau thì phương tiện trực quan dành cho giảng dạy và


học tập chủ yếu là tranh giáo khoa. Đặc biệt đối với phân mơn kĩ thuật cơng nghiệp
thì phương tiện dạy học trực quan là vô cùng thiếu.
+ Đối với lớp 10 thì đồ dùng trực quan dành cho giảng dạy và học tập chỉ có
tranh giáo khoa, cịn lại các, mơ hình, vật thật, . . . hồn tồn khơng có.
+ Đối với lớp 12 thì đồ dùng trực quan cũng chỉ là tranh giáo khoa, một số
linh kiện điện tử như (tranzito, tụ, điện trở, . . .), biến áp.
+ Đối với khối 11 đây là một khối học nằm giữa khối 10 và12 . Đặc thù của
môn kĩ thuật công nghiệp 11 là môn học gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Tất cả
các máy móc nghiên cứu ở chương trình học này học sinh thường xuyên va chạm

và tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Nội dung phân môn chứa đựng rất nhiều
khái niệm trừu tượng, các ngun lí hoạt động, cấu tạo của máy móc động cơ địi
hỏi phải có trực quan nhưng trực quan lại vô cùng thiếu thốn. Đồ dùng trực quan
cho môn kĩ thuật cơng nghiệp lớp 11 mới chỉ có tranh giáo khoa phóng to và sơ đồ
khối do giáo viên tự làm lấy. Còn các loại phương tiện trực quan rất quan trọng và
cần thiết như: mơ hình, vật thật, . . . thì lại chưa có.
Đối với phân mơn kĩ thuật cơng nghiệp lớp 11 có rất nhiều kiến thức liên
quan đến thực tế cuộc sống chính vì vậy cần có trang thiết bị, đồ dùng trực quan để
giảng dạy lí thuyết cũng như thực hành cho học sinh. Thông qua phương tiện trực
quan ấy học sinh sẽ phát triển tư duy lơgic, óc sáng tạo, tay nghề kĩ thuật. Trên
thực tế hiện nay cơ sở vật chất kĩ thuật dành cho phân mơn này cịn thiếu, các
trường hầu như khơng có phịng thực hành dành cho phân mơn kĩ thuật. Riêng một
số trường dạy nghề đã có nhưng quá ít so với nhu cầu dạy và học hiện nay.
1.3.3 Tìm hiểu việc sử dụng phương tiện trực quan và phương pháp dạy học
trực quan ở phổ thông
Việc sử dụng phương tiện trực quan và phương pháp dạy học trực quan ở
trường phổ thông là một vấn đề cần quan tâm đến hiện nay. Thông qua đợt thực tập
sư phạm trực tiếp tìm hiểu, trao đổi với các giáo viên kĩ thuật, tham gia dự giờ


giảng của giáo viên, của sinh viên; em nhận thấy việc sử dụng phương tiện trực
quan để giảng dạy môn kĩ thuật cơng nghiệp là q ít. Đối với tất cả các khối lớp
phần lớn giáo viên dạy chay không sử dụng phương tiện trực quan, nếu có sử dụng
thì cũng chỉ sử dụng tranh giáo khoa. Một số giáo viên có thêm sơ đồ khối tự vẽ,
mơ hình thì hầu như khơng có. Điều này cũng một phần do cơ sở vật chất kĩ thuật
còn nghèo nàn, trang thiết bị ở phổ thơng cịn thiếu thốn, phần cịn lại là do giáo
viên còn ngại sử dụng phương tiện trực quan trong giờ giảng. Bởi vì khi sử dụng
phương tiện trực quan trong giờ giảng đòi hỏi người giáo viên phải có sự chuẩn bị
bài giảng kĩ càng hơn để có thể giải đáp được các câu hỏi mà học sinh đưa ra,
khơng bị bất ngờ hay khó xử.

Trong khi sử dụng phương tiện trực quan để giảng dạy, giáo viên cịn mắc
phải một số sai sót sau:
+ Đánh giá chưa đúng hoặc đánh giá quá cao vai trò của phương tiện trực
quan.
+ Kiến thức và phương pháp giảng dạy của giáo viên trong việc sử dụng
phương tiện trực quan còn lúng túng, dẫn đến hiệu quả sử dụng phương tiện trực
quan bị giảm sút.
+ Giáo viên sử dụng phương tiện trực quan : tranh ảnh, sơ đồ, . . . quá lâu
trong giờ học làm học sinh mất đi cảm giác mới mẻ và thấy nhàm chán.
+ Nhiều giáo viên đặt tất cả phương tiện trực quan của giờ dạy lên bàn làm
phân tán sự chú ý của học sinh, khiến học sinh chỉ tập trung quan sát các đồ dùng
trực quan mà không quan tâm chú ý đến lời giảng của giáo viên .
+ Hầu hết giáo viên sử dụng phương tiện trực quan chỉ như là để minh họa
mà khơng coi đó là nguồn thơng tin rất tốt cho học sinh tự khám phá kiến thức.
Phương pháp dạy học trực quan là một phương pháp dạy học có từ rất lâu.
Tuy nhiên việc vận dụng nó trong giảng dạy hàng ngày còn chưa phổ biến. Hiện
nay phương pháp dạy học trực quan đang được phổ biến rộng rãi trong chương


trình dạy học ở bậc mẫu giáo và tiểu học , ngày càng được phát triển ở các cấp học
khác.
Đối với chương trình kĩ thuật cơng nghiệp phổ thơng việc vận dụng phương
pháp dạy học trực quan để giảng dạy còn chưa được phát triển rộng rãi. Đặc biệt là
đối với chương trình kĩ thuật cơng nghiệp lớp 11. Vấn đề cơ bản là do cơ sở vật
chất kĩ thuật của các trường phổ thơng cịn nghèo nàn, trang thiết bị dành cho dạy
học trực quan còn thiếu thốn, hầu như các trường cịn chưa có phịng thực hành. Vì
vậy người giáo viên đôi khi muốn giảng dạy bằng phương pháp dạy học trực quan
cũng khơng có đủ điều kiện vật chất để dạy.
Một điều đáng quan tâm hơn nữa là do phương pháp dạy học trực quan đòi
hỏi người giáo viên phải có lượng kiến thức vững vàng, phải biết sử dụng một cách

linh hoạt các phương tiện trực quan, . . . Trong khi đó trình độ của giáo viên hiện
nay chưa thể đáp ứng được nhu cầu trên. Giáo viên kĩ thuật công nghiệp ở các
trường phổ thơng có chun mơn cao cịn ít, tình trạng thiếu giáo viên kĩ thuật
được đào tạo bài bản khá phổ biến. Chính vì vậy mà việc sử dụng phương pháp
dạy học trực quan trong dạy học kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông là chưa
nhiều, chưa phổ biến.
Kết luận chương I
Qua nghiên cứu, phân tích cơ sơ lí luận và thực tiễn của đề tài có thể rút ra
một số kết luận sau:
Trực quan là một bộ phận của quá trình nhận thức, phương pháp dạy học
trực quan đã được nghiên cứu từ lâu và có cơ sở khoa học đã được xác định.
Phương pháp dạy học này khá phù hợp với yêu cầu và đặc điểm nội dung mơn kỹ
thuật cơng nghiệp, do đó sử dụng nó có thể nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
Thực trạng dạy học kĩ thuật công nghiệp phổ thông hiện nay còn nhiều vấn
đề tồn tại, đặc biệt là vấn đề thiếu các phương tiện dạy học, phương pháp dạy học
còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn hiện nay.
Việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy và học là
vấn đề đang được quan tâm hiện nay. Phương pháp dạy học trực quan là một trong


những phương pháp đem lại chất lương dạy học cao. Vận dụng cơ sở lí luận trên, ở
chương 2 của khố luận sẽ trình bày việc nghiên cứu sử dụng phương pháp dạy
học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông.



×