Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

NHỮNG NGUYÊN tắc và BIỆN PHÁP sử DỤNG PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH TRONG dạy học CHUYÊN đề ĐƯỜNG lối CÁCH MẠNG của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.42 KB, 48 trang )

NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP
THUYẾT TRÌNH TRONG DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ ĐƯỜNG LỐI CÁCH
MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


- Nguyên tắc sử dụng PPTT trong dạy học chuyên đề
“Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam” ở
TTBDCT Thành phố Tuy Hòa
Nguyên tắc được hiểu là ngọn nguồn, là cơ sở, là những
điểm cơ bản nó có tác dụng trong chỉ đạo toàn bộ của quá
trình dạy học để đạt hiệu quả.
Việc thực hiện xây dựng các nguyên tắc dạy học là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng của lý luận. Nó có tác dụng
nhàm định hướng cho việc thực hiện một bài giảng cho dù
người giáo viên có sử dụng phương pháp, hình thức dạy học
nào chăng nữa cũng phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc dạy
học.
Những nguyên tắc dạy học nó được xuất phát từ những
đặc điểm khách quan của những tri thức môn học, được xuất
phát từ đối tượng tham gia học tập và cũng được xuất phát từ
thực tế bản chất của nền giáo dục.
Trong tiến hành thực hiện dạy học LLCT, dạy học chuyên
đề “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam” cần
phải phải thực hiện theo những nguyên tắc chủ yếu sau:


- Nguyên tắc về đảm bảo tính giáo dục chính trị, tư
tưởng và đạo đức.
* Giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức là một yêu cầu
khách quan của sự nghiệp giáo dục đào tạo
Nguyên tắc của giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức là


nguyên tắc đầu tiên, cơ bản của công tác giáo dục và đào tạo
đối với bất kỳ một chế độ xã hội nào.
Từ hình thức của xã hội phong kiến, cũng đã quan tâm đề
cao về triết lý “tiên học lễ, hậu học văn” với ý nghĩa là trước
khi thực hiện việc học tri thức thì phải học đạo lý làm người
để biết đối nhân, xử thế.
Bên cạnh việc đề cao về triết lý đạo làm người trong xã
hội, thì còn phải quan tâm giáo dục những phẩm chất cao đẹp
của con người như lòng nhân ái, đức tính trung thực, lòng
dung cảm . . . đối với mỗi chế độ xã hội khác nhau lại có
những yêu cầu cụ thể đối với công tác giáo dục tư tưởng khác
nhau. Trong chế độ xã hội phong kiến đặt việc giáo người dân
phải “trung quân, ái quốc”, quy định về phẩm giá đối với phụ
nữ thì phải “tam tòng tứ đức”. Đối với chế độ của xã hội tư
bản thì giáo dục con người phải biết khát vọng vươn lên, luôn


luôn phải đấu tranh cho tự do dân chủ, có tinh thần dũng cảm
để chống lại những gì ràng buộc lỗi thời của chế độ phong
kiến, có sự đấu tranh để bảo vệ và tuân thủ những trật tự của
xã hội phong kiến. Chế độ xã hội XHCN thì đề cao giáo dục
tinh thần đấu tranh, lý tưởng thực hiện các mục tiêu vì chủ
nghĩa xã hội, thực hiện sống và làm việc theo triết lý “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”.
Nền giáo dục của chế độ XHCN thì bất kỳ hình thức giáo
dục nào cũng đều là sự thực hiện kết hợp giữa quá trình giáo
dục và giáo dưỡng. Trong thực hiện giảng dạy đòi hỏi phải
tiến hành thực hiện nguyên tắc giáo dục toàn diện, bao gồm:
đức, trí, thể, mỹ. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã từng
dạy: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức.

Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng. Nếu
không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”. Đây
được xác định là một nhiệm vụ trong thực hiện giảng dạy đối
với tất cả các môn học, riêng đối với các môn lý luận chính trị
thì nó có nhiều ưu thế trong việc thực hiện nguyên tắc này.
* Về yêu cầu và biện pháp để thực hiện nguyên tắc
giáo dục tư tưởng, đạo đức trong dạy học giáo dục chính
trị


- Về yêu cầu:
+ Trong dạy học giáo dục chính trị phải thực hiện việc
góp phần xây dựng được thế giới quan khoa học và cách
mạng, xây dựng phẩm chất của con người phù hợp với yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã xác định phương hướng công tác giáo dục tư tưởng,
đạo đức đó là: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng
yêu nước, Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn
hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền
đồ của đất nước”. Về con người mới để thích ứng với thời đại
ngày nay đó là những con người luôn năng động, có tinh thần
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, không thụ động, không cam
chịu đói nghèo, thiếu thốn, luôn có ý chí vươn lên để phát
triển và làm giàu từ chính sức lao động của bản thân mình
trên cơ sở tuân thủ những qui định về trách nhiệm, nghĩa vụ
và luật pháp, tham gia góp phần thực hiện những mục tiêu
chung về xây dựng phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam XHCN.



+ Giảng dạy các môn giáo dục chính trị phải xây dựng
cho được niềm tin đối với người học và niềm tin của người
học vào sự nghiệp xây dựng CNXH, vào đường lối phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Một vấn đề được xác định là nhân tố quan trọng trong
hoạt động giáo dục tuyên truyền đó là phải làm cho sự chuyển
đổi nhận thức biến thành niềm tin. Và niềm tin ấy phải được
thực hiện xây dựng dựa trên cơ sở nhận thức khoa học, từ cơ
sở đó sẽ hình thành nên thế giới quan một cách khoa học.
Muốn thực hiện được điều này thì đòi hỏi ở người thầy
phải có một phương pháp truyền đạt đến người học những tri
thức LLCT một cách khách qua, khoa học, qua đó làm cho
người học nhận thức được tính khoa học đối với những tri
thức đó, tránh tình trạng làm cho người học cảm thấy sự áp
đặt.
Chủ trương, đường lối chính của Đảng và của Nhà nước
ta đều được xây dựng dựa trên cơ sở của những quy luật
khách quan. Do vậy, muốn xây dựng và tạo niềm tin đối với
người học cần phải giáo dục, truyền đạt cho người học thấy rõ
những cơ sở khoa học của các Chủ trương, đường lối và chính


sách đó một cách cụ thể.
Qua quá trình giảng dạy và qua các bài giảng của môn
học giáo dục lý luận chính trị, cần tập trung truyền đạt giáo
dục cho người học thấy được những ưu việt của CNXH và qui
luật khách quan đối với sự thắng lợi chế độ XHCN, đồng thời
phải cũng chỉ ra được những bản chất thực của CNTB. Tuy

nhiên, trên thực tế mục đích nghiên cứu và thực hiện việc giáo
dục chính trị ở nước ta hiện nay không nhằm lật đổ chế độ xã
hội cũ mà chủ yếu là để xây dựng một xã hội mới xã hội chủ
nghĩa đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam lựa chọn. Chính vì
vậy trong quá trình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức về
LLCT người giáo viên phải xác định một cách đúng đắn mục
tiêu, mục đích của việc giảng dạy, bên cạnh việc phân tích chỉ
ra những cái tốt, cái ưu việt của chế độ XHCN, đồng thời nêu
rõ bản chất bóc lột của chế độ TBCN qua đó giáo dục công
dân nhận thức sâu sắc về chế độ mới, xây dựng cho họ lòng tự
tôn Dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, yêu thương con
người và từ đó có hành động đúng đắn, tham gia tích cực vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ XHCN
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra là xây dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh,


dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Về biện pháp để thực hiện nguyên tắc:
+ Tiến hành việc khai thác tối đa những nội dung của
môn học để thực hiện mục tiêu giáo dục.
Để thực hiện tốt vấn đề này thì đòi hỏi người giáo viên
giảng dạy giáo dục LLCT phải có tính chủ động xác định một
cách cụ thể những kiến thức của mỗi bài giảng về mục tiêu,
mục đích giáo dục. Ở đó người thày không những nghien cứu,
thực hiện cách thức để truyền đạt một cách chính xác những
nội dung của kiến thức, bên cạnh đó người giáo viên còn phải
xác định thông qua việc dạy nội dung kiến thức của môn học
thì còn phải tiến hành giáo dục cho người học những vấn đề
gì.

Ví dụ: khi giảng dạy phạm trù hàng hóa trong chương trình
Kinh tế chính trị. Khi truyền đạt đến người học những nội nội
dung kiến thức liên quan đến hàng hóa thì giáo viên có thể
thông qua đó giáo dục cho người học nhận thức được nhiều
điều như:
> Khi làm ra một hàng hóa để bán, thì người trực tiếp làm


ra nó đã phải bỏ ra một sức lao động để kết tinh trong nó nên
cần biết trân trọng lao động của người bán, cần thể hiện mình
là người “biết người, biết của” khi mua hàng hóa.
> Khi mua một hàng hóa nào đó cần nhớ tiền mà mình
mua hàng được làm ra từ lao động của bản thân hay của cha
mẹ, người thân nên phải biết trân trọng không được lãng phí.
+ Thực hiện việc kết hợp giáo dục thông qua hoạt động
giảng dạy trên lớp và ngoài lớp học.
Việc thực hiện công tác giáo dục đối với tư tưởng đạo đức
cho người học không những chỉ dừng lại ở phạm vi nhận thức
của người học mà còn làm sao để biến nhận thức đó thực sự
trở thành hành động đúng đắn, trở thành thói quen và những
hành vi đạo đức cốt lõi cơ bản.
Công tác thực hiện giáo dục thông qua những tri thức và
nội dung của môn học được xác định là con đường chính thức
để hình thành nên những nhận thức về mặt tư tưởng, về mặt
đạo đức thực sự hiệu quả, còn đối với việc thực hiện giáo dục
ở ngoài lớp học là cơ sở để hình thành nên thói quen và những
hành vi đạo đức một cách tốt nhất.


Đối với việc giáo dục tư tưởng đạo đức trong thực tế hiện

nay, những hạn chế thường mắc phải trong quá trình thực hiện
giáo dục đó là mới chỉ tập trung nhiều đến việc giáo dục để
hình thành ý thức, nhưng chưa thực sự quan tâm nhiều đến
việc tạo những điều kiện để người học xây dựng, rèn luyện trở
thành những thói thói quen tốt về đạo đức. Về những hình
thức để thực hiện giáo dục ngoài lớp học gồm: căn cứ vào
những điều kiện học tập bên ngoài, tác động của môi trường
sống đối với người học; thông qua việc thực hiện các hoạt
động xã hội thực tế, tham gia vào các hoạt động của các tổ
chức đoàn thể, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm đối với những
vấn đề có liên quan đến các nội dung học tập của học sinh;
bên cạnh đó đòi hỏi vai trò quan trọng của người thày trong
định hướng và triển khi thực hiện đối với các hoạt động đó.
+ Trong thực hiện việc giáo dục tư tưởng đạo đức cho
người học, thì người giáo viên luôn phải theo dõi đối với
người học để có thể nắm được những diễn biến tâm lý, những
tâm tư tình cảm của người học và cả đối với những tác động
về mặt tích cực hoặc tiêu cực diễn ra trong thực tế của xã hội,
qua đó chủ động có biện pháp giải pháp để điều chỉnh, tác
động và định hướng cho phù hợp.


- Nguyên tắc tính thực tiễn
* Cơ sở lý luận
Theo triết học Mác-Lênin: “Thực tiễn là toàn bộ hoạt
động vật chất có mục đích, nó mang tính lịch sử và tính xã hội
của con người nhằm để cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội”.
Những hoạt động cơ bản của thực tiễn bao gồm: các hoạt
động để sản xuất vật chất, các hoạt động nhằm cải tạo xã hội,
các hoạt động thực nghiệm về khoa học. Quá trình của thực

tiễn chính là sự tương tác giữa chủ thể và khách thể, trong quá
trình tương tác đó thì khách thể sẽ bộc lộ ra những thuộc tính
của mình từ đó thì chủ thể mới có được sự hiểu biết về khách
thể ấy. Mặt khác, chính từ nhu cầu của hoạt động thực tiễn đã
thúc đẩy con người tiến hành thực hiện tìm hiểu sự vật và đã
đi đến việc xây dựng lý luận về nó. Như vậy có thể khẳng
định, thực tiễn chính là điểm xuất phát, chính là động lực và
là cơ sở cho sự phát triển của lý luận, nếu không có thực tiễn
thì sẽ không có nhận thức nói chung và lý luận nói riêng.
Sau khi xuất hiện từ hoạt động thực tiễn, thì lý luận sẽ quay
trở lại thực hiện sứ mệnh chỉ đạo thực tiễn và nó trở thành
những cơ sở lý luận cho hoạt động của thực tiễn đó, đồng thời


thực tiễn sẽ xác minh hay phủ nhận sự đúng đắn của những
quan điểm lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã khẳng định:
“Thực tiễn không có lí luận hướng dẫn là thực tiễn mù quáng, lí
luận mà không có thực tiễn là lí luận suông”.
Đối với V.I.Lênin thì cho rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận
thức vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà cả
của tính hiện thực trực tiếp”. Tất cả tri thức trong thực tiễn và
trong hoạt động trí tuệ của con người nó được phát triển cho
đến lúc có lí luận và bản thân của lí luận được ra phát sinh
chính vì nó cần thiết cho những hoạt động thực tiễn của con
người. C.Mác đã viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con
người có thể đạt tới chân lí khách quan hay không hoàn toàn
không phải là một vấn đề lí luận mà là một vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lí”.
Thông qua thực tiễn thì những lí luận của chân lí nó sẽ được
bổ sung, được nhận thức lại, chính vì vậy mà giá trị của lí

luận phải được chứng minh một cách cụ thể trong các hoạt
động thực tiễn.
Đối với nguyên tắc tính thực tiễn trong thực hiện dạy học
là phải đảm bảo sự liên hệ với thực tiễn của những hoạt đọng
sản xuất, trong hoạt động của đời sống và cũng chính là việc


thực hiện nguyên lý giáo dục: học phải luôn đi đôi với hành,
quá trình thực hiện việc dạy học trong nhà trường thì phải gắn
liền với thực tế của xã hội. Đồng thời cần phải căn cứ vào
những đặc điểm, những điều kiện của thực tiễn dạy học và cả
những khả năng hoạt động trong thực tiễn đối với người học.
Về tính thực tiễn trong hoạt động dạy học luôn gắn liền
với nguyên lí về sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, nội
dung này có vai trò quan trọng trong quá trình quyết định cho
sự thành công của quá trình dạy học. Trong việc thực hiện
hoạt động day học, nếu người giáo viên mới chỉ dừng lại ở
những luận điểm khoa học chung, không tiến hành gắn với
những thực tiễn trong cuộc sống có thể sẽ dẫn đến chủ nghĩa
duy lí, giáo điều và sẽ không thể tạo cho người học niềm tin
vào sự đúng đắn của những luận điểm đó, nội dung của bài
giảng sẽ không có sự thuyết phục. Ngược lại, nếu giáo viên
tập trung đi sâu vào những thông tin, những sự kiện quá cụ
thể mà không chú ý hướng vào sử dụng những lí luận để khái
quát, để lí giải những sự kiện đó sẽ là sự coi thường lí luận,
dẫn đến rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, từ đó sẽ làm cản trở
quá trình hình thành và phát triển của tư duy lí luận, tư duy
khoa học đối với người học.



Vì vậy việc quán triệt về tính biện chứng của tiêu chuẩn
thực tiễn, trong đó tính thực tiễn phải thực sự trở thành
nguyên tắc cơ bản trong hoạt động nhận thức và trong hoạt
động dạy học, chỉ đạo thực tiễn của quá trình dạy học, quá
trình học về mục đích, về hình thức của tổ chức và PPDH,
ngoài ra để kiểm tra, đánh giá nhằm thực hiện tốt các nhiệm
vụ dạy học và mục tiêu đào tạo đề ra. Do đó việc đảm bảo
tính thực tiễn được coi là một yếu tố quan trọng của quá trình
dạy học, đồng thời quyết định đến chất lượng dạy học và góp
phần để đáp ứng những mục tiêu của giáo dục đặt ra.
* Về yêu cầu và biện pháp thực hiện nguyên tắc tính
thực tiễn đối với dạy học giáo dục lí luận chính trị
Nguyên tắc tính thực tiễn trong dạy học, yêu cầu đối với
người dạy phải tuân thủ và đảm bảo việc thực hiện những nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, phải căn cứ vào đối tượng cụ thể dạy học và
những điều kiện thực tế từ đó xác định mục tiêu, xác định nội
dung, phương pháp, cách thức tổ chức dạy học và cả việc thực
hiện kiểm tra, đánh giá cho phù hợp.
Việc thực hiện dạy học là một quá trình tương tác giữa


chủ thể của hoạt động dạy và học, do vậy người dạy phải thực
sự hiểu rõ đối tượng dạy học của mình về những vấn đề cơ
bản như: về trình độ, chuyên ngành học, về tâm lí, nhu cầu và
nhận thức về môn học. Đồng thời người giáo viên còn phải
căn cứ vào những điều kiện học tập thiết yếu cơ bản của
người học như: về giáo trình, đồ dùng học tập, các phương
tiện để phục vụ cho quá trình học tập cũng như năng lực của
người học để từ đó lựa chọn nội dung, lựa chọn phương pháp

và cách thức tổ chức dạy học cho phù hợp, đem lại hiệu quả
cao.
Ngoài ra, người giáo viên cũng phải căn cứ vào hệ thống
cơ sở vật chất của trường lớp, các phương tiện đáp ứng cho
quá trình dạy học hiện có để thực hiện việc triển khai tổ chức
dạy học, đồng thời để lựa chọn PPDH, để kiểm tra đánh giá
phù hợp với điều kiện thực tế, từ đó phát huy được tính tích
cực, sự chủ động sáng tạo của người học và phù hợp với
những điều kiện thực tiễn về kinh tế, chính trị - xã hội của địa
phương.
Thứ hai, phải xác định một cách chính xác về mục tiêu và
giá trị thực tiễn của nội dung dạy học.


Đối với mục tiêu của môn học về kiến thức, về kỹ năng,
về thái độ phải được xác định phù hợp với đặc điểm nhận
thức, với các điều kiện thực tế cho hoạt động dạy, định hướng
học theo yêu cầu về đổi mới và nhằm thực hiện nâng cao chất
lượng của môn học. Quá trình triển khai thực hiện dạy học
các nội dung kiến thức của môn học, người giáo viên phải tập
trung làm rõ được những ý nghĩa thực tiễn của tri thức khoa
học trong nội dung môn học tạo điều kiện cho người học lĩnh
hội được những kiến thức của môn học và thực hiện việc vận
dụng chúng vào thực tiễn công tác, vào thực tiễn trong cuộc
sống của bản thân. Thông qua mỗi bài học, người giáo viên
cần phải xác định cho người học thấy được việc học tập,
nghiên cứu bài học sẽ đem lại cho họ được những điều gì? Nó
có tác dụng và có ý nghĩa như thế nào đối với thực tiễn của
cuộc sống? Và có thể vận dụng chúng như thế nào cho phù
hợp? Qua đó trong quá trình thực hiện nội dung của bài học,

người giáo viên cần phải chủ động xác định được ý nghĩa
thực tiễn trong từng nội dung đơn vị kiến thức. Người giáo
viên không chỉ thực hiện việc truyền đạt chính xác các nội
dung kiến thức, mà còn phải thực hiện thông qua việc dạy học
kiến thức để tiến hành việc giáo dục cho người học những vấn


đề gì hay từ những kiến thức đó người học sẽ vận dụng vào
thực tiễn ra sao. Mặt khác, trong quá trình thực hiện giảng dạy
người giáo viên đồng thời kết hợp đưa vào các ví dụ thực tế
để minh họa cho những nội dung lý luận mang tính trừu
tượng, có thể đưa ra những bài tập, những tình huống thực
tiễn để người học áp dụng thực hành những kiến thức lí luận
đó vào thực tiễn cuộc sống, từ đó vừa giúp cho người học
hiểu được nội dung bài học, tác động cho người học có hứng
thú và thấy được giá trị thực tiễn của những kiến thức thông
qua quá trình học tập.
Thứ ba, việc thực hiện sử dụng PPDH, các hình thức trong
tổ chức dạy học và phương pháp kiểm tra, đánh giá theo hướng
tạo điều kiện để phát huy tốt nhất sự tích cực, chủ động và
năng lực cho người học. Bên cạnh đó trong thực hiện giảng
dạy phải đảm bảo thực hiện tốt nguyên lí về giáo dục là “học
phải đi đôi với hành”, “lí luận phải gắn với thực tiễn”. Trong
giảng dạy, người dạy tiến hành lựa chọn nội dung và tiến hành
xây dựng kế hoạch dạy học cho việc sử dụng PPDH phù hợp
nhất, tiến hành thiết kế một số câu hỏi, nội dung bài tập để
lồng ghép vào quá trình giảng dạy, qua đó tạo mọi điều kiện
phát triển tư duy của người học, khơi dậy các khả năng tiềm



tàng của người học góp phần thực hiện hiệu quả nội dung học
tập đặt ra.
Thứ tư, đảm bảo được tính khoa học, tính cập nhật.
Về tính khoa học được thông qua quá trình lí luận, sự kết
cấu chặt chẽ, sự phản ánh về bản chất, tư tưởng của môn học.
Vì vậy trong giảng dạy, người giáo viên phải làm sao phải
truyền thụ một cách thật đầy đủ, thật chính xác và có tính
trung thực những kiến thức và phù hợp với những đặc điểm,
khả năng nhận thức của người học. Đồng thời cần nắm vững
về mục tiêu nhiệm vụ, về đối tượng, nội dung, tổng thể các
phương pháp nghiên cứu của môn học, từ đó thực hiện khai
thác đúng trọng tâm, đúng bản chất nghiên cứu của môn học;
vận dụng hiệu quả những tri thức vào giải quyết đối với
những vấn đề trong thực tiễn, làm cho người học nắm được ý
nghĩa thực tiễn về lí luận trong học tập, giải quyết tốt sự liên
kết giữa lí luận với thực tiễn cuộc sống. Giữa tính khoa học và
tính cập nhật có mối quan hệ biện chứng, khoa học nó thể
hiện tính chân thực còn tính cập nhật những thông tin, sự kiện
minh họa làm cho tri thức lí luận gắn với thực tiễn đời sống,
từ đó nâng cao tính thực tiễn và hiệu quả trong quá trình dạy
học.


Yêu cầu về nguyên tắc tính thực tiễn là sự đồng bộ, sự
gắn kết nhau trong hoạt động dạy và học. Điều đó thể hiện
tính thực tiễn không chỉ được thực hiện trong phạm vi của bài
giảng, còn phải được thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ hoạt
động dạy học, giáo dục về phẩm chất đạo đức, định hướng về
tư tưởng chính trị, phát huy năng lực người học với sự định
hướng của người dạy.

Người giáo viên cần có những kiến thức về các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Từ những hiểu biết đó cho, người giáo
viên sẽ linh hoạt trong vận dụng tri thức lý luận để thực hiện
việc giải quyết những vấn đề liên quan trong quá trình giảng
dạy, cũng như những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, tạo niềm
tin và tính thuyết phục đối với người học.
- Nguyên tắc về phát huy tính tự giác, tích cực của
người học
Về nguyên tắc phát huy tính tự giác, tích cực của người
học nó xuất phát từ quy luật của nhận thức, con người nhận
thức được thế giới khách quan qua quá trình cải tạo và tác
động đối với thiên nhiên, thông qua thực tiễn là quá trình sản
xuất xã hội. Lý luận Mác-Lênin khẳng định: “Nhận thức khoa


học là một quá trình tích cực, do đó việc phản ánh nhận thức,
truyền thụ tri thức và việc học tập cũng phải diễn ra một cách
tích cực và tự giác”. Vậy tích cực nhận thức là trạng thái hoạt
động của học sinh, đặc trưng bởi khát vọng học tập cố gắng
trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức”.
Thực tế của quá trình dạy học là bao gồm cả hoạt động
dạy và hoạt động học, về tính tích cực trong quá trình dạy học
không phải chỉ ở những hoạt động mang tính tích cực của
giáo viên, nó còn kết hợp liên quan đến quá trình cố gắng
trong tham gia học tập của người học. Tính tích cực của người
học liên rất nhiều từ PPDH và cách thức truyền thụ nội dung
bài học của người giáo viên. Kết quả và chất lượng đem lại
của quá trình dạy học còn liên qua đến sự kết hợp, liên kết
chặt chẽ, đồng bộ giữa giáo viên và học sinh trong đó giáo
viên đóng vai trò chủ đạo, người học giữ vai trò tích cực, làm

sao cho quá trình dạy học là một quá trình hoạt động tương
đồng của giáo viên và học sinh.
Trong tác phẩm: “Hướng dẫn đào tạo giáo viên Đức”
A.DDixtervec viết: “Không thể ban cho hoặc truyền đạt đến
bất kỳ một người nào sự phát triển và giáo dục. Bất cứ ai
muốn được phát triển và giáo dục cũng phải phấn đấu bằng sự


hoạt động của bản thân mình. Anh ta chỉ có thể nhận được từ
bên ngoài sự kích thích mà thôi . . . Vì thế sự hoạt động tự lực
là phương tiện và đồng thời là kết quả của sự giáo dục”.

* Biện pháp để thực hiện nguyên tắc
- Để thực hiện nguyên tắc này, giáo viên phải cần chủ
động vận dụng các PPDH tích cực định hướng là lấy người
học làm trung tâm, tập trung cần xác định rõ về mục tiêu học
tập, thực hiện việc thiết kế các hoạt động đối với người học
trong từng tiết học, thực hiện việc thiết kế những nội dung
hướng dẫn cho học sinh tự học và tự kiểm tra, thực hiện việc
đánh giá hoạt động tự học của học sinh. Tiến hành kết hợp
linh hoạt nhiều PPDH khác nhau trong mỗi tiết học, mỗi bài
học . . . có thể vận dụng thực hiện các cách thức gợi mở, kích
thích sự hào hứng, tích cực cho người học như:
+ Bằng cách có thể đưa ra một sơ đồ về ngân sách nhà
nước và đặt câu hỏi: “Ngân sách nhà nước được hình thành và
sử dụng như thế nào?” để thay thế cho việc giáo viên chỉ trình
bày và nêu lại những nội dung của bài học. Dĩ nhiên cần có sự
trình bày và định hướng cho người học tập trung nghiên cứu



suy nghĩ để trả lời, nếu thực hiện được như vậy sẽ tạo cho
người học xây dựng được cách lập luận, phương pháp tư duy
trong học tập của bản thân, đây được xem là “Sự khám phá
cho riêng mình”.
+ Đề ra những bài tập tình huống, yêu cầu người học
nghiên cứu để giải quyết vấn đề, trao đổi để tranh luận từ đó
hình thành nên những ý kiến hoặc có thể tham gia tạo nên
những ý tưởng sáng tạo trong học tập, nghiên cứu. . .
Ngoài ra giáo viên phải còn là như một nhà tâm lý, xây
dựng tạo cho người học niềm tin, những hứng thú, phấn khích
trong quá trình học tập. Đặc biệt tránh tình trạng làm cho
người học cảm giác sợ, cảm thấy chán nản, không ổn định
tâm lý trong học tập từ đó có thể dẫn đến những hành vi tiêu
cực.
Việc thực hiện học tập, tiếp thu của người học sẽ có tác
dụng tích cực và có hiệu quả nếu được diễn ra trong môi
trường dễ chịu, thoải mái và hứng thú. Do đó người học luôn
cần phải được được khuyến khích, động viên để tạo cho tâm
lý cảm thấy thích thú học tập, mong muốn sự thành công, tích
cực nghiên cứu khám phá, đi tới những phát triển và nâng cao


khả năng tư duy, trình độ nhận thức của bản thân, không thụ
động trong học tập. Bên cạnh việc thực hiện giáo dục, truyền
thụ kiến thức cần có sự động viên khen ngợi hoặc nhắc nhở
kịp thời để hoàn thiện quá trình giảng dạy qua từng nội dung
bài học.
- Đối với người học thì cần có sự định hướng cho việc
học tập và phải tự chịu trách nhiệm về việc học tập của mình.
+ Chủ động chọn những kiến thức, những vấn đề và kỹ

năng muốn học
+ Biết xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc học tập
+ Chuẩn bị đối các nội dung, tài liệu và lựa chọn cách
thức học tập để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của
bản thân
+ Biết xem xét, đánh giá đối với kết quả học tập của
mình.
Thực tế của việc tự đánh giá cũng là một kỹ năng cơ bản
của từng cá nhân trong học tập và công tác của từng cá nhân.
Nó tạo động lực cho người học luôn có sự phấn đấu, khăc
phục những khó khăn phát huy khả năng bản thân để tiến bộ.


- Nguyên tắc về đảm bảo tính hệ thống, nhất quán,
logic
* Là yêu cầu khách quan, đòi hỏi nghiêm ngặt trong
dạy học giáo dục chính trị
Tất cả các môn học đưa vào giảng dạy trong trường học
đều là những môn khoa học, chúng được xây dựng trên cơ sở
hệ thống của những kiến thức mang tính khoa học và có tính
logic cao. Do vậy, việc thực hiện đảm bảo tính hệ thống, nhất
quán, logic là nguyên tắc cơ bản đòi hỏi nghiêm ngặt của quá
trình dạy học. Thực hiện nguyên tắc này sẽ đảm bảo được về
tính khoa học trong nội dung của mỗi môn học. Đồng thời
việc đảm bảo về tính hệ thống, tính nhất quán đối với nội
dung của chương trình và nội dung kiến thức của môn học
nhằm định hướng cho quá trình thực hiện giảng dạy và để làm
cơ sở cho việc quản lý, đánh giá thực tế trong công tác chuyên
môn đối với các cấp quản lý.
Giảng dạy giáo dục LLCT là một hệ thống kiến thức khoa

học đồ sộ, hệ thống kiến thức đó được xây dựng dựa trên
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý giải
các quy luật và các mối quan hệ một cách nhất quán theo một


hệ thống kiến thức logic chặt chẽ.
Giảng dạy giáo dục lý luận chính trị theo nguyên tắc trên
xuất phát từ đặc điểm cấu trúc của nội dung môn học đồng
thời còn xuất phát từ phương pháp nghiên cứu, phương pháp
trình bày khoa học của môn học.
* Về yêu cầu và biện pháp thực hiện
- Hiện nay cấu trúc chương trình, các bài giảng đã được
thống nhất và thể hiện trong giáo trình chuẩn mà Bộ giáo dục
và đào tạo ban hành. Nó phản ánh khá logic toàn bộ hệ thống
những kiến thức Lý luận chính trị của “Chủ nghĩa Mác-Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam”. Vì vậy nhiệm vụ của người thày là thực
hiện các bài giảng theo đúng chương trình.
- Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên phải truyền
thụ một cách cụ thể nội dung bài học, để từ đó thể hiện rõ sự
liên kết tất cả các những kiến thức giữa những nội dụng của
chương này với chương kia, giữa các vấn đề của từng phần
trong bài học, làm cho người học nắm và hiểu một cách cụ thể
về tính logic các vấn đề và cả chương trình.


×