Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

BÀI TIỂU LUẬN về QUY TRÌNH kỹ THUẬT GIEO TRỒNG cây GIẢO cổ LAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM
BỘ MÔN THỰC VẬT RỪNG

BÀI TIỂU LUẬN
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN CÂY GIẢO CỔ LAM
MÔN HỌC: BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN LÂM SẢN NGOÀI GỖ

Họ tên sinh viên:
Mã sinh viên:
Lớp:
Ngành:
Giáo viên môn học:

Phan Văn Tâm
1743020275
K62_LT
Quản lý tài nguyên rừng
NGƯT.PGS.TS Trần Ngọc Hải

Hà Nội, Tháng 4 Năm 2019
PHẦN I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng nhiệt đới nói chung và rừng Việt Nam nói riêng, là trung tâm của đa
dạng sinh vật với thành phần loài hết sức phong phú. Trong đó, ngoài gỗ thì các
loại LSNG chiếm một thành phần quan trọng. LSNG thường có giá trị cao, khối
lượng nhẹ, vận chuyển dễ dàng hơn so với gỗ, khả năng phục hồi nhanh, cho thu


hoạch sớm hơn gỗ, giá trị, năng suất kinh tế cao và ổn định, có khả năng kinh
doanh liên tục, phù hợp với quy mô hộ gia đình nên dễ được người dân chấp nhận
trong các chương trình xã hội nghề rừng, phát triển kinh tế hộ gia đình và cộng


đồng. Việc sản xuất và khai thác LSNG nếu được tổ chức hợp lý thì gần như không
tổn hại đến rừng, ít ảnh hưởng tới môi trường rừng và công tác bảo tồn thiên nhiên
hơn so với khai thác gỗ; đồng thời người dân địa phương vẫn có thể thu được
nhiều lợi ích kết hợp, nâng cao giá trị từ rừng. Ở Việt Nam, với hơn 14 triệu ha
rừng, việc sử dụng LSNG (hay còn gọi là lâm đặc sản) đã gắn liền với sự sinh tồn
của các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Đây là nguồn tài nguyên quan trọng
trong sản xuất lâm nghiệp, đặc biệt là phát triển kinh tế nông thôn miền núi. Khi tài
nguyên gỗ càng ngày càng cạn kiệt và bị hạn chế khai thác, thì tài nguyên LSNG
chiếm một vị trí quan trọng trong ngành lâm nghiệp. Chúng trở thành nguyên liệu
cung cấp cho sản xuất hàng hoá nội địa cũng như xuất khẩu rất đa dạng, bao gồm:
thực phẩm, dược phẩm, tinh dầu, sợi, hàng thủ công mỹ nghệ...
LSNG là nguồn tài nguyên sinh vật có thể tái tạo thông qua quá trình tái sinh
tự nhiên, nhưng quá trình tái sinh phục hồi không đáp ứng kịp nhu cầu sử dụng của
con người và cũng đang có nguy cơ bị tuyệt chủng hàng loạt bởi một số nguyên
nhân chủ yếu sau đây:
Khai thác không đảm bảo tái sinh: trong nhiều năm trước đây, việc khai thác
lâm sản nói chung chỉ căn cứ vào nhu cầu sử dụng mà không căn cứu vào khả năng
cung cấp lâm sản cũng như khả năng phục hồi của từng khu rừng. Vì thế, nhiều
khu rừng đã bị khai thác đến kiệt quệ, không còn khả năng phục hồi lại, hoặc nếu
có thể phục hồi thì cũng cần một khoảng thời gian rất dài. Do vậy, diện tích rừng tự
nhiên ngày càng bị thu hẹp, suy giảm cả về số và chất lượng. Đặc biệt, việc khai
thác các loài LSNG trong rừng tự nhiên không khoa học, thiếu tính bền vững, thiếu
sự quản lý của chính quyền địa phương cũng như các cơ quan chức năng. Trong
thời gian gần đây, việc khai thác các loài cây làm dược liệu để bán ra nước ngoài
đã gia tăng rõ rệt, “mạnh ai lấy làm”, không có sự kiểm soát. Đặc biệt là các tỉnh
miền núi phía Bắc đã khai thác và bán ra nước ngoài mỗi tháng hàng chục đến
hàng trăm tấn nguyên liệu thô gồm cả gốc, rễ, cành và lá. Phần lớn khai thác mang
tính hủy diệt, không chú ý đến khả năng tái sinh, phục hồi để bảo tồn và phát triển.
Vấn đề du canh và phát triển cây công nghiệp: Du canh du cư cũng là
nguyên nhân dẫn đến làm giảm các loài LSNG, do tập quán canh tác không ôn

định luôn di chuyển từ nơi này đến nơi khác và phát nương làm rẫy, khoai hoang
đất đai làm diện tích rừng bị suy giảm. Vì thế, diện tích rừng cũng như chất lượng
rừng bị suy giảm khá rõ rệt. Đặc biệt, việc phát triển các loài cây công nghiệp như
cao su, cà phê, hồ tiêu, điều… cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc thu hẹp diện
tích rừng tự nhiên và giảm tính đa dạng sinh học của rừng, các loài LSNG vì thế
mà bị hủy diệt hàng loạt.
Việc phát triển các công trình thủy điện: các công trình thủy điện thường
được xây dựng trên các con sông lớn, mà lưu vực của các con sông thường là
những trung tâm đa dạng sinh học, tập trung nhiều loài lâm sản nói chung và
LSNG nói riêng. Khi các công trình thủy điện xây dựng xong và đi vào sử dụng thì


cũng là khi các sinh vật nói chung và các loài LSNG nói riêng trên các lưu vực
rộng hàng chục cho đến hàng trăm ngàn ha bị ngập chìm trong nước và bị hủy diệt.
Đây là một trong những nguyên nhân làm hủy diệt nhiều nhất và nhanh nhất,
nhưng lại ít được quan tâm nhất trong những năm gần đây.
Sự suy suy thoái tầng cây gỗ trong rừng tự nhiên: từ những năm 1943, nước
ta có khoảng 14,3 triệu ha rừng tự nhiên, đến năm 1976 còn 11,07 triệu ha, sau 33
năm mất đi khoảng 3,3 triệu ha, bình quân mỗi năm mất khoảng 100 nghìn ha. Từ
năm 1976-1995 là giai đoạn mất rừng nhiều nhất, chỉ sau 19 năm đã mất hơn 2,85
triệu ha, bình quân mỗi năm mất khoảng 150.000 ha. Từ năm 1996 đến nay, diện
tích rừng nước ta có xu hướng tăng dần nhờ tăng nhanh diện tích rừng trồng là chủ
yếu, diện tích rừng tự nhiên phục hồi tăng rất chậm. Tuy diện tích rừng cũng như
độ che phủ của rừng đã tăng khá rõ rệt trong những năm gần đây, nhưng chất lượng
rừng tự nhiên còn rất thấp, phần lớn là rừng tự nhiên nghèo kiệt, trữ lượng gỗ thấp,
những loài cây gỗ có giá trị kinh tế còn lại rất ít, khả năng tái sinh tự nhiên kém và
tăng trưởng chậm, bình quân mỗi năm chỉ tăng được 2-4 m3/ha. Sự suy thoái rừng
tự nhiên chủ yếu là tầng cây gỗ đã kéo theo sự suy thoái các loài LSNG sống trong
rừng hoặc dưới tán rừng.
Trước những nguy cơ tổn thất về tài nguyên rừng nói chung và LSNG nói

riêng. Như hiện nay, để có thể phục hồi, phát triển nguồn tài nguyên này cần phải
coi LSNG có giá trị quan trọng cả về kinh tế, lẫn xã hội và môi trường, cần có
chính sách bảo vệ hợp lý. Bên cạnh đó, việc khai thác, sử dụng và tiêu thụ các sản
phẩm ngoài gỗ cũng phải được kiểm soát chặt chẽ. Hơn nữa, cần phải phân loại
LSNG theo giá trị tổng hợp và có quy hoạch để bảo tồn và phát triển.
PHẦN II.
TÀI NGUYÊN LÂM SẢN NGOÀI GỖ (LSNG)
1. Vai trò của LSNG đối với kinh tế, xã hội, môt trường.
* Vai trò của LSNG đối với kinh tế:
Hiện nay, ở Việt Nam đã thống kê có gần 4.000 loài cây có giá trị cung cấp
nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh và bồi dưỡng sức khỏe cho con người, 216 loài
tre trúc và 30 loài song mây có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ. Ngoài ra, còn nhiều loài LSNG quý hiếm khác có giá trị kinh tế,
mang lại thu nhập khá cao cho người dân địa phương, kể cả các loài động vật, thực
vật và vi sinh vật. Theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì hiện nay có ít nhất
150 mặt hàng LSNG đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực thương mại như: mật
ong, nấm, các loại hương liệu, sâm, dầu, nhựa, song, mây, tre, trúc… Vào những
năm cuối của thế kỷ trước, người ta đã ước tính tổng giá trị thương mại quốc tế
riêng của các loại LSNG hàng năm đạt khoảng 5-11 tỷ USD.
*Vai trò của LSNG đối với xã hội:
LSNG còn là nguồn thu nhập thường xuyên, góp phần làm gia tăng thu nhập
và cải thiện đời sống cho người dân vùng sâu vùng xa, những người sống ở gần


rừng và làm nghề rừng, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế bền vững
gắn với công tác bảo vệ và phát triển rừng. Khác với các loài cây lấy gỗ, hầu hết
các loài LSNG đều nhanh cho thu hoạch, các sản phẩm được khai thác nhiều lần,
mang tính lâu dài và ổn định. Ngoài ra, LSNG cung cấp nhiều loại nguyên liệu để
sản xuất các mặt hàng khác nhau, tạo nên nhiều ngành nghề thủ công mỹ nghệ
khác nhau, từ đó tác động tích cực đến nhiều mặt của xã hội như: nâng cao nhận

thức xã hội và tính cộng đồng, giảm tệ nạn xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo,
giải quyết được việc làm cho người dân địa phương…
* Vai trò của LSNG đối với môi trường:
LSNG bao gồm các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật được khai thác từ rừng,
là một bộ phận quan trọng của các hệ sinh thái rừng, nhất là rừng tự nhiên nhiệt
đới. Theo kết quả của nhiều công trình khoa học và thực tiễn sản xuất cho thấy, trữ
lượng gỗ của rừng tự nhiên nhiệt đới chiếm chưa tới 50% tổng sinh khối của rừng,
còn LSNG có thể chiếm hơn 50% tổng sinh khối. Vì thế, LSNG có vai trò hết sức
quan trọng trong hệ sinh thái rừng, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu trên
phạm vi toàn cầu như hiện nay, chúng có khả năng hấp thu một lượng carbon khá
lớn, có thể tương đương với lượng carbon hấp thu được trong phần sinh khối gỗ
thương mại. Hơn nữa, LSNG rất đa dạng về thành phần loài và dạng sống, từ các
loài thực vật đến động vật và vi sinh vật, từ các loài sinh vật có kích thước khổng
lồ đến các sinh vật có kích thước rất nhỏ không thể nhìn thấy bằng mắt thường,
chúng tạo nên một cấu trúc không gian hợp lý để chung sống với nhau nhằm cân
bằng sinh thái, điều tiết nguồn nước, hạn chế xói mòn và rửa trôi đất, hạn chế thiên
tai như hạn hán, lũ lụt…
2. Nội dung chính trong Luật Đa dạng sinh học, Nghị định 32/2006/NĐCP có liên quan tới bảo tồn Đa dạng sinh học:
* Luật Đa dạng sinh học (Biodiversity Law).
Sau đây là tóm tắt nội dung bộ luật Đa dạng sinh học và một số vấn đề liên
quan đến công tác bảo tồn Đa dạng sinh học: Luật Đa dạng sinh học gồm có 8
chương, 78 điều, cụ thể gồm các chương, mục và điều sau liên quan đến bảo tồn đa
dạng sinh học:
Điều 37. Loài được đưa vào Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu
tiên bảo vệ
1. Loài được xem xét đưa vào Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu
tiên bảo vệ bao gồm:
a) Loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm;
b) Giống cây trồng, giống vật nuôi, vi sinh vật và nấm nguy cấp, quý, hiếm.
Điều 38. Đề nghị đưa vào hoặc đưa ra khỏi Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm

được ưu tiên bảo vệ
Điều 39. Thẩm định hồ sơ đề nghị đưa vào hoặc đưa ra khỏi Danh mục loài
nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ
Điều 40. Quyết định loài được đưa vào hoặc đưa ra khỏi Danh mục loài
nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ


Điều 41. Bảo tồn loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu
tiên bảo vệ.
Điều 42. Thành lập cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học
Điều 44. Loài hoang dã bị cấm khai thác và loài hoang dã được khai thác
có điều kiện trong tự nhiên
Điều 45. Nuôi, trồng loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu
tiên bảo vệ
Điều 47. Cứu hộ loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu
tiên bảo vệ
Điều 48. Bảo vệ giống cây trồng, vật nuôi đặc hữu hoặc có giá trị đang bị
đe dọa tuyệt chủng
Điều 49. Bảo vệ loài vi sinh vật và nấm đặc hữu hoặc có giá trị đang bị đe
doạ tuyệt chủng
Điều 50. Điều tra và lập Danh mục loài ngoại lai xâm hại
Điều 51. Kiểm soát việc nhập khẩu loài ngoại lai xâm hại, sự xâm nhập từ bên
ngoài của loài ngoại lai
Điều 52. Kiểm soát việc nuôi trồng loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại
Điều 53. Kiểm soát sự lây lan, phát triển của loài ngoại lai xâm hại
Điều 55. Quản lý nguồn gen
Điều 62. Lưu giữ và bảo quản mẫu vật di truyền
Điều 63. Điều tra, thu thập, đánh giá, cung cấp, quản lý thông tin về nguồn gen
Điều 68. Quản lý cơ sở dữ liệu về sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền
của sinh vật biến đổi gen liên quan đến đa dạng sinh học

Điều 69. Hợp tác quốc tế và việc thực hiện điều ước quốc tế về đa dạng sinh
học
Điều 70. Hợp tác với các nước có chung biên giới với Việt Nam
Điều 73. Tài chính cho việc bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh
học
* Nghị định 32/CP- 2006 có liên quan tới bảo tồn đa dạng sinh học:
Nghị định 32/CP- 2006 có 3 chương, 14 điều, các nội dung liên quan đến
bảo tồn Đa dạng sinh học gồm các nội dung sau:
Điều 4. Theo dõi diễn biến thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý,
hiếm.
Điều 5. Bảo vệ thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm :
Điều 6. Khai thác thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm từ
1. Khai thác thực vật rừng, động vật rừng Nhóm I:
2. Khai thác thực vật rừng, động vật rừng Nhóm II:


Điều 8. Phát triển thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm
Điều 9. Chế biến, kinh doanh thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý,
hiếm và sản phẩm của chúng:
1. Nghiêm cấm chế biến, kinh doanh thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm
Nhóm I A, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm I B và Nhóm II B từ tự nhiên
và sản phẩm của chúng vì mục đích thương mại (trừ các trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này).
2.3. Danh sách 10 loài cây LSNG thuộc nhóm quý hiếm nằm trong sách
đỏ Việt Nam năm 2017:
1. Củ dòm
Tên khoa học: Stephania dielsiana C.Y. Wu, 1940.
Họ: Tiết dê Menispermaceae
Bộ: Mao lương Ranunculales
Đặc điểm nhận dạng:

Dây leo nhỏ, sống nhiều năm. Rễ củ to; thân leo cuốn, dài khoảng 3m; thân
non màu tím hồng nhạt. Toàn cây không lông. Lá đơn nguyên, mọc so le, có cuống
dài 4,5 - 8,5 cm. Phiến lá hình tam giác tròn, 9 - 13 x 8 - 13,5 cm; mép lá hơi lượn
sóng hoặc có răng tù rất thưa ở phía ngọn; chóp lá nhọn, gốc bằng hoặc hơi lõm,
gân chính xếp dạng chân vịt, xuất phát từ chỗ đính của cuống lá. Ngọn non, cuống
lá và cuống cụm hoa có dịch màu tím hồng. Hoa đơn tính khác gốc. Cụm hoa đực
do 3 - 5 xim nhỏ họp thành xim tán kép. Hoa nhỏ, có cuống ngắn, 6 lá đài màu tím
xếp 2 vòng, 3 cánh hoa hình quạt tròn, màu vàng cam; cột nhị ngắn, bao phấn dính
thành đĩa 6 ô. Cụm hoa cái gồm 7 - 8 đầu nhỏ, cuống rất ngắn, xếp thành dạng đầu.
Hoa nhỏ, 1 lá đài màu tím hồng, 2 cánh hoa hình quạt tròn màu vàng cam và có các
vân tím. Bầu hình trứng, đầu nhuỵ có 4 - 5 thuỳ dạng dùi. Quả hình trứng đảo, hơi
dẹt 0,8 - 0,9 x 0,7 - 0,75 cm. Hạt hình trứng ngược cụt đầu, có lỗ thủng ở giữa, trên
lưng hạt có 4 hàng gai nhọn, cong.
Sinh học và sinh thái:
Mùa hoa tháng 4 - 5, quả tháng 6 - 7. Mọc chồi thân hoặc từ cổ rễ vào đầu
mùa xuân. Sau khi bị chặt phá, phần còn lại vẫn có khả năng tái sinh. Cây ưa ẩm,
ưa sáng và có thể chịu bóng. Thường mọc ở rừng kín thường xanh ẩm đã trở nên
thứ sinh; đôi khi cũng gặp ở rừng núi đá vôi (Tuyên Quang), ở độ cao 300 - 600 m.
Phân bố:
Trong nước: Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang (Na Hang, Chiêm Hoá), Bắc
Kạn, Thái Nguyên (Đại Từ, Tam Đảo), Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Hà Tây
(Ba Vì), Quảng Nam (Trà My: Trà Mai, Trà Giác).
Thế giới: Trung Quốc.
Giá trị:
Loài tương đối hiếm ở Việt Nam. Rễ củ dùng làm thuốc kiên vị, chỉ thống;
trị phù thũng, giải độc, đau xương khớp. Rễ củ có hoạt chất có tác dụng an thần,
giảm đau.
Tình trạng: Các điểm phân bố rải rác, số lượng cá thể không nhiều. Đã bị
khai thác cùng với các loài bình vôi khác cùng chi. Đặc biệt là ở vùng Nà Hang,
Chiêm Hoá (Tuyên Quang), Củ Dòm được đồng bào người dân tộc Tày và Dao coi



là cây thuốc quý, thường được tìm kiếm, khai thác. Nạn phá rừng cũng trực tiếp
làm thu hẹp phân bố.
Phân hạng: VU B1+2 b,c
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong Sách đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá “sẽ nguy
cấp” (Bậc V) và Danh mục Thực vật rừng, Động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
(nhóm 2) của Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ để
hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Bảo vệ những cá thể còn sót
lại ở Vườn quốc gia Tam Đảo và Khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bung (Na
Hang - Tuyên Quang). Thu thập về trồng nghiên cứu bảo tồn ngoại vi (Ex situ).
Trồng được bằng hạt hoặc bằng cây con mọc tự nhiên.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 286.
2. SONG MẬT
Tên khoa học: Calamus platyacanthus Warb. ex Becc. 1908.
Họ: Cau Arecaceae
Bộ: Cau Arecales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây mọc thành cụm thưa, đơn tính khác gốc. Thân leo, dài 30 - 40 m (có thể
dài đến 100 m), đường kính đến 8 - 10 cm (cả bẹ lá). Bẹ lá rất dài, bao kín thân khí
sinh, trên bẹ có nhiều gai dẹt màu vàng dài 8 - 10 cm, gốc rộng 1,8 - 2 mm, gai
mọc lật ngược về phía gốc; lá có khuỷu; thìa lìa ở lá non hình ống, có lông hung,
gốc có gai, khi già bị rách, có lông cứng; lá xẻ lông chim rất sâu, dài 1,5 - 2,5 cm;
thuỳ lá hình bầu dục, không cuống, dài 40 cm, rộng 6 - 8 cm, mặt trên của thuỳ lá
có nhiều gai mảnh, mép có gai nhỏ, đỉnh có túm lông, thuỳ lá mọc thành cụm 2 - 6,
đỉnh lá mang 4 - 7 lá chét, 2 lá chét ở đỉnh đính nhau ở gốc; sống lá kéo dài thành
roi dài 1,5 m có nhiều gai mập thường mọc thành cụm 5 - 10 gai dính nhau ở gốc.
Cụm hoa đực: mo hình dải, dài hơn 1m; mỗi mo mang nhiều bông nhỏ mọc
ngay trên lá bắc cấp 3 dài 2 - 2,5 cm, mang 14 - 17 hoa đực xếp thành 2 d•y; hoa

mẫu 3, lá đài 3, cánh hoa 3, nhị 6. Cụm hoa cái: mo hình dải dài 1 - 2,5 m, mang
15 bông nhỏ (chuỳ); lá bắc hình ống dài 20 cm, miệng dẹt, màu xanh đạm, có gai
rải rác trên mặt; chuỳ dính nhay trên miệng lá bắc cấp 1 dài 30 - 70 cm mang nhiều
bông chét, đầu tận cùng bởi một đuôi có gai; lá bắc cấp 2 hình phễu, có gai; bông
chét dài 8 - 12 cm mang 14 - 32 hoa cái; đế hoa hình đấu. Quả hình trứng, dài 15 22 mm, rộng 8 - 14 mm; đỉnh quả có mũ hình nón dài 4 mm; vỏ quả có 18 hàng
vảy dọc, vảy có mép mầu nâu; quả khi non màu xanh, khi giả màu vàng nhạt; cùi
trắng mọng, vị chua.
Sinh học và sinh thái:
Ra hoa tháng 4 - 5, có quả tháng 9 - 11. Tái sinh bằng hạt, tái sinh tốt ở ven
rừng, ven suối. Cây ưa sáng, mọc ven khe ẩm, ven thung lũng núi đất, chân và
sườn núi đá, ưa ẩm, mọc trong rừng thường xanh nguyên sinh và thứ sinh, ở độ cao
400 - 900 m
Phân bố:
Trong nước: Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Hà
Tây, Hoà Bình, Ninh Bình, Quảng Bình
Thế giới: Trung Quốc.


Giá trị:
Loài Song rất có giá trị dùng làm các đồ mỹ nghệ, bàn ghế và các đồ gia
dụng khác.
Tình trạng:
Tuy loài có mặt trong các Vườn quốc gia Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà
Tây), Cúc Phương (Ninh Bình) và Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), nhưng vẫn
bị chặt phá, rừng bị khai thác mạnh làm mất môi trường sinh thái và điều kiện
sống. Là loài Song có giá trị xuất khẩu cao, đang bị khai thác mạnh trong 10 năm
qua, hiện vẫn đang suy giảm về số lượng.
Phân hạng: VU A1c,d+2c,d
Biện pháp bảo vệ:
Loài đang được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá “sẽ

nguy cấp” (Bậc V). Đề nghị bảo tồn nguyên vị và nghiên cứu các biện pháp gieo
trồng thích hợp tại các nông trường để khai thác lấy nguyên liệu, tránh chặt phá
trong môi trường tự nhiên.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 378.
3. HOÀNG TINH HOA TRẮNG
Tên khoa học: Disporopsis longifolia Craib, 1912.
Họ: Tóc tiên Convallariaceae
Bộ: Măng tây Asparagales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây thảo, sống nhiều năm, cao 0,5 - 1,2 m. Thân rễ nạc, gồm nhiều cục gắn
với nhau thành chuỗi, phân nhánh, nằm ngang; đường kính 2 - 3 cm. Thân mang lá
nhẵn, lúc non có đốm tím hồng, sau xanh trắng, đường kính 0,3 - 0,6 cm. Lá mọc
so le, cuống ngắn; phiến lá thuôn hay mác dài, nhọn 2 đầu, 10 - 20 x 2,5 - 3,5 cm,
5 gân chính hình cung. Cụm hoa gồm 5 - 7 cái, mọc ở kẽ lá, có cuống dài 0,6 1cm. Hoa màu trắng, bao hoa hình chén, đầu chia 6 thuỳ tam giác. Nhị 6, đính ở
miệng ống; chỉ nhị dẹp, có tai ở đầu. Quả thịt; hình cầu, đường kính 0,4 - 0,5 cm.
Khi chín từ màu xanh chuyển sang màu trắng. Hạt nhỏ.
Sinh học và sinh thái:
Mùa hoa tháng 3 - 5, quả tháng 5 - 9. Nhân giống tự nhiên bằng hạt. Cây con
thường thấy xung quanh gốc cây mẹ. Phần thân mang lá lụi hàng năm vào mùa
đông, chồi mới mọc từ thân rễ vào đầu mùa xuân. Thân rễ bị g•y, phần còn lại vẫn
có thể tái sinh. Cây đặc biệt ưa ẩm và ưa bóng. Thường mọc thành khóm trên đất
ẩm nhiều mùn hay trên các hốc đá, dưới tán rừng kín thường xanh ẩm - đặc biệt là
ở rừng núi đá vôi, ở độ cao khoảng 400 - 1500 m.
Phân bố:
Trong nước: Lai Châu (Phong Thổ), Điện Biên, Lào Cai (Mường Khương,
Bát Xát, Than Uyên, Văn Bàn), Sơn La (Mường La), Hà Giang (Quản Bạ, Bắc
Mê), Cao Bằng (Quảng Hoà), Bắc Kạn (Ba Bể, Na Rì), Thái Nguyên (Tam Đảo),
Lạng Sơn (Tràng Định, Bắc Sơn), Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà Tây (Ba Vì), Hoà
Bình (Mai Châu), Ninh Bình (Cúc Phương).
Thế giới: Trung Quốc, Thái Lan, Lào.

Giá trị:


Thân rễ (củ) chế biến thành "thục", là vị thuốc quý dùng nhiều trong y học
cổ truyền, có tác dụng bổ trung ích khí, mạnh gân xương, chữa phong thấp; làm
đẹp da, đen tóc...
Tình trạng:
Thường xuyên bị khai thác trong vòng vài chục năm trở lại đây; trữ lượng
giảm mạnh; nhiều vùng chỉ còn cây nhỏ hoặc đ• trở nên hiếm rõ rệt. Hiện chỉ còn ở
khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bung (Nà Hang - Tuyên Quang) và Vườn
Quốc gia Ba Bể thỉnh thoảng gặp cây lớn. Nạn phá rừng làm nương rẫy cũng trực
tiếp làm thu hẹp vùng phân bố (Văn Bàn và Mường Khương - Lào Cai; Tràng Định
- Lạng Sơn).
Phân hạng: VU A1c,d
Biện pháp bảo vệ:
Loài đang được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá “sẽ
nguy cấp” (Bậc V) và Danh mục Thực vật rừng, Động vật rừng nguy cấp, quý
hiếm (nhóm 2) của Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ
để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Bảo vệ các quần thể hiện có
trong các Vườn quốc gia (Ba Vì, Tam Đảo, Ba Bể, Cúc Phương). Chỉ nên khai thác
những cây lớn, có thân rễ (củ) khoảng 100 gam trở lên.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 385.
4. SÂM CAU
Tên khoa học: Peliosanthes teta Andr. 1810.
Họ: Tóc tiên -Convallariaceae
Bộ: Măng tây -Asparagales
Đặc điểm nhận dạng:
Cỏ nhiều năm, thân rễ nằm ngang dưới đất, dài 2 - 10 cm, nhiều đốt. Lá 2 5, mọc tụm ở đầu thân rễ, cuống lá dài 15 - 30 cm; phiến lá hình mũi giáo, thuôn,
cỡ 25 - 35 x 2,5 - 5,5 cm. Cụm hoa chùm, dài 20 - 30 cm, có 10 - 20 hoa, ở phía
trên trục cụm hoa, trong mỗi lá bắc có 2 - 6 hoa. Hoa màu xanh nhạt, mép tím

hồng, đều, lưỡng tính. Bao hoa 6 mảnh, hình bánh xe, dính nhau ít nhiều ở phía
dưới, phía trên 6 thuỳ, xếp thành 2 vòng; có vòng tràng phụ. Nhị 6, đính ở mép
trong của có vòng tràng phụ, chỉ nhị gần như không có. Bầu trung, 3 ô, mỗi ô 2 - 3
non. Quả mọng, màu đỏ tươi, hình trứng dài 0,8 - 1 cm, một số nứt ra trước khi quả
chín, hạt 2 hoặc ít hơn
Sinh học và sinh thái:
Mùa ra hoa tháng 1 - 11, quả tháng 7 - 12. Mọc tự nhiên nơi đất ẩm nhiều
mùn, râm mát, dưới rừng, trong rừng mưa mùa, rừng lá rộng thường xanh, hốc cây,
hốc đá.
Phân bố:
Trong nước: Lai Châu (Phong Thổ), Sơn La (Mộc Châu), Lạng Sơn, Quảng
Ninh, Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Thanh Hoá, Lâm Đồng, Ninh Thuận.
Thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Malaixia.
Giá trị:
Thân rễ dùng làm thuốc có vị ngọt, tính mát, có tác dụng khử đờm chỉ khái,
thư can, chỉ thống dùng làm thuốc bổ, chữa ho, di tinh, đau ngực, ngực bị tổn
thương.


Tình trạng:
Là cây thuốc được nhân dân miền núi khai thác nhiều để làm thuốc sẽ dẫn
dến cạn kiệt, thêm nữa nạn phá rừng làm nương rẫy ở miền núi cho nên nơi cư trú
bị xâm hại và thu hẹp.
Phân hạng: VU A1c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Bảo vệ triệt để ở Vườn quốc gia Tam Đảo. Có biện pháp khai thác hợp lí,
đồng thời đưa vào trồng trọt để bảo vệ nguồn gen.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 387.
5. NẦN NGHỆ
Tên khoa học: Dioscorea collettii Hook. f. 1892.

Họ: Củ nâu - Dioscoreaceae
Bộ: Củ nâu - Dioscoreales
Đặc điểm nhận dạng:
Dây leo quấn, sống nhiều năm, dài 5 - 10 m. Thân rễ màu vàng, phân nhiều
nhánh ngắn tạo thành một khối có đường kính đạt tới 20 cm. Lá đơn, mọc cách;
phiến lá hình tim, cỡ 6 - 10 x 5 - 9 cm; có 7 gân, trong đó 3 gân gốc vươn tới chóp
lá; ở gốc cuống lá có 2 gai nhỏ cong (lá kèm biến dạng). Cụm hoa đực là những
xim dài 10 - 30 cm, mỗi xim có 3 - 4 hoa. Hoa đực không cuống; bao hoa gồm 6
mảnh dính nhau ở gốc, với 6 thuỳ hình tam giác ở đỉnh. Nhị hữu thụ 3 có chỉ nhị
chia đôi thành hình nạng và mỗi nhánh mang 1 bao phấn; nhị lép 3, hình dùi. Cụm
hoa cái hình chùm, dài 15 - 30 cm. Hoa cái có 2 lá bắc; bao hoa 6 thuỳ, không có
nhị lép; núm nhụy 3 thuỳ. Quả nang quặt lại, có 3 cánh, 3 ô, mỗi ô chứa 2 hạt. Hạt
có cánh tròn.
Sinh học và sinh thái:
Thân rễ nằm dưới đất, đến tháng 2 - 3 mới mọc thân khi sinh, tháng 5 - 6 ra
hoa và kết quả, cây tàn lụi vào tháng 11 - 12. Mọc rải rác ven rừng, trong rừng Tre
nứa, trảng cây bụi, ven suối, sườn núi.
Phân bố:
Trong nước: Sơn La (Mộc Châu).
Thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc, Mianma.
Giá trị:
Trong thân rễ chứa diosgenin, là nguyên liệu bán tổng hợp thuốc chữa đau
khớp, đau lưng gối, viêm đường tiết niệu, bạch đới, giảm cholesteron, chữa rắn độc
cắn.
Tình trạng:
Phân bố rất hẹp, mọc rất rải rác, nơi sống bị xâm hại do tàn phá rừng.
Phân hạng: EN A1a,b,c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đang được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "hiếm"
(Bậc R). Bảo vệ những cây còn sót lại ở Mộc Châu. Điều tra bổ sung về khu phân

bố và Tình trạng. Thu thập cây giống trồng bảo tồn tại các vườn thực vật.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 398.
6.NẦN ĐEN
Tên khoa học: Dioscorea membranacea Pierre ex Prain & Burk. 1914.


Họ: Củ nâu Dioscoreaceae
Bộ: Củ nâu Dioscoreales
Đặc điểm nhận dạng:
Thân rễ phân nhánh nhiều, đường kính có thể đạt tới 5 cm, thịt màu trắng
xanh, chứa nhiều nước, vỏ màu đen. Thân khí sinh quấn trái, có khía dọc. Lá mọc
so le, đơn nguyên hoặc 3 - 5 thuỳ; gốc cuống lá có 2 gai nhỏ cong. Hoa đơn tính,
khác gốc. Hoa đực có bao hoa hình ống, 6 thuỳ, 6 nhị. Hoa cái có bao hoa giống
hoa đực. Bầu dưới. Quả nang 3 cánh. Hạt có cánh tròn.
Sinh học và sinh thái:
Thân rễ dưới đất, tháng 2 - 3 mọc thân khí sinh, tháng 5 - 6 ra hoa kết quả,
tàn lụi vào tháng 10 - 11.
Phân bố:
Trong nước: Sơn La (Mộc Châu), Gia Lai (Krông Pa), Bà Rịa - Vũng Tàu
(núi Dinh), Kiên Giang (Hà Tiên).
Thế giới: Mianma, Thái Lan.
Giá trị:
Nguồn gen hiếm. Thân rễ có saponin, dùng để thuốc cá, độc.
Tình trạng:
Vùng phân bố hạn chế, nhưng nơi cư trú rất hẹp, số lượng ít, bị đe doạ do tác
động của môi trường.
Phân hạng: EN A1a, b.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đang được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "hiếm"
(Bậc R). Khoanh vùng bảo vệ hoặc trồng trọt tại nguyên thổ.

Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 400.
7. NẦN GỪNG
Tên khoa học: Dioscorea dissmulans Prain & Burk. 1933.
Họ: Củ nâu Dioscoreaceae
Bộ: Củ nâu Dioscoreales
Đặc điểm nhận dạng:
Dây leo bằng thân quấn về bên trái; dài 1,5 - 3m; đường kính thân leo 0,25 0,35 cm. Thân rễ nạc, nằm ngang, phân nhánh, màu vàng nhạt. Rễ chùm nhiều,
cứng. Lá có cuống, mọc so le, cuống dài 2,5 - 4 cm, gốc cuống lá có 2 u nhỏ giống
như gai. Phiến lá gồm 3 lá chét, hình thuôn hay elíp nhọn đầu, 6 - 9 x 2 - 3 cm, lá
chét giữa lớn hơn 2 lá bên, gốc 2 lá chét bên gần tròn và hơi lệch; 5 gân chính, gân
phụ hơi rõ ở mặt dưới. Hoa đơn tính khác gốc, cụm hoa dạng bông, mọc ở kẽ lá.
Hoa đực không cuống, dạng chuông, trên miệng xẻ 6 răng; 6 nhị, dẹt. Hoa cái có
cuống ngắn, 2mm; lá bắc nhỏ; bao hoa 6 cánh; bầu 3 ngăn. Quả nang gồm 3 cánh,
dài 25 - 28mm; rộng 18m. Hạt hình ô van, hơi dẹt, 5 x 8mm, có cánh mỏng.
Sinh học và sinh thái:
Mùa hoa tháng 6 - 7, quả tháng 7 - 9. Nhân giống tự nhiên chủ yếu từ hạt.
Phần thân leo lụi hàng năm vào mùa đông và mọc lại vào đầu năm sau. Cây ưa
sáng hoặc hơi chịu bóng. Thường leo lên cây bụi nhỏ hay cỏ ở ven rừng, nhất là
hành lang ven suối ở cửa rừng, hay bờ các nương rẫy, ở độ cao 400 - 600 m.
Phân bố:


Trong nước: Quảng Nam (Trà My: Trà Giác, Duy Xuyên), Quảng Ngãi,
Bình Định, Khánh Hoà (Khánh Sơn: Trung Hạp; Khánh Vĩnh).
Thế giới: Trung Quốc.
Giá trị:
Thân rễ có diosgenin, làm nguyên liệu bán tổng hợp thuốc chống viêm, hoóc
môn sinh dục, thuốc tránh thụ thai... (chú ý độc không ăn được).
Tình trạng:
Môi trường sống bị xâm hại do nạn phá rừng (Duy Xuyên - Quảng Nam)

hay mở rộng khu dân cư (thị trấn Trung Hạp, huyện Khánh Sơn - Khánh Hoà).
Diện tích nơi phân bố ước tính không quá 2000km2.
Phân hạng: VU B1+2b,c
Biện pháp bảo vệ:
Cần có kế hoạch điều tra lại để khoanh vùng bảo vệ. Thu thập về nghiên cứu
trồng - bảo tồn ngoại vi (Ex situ).
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 399.
8. LAN KIM TUYẾN
Tên khoa học: Anoectochilus setaceus Blume, 1825.
Họ: Phong lan Orchidaceae
Bộ: Phong lan Orchidales
Đặc điểm nhận dạng:
Cây thảo, mọc ở đất, có thân rễ mọc dài; thân trên đất mọng nước và có
nhiều lông mềm, mang 2 - 4 lá mọc xòe sát đất. Lá hình trứng, gần tròn ở gốc,
chóp hơi nhọn và có mũi ngắn, cỡ 3 - 4 x 2 - 3 cm, có màu khác nhau với mạng
gân thường nhạt hơn (màu lục sẫm với mạng gân màu lục nhạt hay màu nâu - đỏ
với mạng gân màu vàng - lục hay hồng); cuống lá dài 2 - 3 cm. Cụm hoa dài 10 15 cm, mang 4 - 10 hoa mọc thưa. Lá bắc hình trứng, chóp thót nhọn đột ngột, dài
8 - 10 mm, màu hồng. Hoa thường màu trắng, dài 2,5 - 3 cm; các mảnh bao hoa dài
khoảng 6 mm; môi dài đến 1,5 cm, ở mỗi bên gốc mang 6 - 8 dải hẹp, chóp phiến
rộng, chẻ hai sâu, hốc chứa mật dài 7 mm, bầu dài 1,3 cm, màu lục, có nhiều lông
mềm.
Sinh học và sinh thái:
Mùa hoa tháng 2 - 4. Tái sinh bằng chồi từ thân rễ và hạt, ít và sinh trưởng
rất chậm. Mọc dưới tán rừng nguyên sinh, hầu hết là nguyên thủy, rậm thường
xanh nhiệt đới mưa mùa cây lá rộng trên sườn núi đá granit, riôlit, phiến sét, ở độ
cao 500 - 1600 m, rải rác thành từng nhóm vài ba cây trên đất ẩm, rất giàu mùn và
lá cây rụng.
Phân bố:
Trong nước: Lào Cai (Sapa: Phăng Xi Păng, Văn Bàn: Liêm Phú), Hà Tĩnh
(Hương Sơn: Rào àn), Quảng Trị, Kontum (Đắk Glei: núi Ngọc Linh, Sa Thầy: núi

Chư Mom Ray), Đắk Lắk (Krông Bông: núi Chư Yang Sinh), Lâm Đồng (Lạc
Dương: núi Bì Đúp).
Thế giới: Ấn Độ, Nêpan, Butan, Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Malaixia, Inđônêxia.
Giá trị:
Cây có giá trị về mặt bảo tồn loài


Tình trạng:
Loài có khu phân bố rộng nhưng với số lượng cá thể không nhiều, tái sinh
chậm và đòi hỏi điều kiện sống ngặt nghèo ngày càng hiếm. Đã bị khai thác liên
tục trong nhiều năm, hiện đã trở nên giảm sút rõ rệt, có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Phân hạng: EN A1a,c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Loài có trong Danh mục Thực vật rừng, Động vật rừng nguy cấp, quý hiếm
(nhóm 1) của Nghị định số 32/2006/NĐ - CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ
để nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Cần bảo tồn các phần
quần thể nhỏ còn sót lại ở các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. Bên cạnh
đó cần nghiên cứu nhân giống để gieo trồng tạo hàng hóa xuất khẩu đồng thời bảo
vệ nguồn gen.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 409.
9. KIM CANG NHIỀU TÁN
Tên khoa học: Smilax elegantissima Gagnep. 1934.
Họ: Khúc khắc -Smilacaceae
Bộ: Khúc khắc -Smilacales
Đặc điểm nhận dạng:
Dây leo, dài 4 - 5 m. Thân, cành hình vuông, rộng 0,4 - 0,7 cm, lóng dài 7 12 cm, cạnh có cánh rộng 1 mm. Lá mọc cách, phiến lá hình thuôn - trứng, cỡ 10 32 x 3 - 17 cm, chóp nhọn thành mũi, gốc tròn hoặc tim nông; cuống lá dài 3 - 4
cm, tua cuốn dài 15 - 30 cm. Hoa đơn tính, khác gốc. Cụm hoa dạng bông tán, dài
20 - 40 cm, nhiều nhánh, gồm nhiều tán. Cụm hoa tán đực có 25 - 40 hoa. Cụm hoa
tán cái có 16 - 25 hoa. Hoa đực: bao hoa 6 mảnh, rời nhau, xếp 2 vòng; nhị 6, rời

nhau. Hoa cái: bao hoa 6 mảnh, màu đỏ đậm, xếp 2 vòng; nhị lép 3. Bầu thượng,
hình trứng, dài 3,5 mm; vòi nhuỵ gần như không có; đầu nhuỵ 3, cong ra ngoài.
Quả chưa thấy.
Sinh học và sinh thái:
Mùa ra hoa tháng 5 - 7, quả tháng 8 - 11. Mọc ven rừng cây bụi, rừng lá rộng
thường xanh, rừng mưa mùa, rừng thứ sinh, rừng nhiệt đới, á nhiệt đới, khe núi,
thung lũng, rừng họ Dẻ (Fagaceae), sườn đồi, sườn núi.
Phân bố:
Trong nước: Lào Cai (Sapa), Ninh Bình (Cúc Phương), Khánh Hoà (Hòn
Bà).
Thế giới: Trung Quốc (Vân Nam).
Giá trị:
Nguồn gen hiếm.
Tình trạng:
Loài có khu phân bố bị thu hẹp do nạn chặt phá rừng.
Phân hạng: VU B1 + 2b, c.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "hiếm"
(Bậc R). Đề nghị đưa vào trồng để bảo vệ nguồn gen.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 479.
10. HÀ THỦ Ô ĐỎ


Fallopia multiflora (Thunb.) Haraldson, 1978
Họ: Rau răm -Polygonaceae
Bộ: Rau răm -Polygonales
Đặc điểm nhận dạng:
Cỏ nhiều năm, thân leo quấn, dài 2 - 4 m, phân cành nhiều. Rễ phình to
thành dạng củ, vỏ màu nâu đen. Lá có cuống dài 2 - 4 cm, mọc cách, phiến lá hình
trứng, cỡ 3 - 7 x 2 - 5 cm, mép nguyên, chóp nhọn, gốc hình tim. Bẹ chìa mỏng,

dài 3 - 5 mm. Cụm hoa dạng chuỳ, dài 20 - 40 cm, mọc ở đỉnh cành hoặc nách lá,
hoa nhiều. Hoa đều, lưỡng tính, màu trắng hoặc lục nhạt. Bao hoa 5 mảnh, không
bằng nhau, 3 mảnh phía ngoài to hơn và đồng trưởng cùng với quả. Nhị 8, ngắn
hơn bao hoa. Bầu thượng, hình trứng; vòi nhuỵ 3. Quả bế, màu nâu đen, hình chóp,
3 cạnh.
Sinh học và sinh thái:
Mùa ra hoa tháng 7 - 10, quả tháng 9 - 12. Mọc nơi ẩm,nhiều mùn, vùng
rừng núi đá vôi, ở độ cao 800 – 1600 m. Còn được trồng trong các vườn thuốc. Có
thể trồng bằng củ và dây.
Phân bố:
Trong nước: Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hà Giang, Thanh Hoá,
Nghệ An, Hà Tĩnh.
Thế giới: Trung Quốc, Nhật Bản.
Giá trị:
Rễ củ dùng làm thuốc có tác dụng bổ gan, thận, an thần chữa suy thận, thiểu
năng gan, thiếu máu, di mộng tinh, bạch đới, suy nhược thần kinh.
Tình trạng:
Tuy có khu phân bố rộng nhưng là cây thuốc quan trọng nên đã bị khai thác
liên tục trong nhiều năm nay hiện đã trở nên hiếm dần. Ngoài ra, môi trường sống
bị thu hẹp do nạn phá rừng.
Phân hạng: VU A1c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Loài đã được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam (1996) với cấp đánh giá "sẽ nguy
cấp" (Bậc V). Đề nghị có biện pháp khai thác hợp lí, đồng thời gây trồng để bảo vệ
nguồn gen.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 - phần thực vật – trang 304.

PHẦN III
HƯỚNG DẪN KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG
CÂY GIẢO CỔ LAM (DẦN TÒONG)

1.Giới thiệu:
- Tên thường gọi: Giảo cổ lam
- Tên khoa học: Gynostemma pentaphyllum (Thunb.) Makino, 1902..


- Họ: Bầu bí - Cucurbitaceae
- Bộ: Bầu bí - Cucurbitales
- Tên khác: Cây Vạn trà, cây trường sinh, cây cỏ thần kỳ, sâm phương nam,
ngũ diệp sâm, mướp đắng rừng, cây Bố đắng, Dền tòng ( tiếng Thái).
Đặc điểm nhận dạng:
Cây dây leo, dài 80 - 120 cm, có tua cuốn, sống hằng năm. Lá mọc cách,
cuống lá dài 3 - 4 cm, lá kép chân vịt dạng pêđal, gồm 5 - 7 lá chét; phiến lá chét
cỡ 3 - 9 x 1,5 - 3 cm, mép lá có răng cưa. Cụm hoa dạng chuỳ thòng. Hoa nhỏ, mẫu
5, đơn tính khác gốc. ống bao hoa rất ngắn; cánh hoa rời nhau, dài 2,5 mm. Nhị 5,
bao phấn dính thành đĩa. Bầu có 3 vòi nhụy. Quả khô, tròn, đường kính 5 - 9 mm,
màu đen. Hạt 2 - 3, treo.
Sinh học, sinh thái:
Mùa hoa tháng 7 - 8, có quả tháng 9 - 10. Mọc rải rác ở vùng núi đá vôi hoặc
trên đất núi lửa, ở độ cao đến 2000 m. Tái sinh bằng thân và hạt.
Phân bố:
Trong nước: Lào Cai (Sapa), Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh
(Móng Cái), Hoà Bình, Thừa Thiên - Huế, Kontum, Gia Lai.
Thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Malaixia, Philippin,
Inđônêxia.
Giá trị:
Toàn cây băm nhỏ, phơi khô, nấu nước uống, có tác dụng bổ dưỡng, cường
tráng; dùng làm thuốc chữa viêm khí quản, viêm gan, viêm thận, loét dạ dày và
hành tá tràng, giải độc, chữa ho và long đờm, chống bệnh béo phì.
Tình trạng:
Khu phân bố bị chia cắt (chủ yếu mọc trên núi đá vôi); thường xuyên bị khai

thác (cắt toàn dây) tràn lan và quá mức (nhất là ở Cao Bằng, Lạng Sơn) để lấy
nguyên liệu làm thuốc và bán qua biên giới Trung Quốc.
Phân hạng: EN A1a,c,d.
Biện pháp bảo vệ:
Hạn chế việc khai thác kiểu diệt nguồn giống; nên tổ chức thu hạt gieo trồng
ở vùng núi đá vôi để tạo nguồn nguyên liệu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam năm 2007 – Phần thực vật – Trang 164.
Những năm trước đây, loài cây này mọc nhiều, nhưng do nhu cầu tiêu thụ
Giảo cổ lam lớn nên tình trạng người dân khai thác ồ ạt, không có ý thức bảo tồn
khiến loài cây này đang có nguy cơ cạn kiệt. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển loài
cây này không chỉ giúp nhân dân cải thiện thu nhập mà còn góp phần bảo vệ nguồn
gen quý của thiên nhiên.
2. Công dụng và giá trị kinh tế.
2.1 Công dụng:
Giảo cổ lam có tác dụng điều chỉnh các rối loạn tiêu hóa cơ thể như mỡ máu,
đường huyết, huyết áp, tim mạch thành phần giảo cổ lam có nhiều Saponin giống
nhân sâm chống lại sự lão hóa và ngăn ngừa bệnh tật, làm tăng tính thích nghi của
cơ thể, nâng cao miễn dịch, giải độc mạnh. Ngoài ra giảo cổ lam có tác dụng tăng


cường hệ miễn dịch, ngăn ngừa sự hình thành và phát triển của khối u. Giúp giấc
ngủ sâu, tăng cường máu lên não, ngăn ngừa chứng lú lẫn ở người già và có khả
năng chống ung thư. Các chế phẩm từ cây giảo cổ lam đã được dùng cho các vận
động viên làm tăng sức bền và khả năng vận động, dùng thường xuyên giúp mạnh
khỏe trẻ lâu.
2.2. Giá trị kinh tế.
Các sản phẩm từ cây giảo cổ lam trồng ở Việt Nam không những được tiêu
dùng nhiều trong nước mà còn mở ra triển vọng xuất khẩu tốt, nhất là các quốc gia
phát triển, nơi có tỉ lệ mắc bệnh tiểu đường cao. Chính vì vậy giảo cổ lam trở thành
cây dược liệu có hiệu quả kinh tế cao, đem lại thu nhập cho người dân. Giá một

cân giảo cổ lam khô năm 2016 dao động từ 200.000 – 300.000đ/kg.
3. Đặc điểm hình thái

Giảo cổ lam có đến 10 loại những năm gần đây các nhà khoa học nghiên cứu
khai thác được 3 loại chính có mặt tại Việt Nam. Trong đó có 2 loại 5 lá và loại 7
lá có giá trị tốt.
Giảo cổ lam là loại cây thân thảo, có tua cuốn đơn để leo, thuộc loại hoa đơn
tính khác gốc. Lá của loại thảo mộc này có hình dáng giống lá kép hình chân vịt.
Mỗi cụm hoa mang nhiều hoa nhỏ màu trắng, ở bầu có 3 vòi nhụy. Quả giảo cổ
lam có hình cầu, đường kính từ 5 – 9mm, khi chín có màu đen.
Phân biệt giữa cây Giảo cổ lam thật với cây khác
Trong các nghiên cứu khoa học, Giảo cổ lam có tên khoa học là
Gynostemma pentaphyllum có 5 lá chét (pentaphylla theo tiếng La tinh có
nghĩa là 5 lá), khác với các loài cùng chi như cây G. laxum có 3 lá chét hay
cây G. pubescens có 7 lá chét (xem ảnh bên dưới). Cây Giảo cổ lam là cây leo
bằng tua cuốn mọc ở nách lá, đây là đặc điểm của họ bầu bí (Curcubitaceae)
phân biệt với các cây họ Nho (Vitaceae) leo bằng tua cuốn mọc đối diện với
lá. Đặc biệt, cây Giảo cổ lam khi thử nhấm một chút thân hoặc lá ở đầu lưỡi
sẽ có vị đắng sau chuyển sang vị ngọt, mát do có thành phần chính là saponin
tương tự như trong Nhân sâm. Giảo cổ lam khi phơi khô hoặc sao lên thì rất
thơm và có mùi đặc trưng. Cũng cần lưu ý cây này chưa thấy mọc dưới đồng
bằng, chỉ mọc trên núi đá vôi. Tuy nhiên hiện nay có thể trồng được ở nhà
nhưng phải trong chỗ râm mát.


Để phân biệt được Giảo cổ lam thật giả, nhất thiết phải dùng cây tươi.

4. Điều kiện gây trồng.
4.1. Phạm vi
Giảo cổ lam trồng một số vùng miền núi trung du các tỉnh Phía Bắc: Lào

Cai, Hà Giang, Sơn La, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng. Trồng những nơi có
điều kiện đáp ứng gây trồng sau:
4.2 Gây trồng:
Cây thích hợp ở những nơi khí hậu mát, lạnh quanh năm, có lượng mưa ẩm
độ không khí cao là cây chịu được giá rét.
Nhiệt độ trung bình: 22 – 23 0C
Nhiệt độ cao nhất: 39,7 0C
Nhiệt độ thấp nhất: - 9,6 0C
Lượng mưa TB/năm: 2.500mm
Độ ẩm, không khí trung bình: trên 80%.
Cây giảo cổ lam không kén chọn đất nên có thể trồng ở nhiều loại đất khác
nhau. Đất có độ PH thích hợp từ 6,0 – 7,0.
4.3. Địa hình đất đai, thực bì.
Cây thích hợp trồng độ cao dưới 2000m so với mực nước biển. Rất thích
hợp nơi đất ẩm, rừng nguyên sinh và có đá hoặc cây để dây leo. Nơi rừng thứ sinh
nghèo, nơi ven khe suối, bìa rừng, nơi có độ tàn che nhỏ hơn 0,3 lần, cây vẫn phát
triển tốt.
5. Sản xuất nhân giống.
5.1. Nhân giống từ hạt
a. Thu hái và chuẩn bị hạt gieo ươm.
Vào tháng 11 – 12 khi quả chuyển sang màu tím sẫm thì tiến hành thu hái,
quả thu hái lựa những quả to, tròn đều cho vào nước đãi lấy hạt. Hạt sau đó được
hong khô nơi râm mát, thoáng gió và đem gieo ươm ngay.


b. Gieo ươm
Ngâm hạt nước ấm 40 – 50 0C ( 2 sôi + 3 lạnh ) trong khoảng 6 -8 giờ. Vớt
ra bọc vào túi vải ủ hạt. Mỗi ngày rửa chua bằng nước ấm 1 lần thời gian 15p, ủ từ
2-3 ngày. Khi nứt lanh đem hạt gieo lên luống.
c. Chuẩn bị đất và gieo hạt

Chuẩn bị đất: quốc xới đất mịn, làm luống dài 10 -15m tùy vào diện tích đất
rộng 80cm cao 20cm. Rãnh thoát nước phải có độ dốc và thấp hơn 5cm so với
xung quanh luống. Trước khi trồng cần tưới nước vôi lên mặt luống phòng kiến,
mối.
Gieo hạt: trước khi gieo hạt nên tưới đẫm mặt luống, trộn hạt với đất nhỏ
mịn cho tơi chống kết vón, vãi đều mặt luống, 0,1kg hạt gieo trên 5m2 . Sau khi
gieo xong phủ một lớp đất mỏng trộn lẫn phân chuồng hoai mục lên sau đó phủ
rơm rạ cho đều mặt luống và tưới nước.
d. Chăm sóc cây con.
Khi hạt nảy mầm dỡ bỏ vật liệu che phủ xuống. Thường xuyên tưới nước
giữ độ ẩm cho cây.
Chú ý phòng chống kiến dế, sâu bọ bằng thuốc bảo vệ thực vật. Khi cây con
lên được từ 4 -6 lá chiều cao đạt 6 – 7cm thì mang đi trồng. Chú ý bệnh lở cổ rễ ở
cây.
5.2. Nhân giống từ vườn hom.
Vườn hom lấy giống phải được chăm sóc kỹ. Khi trồng phải bón lót phân
chuồng 2kg/hố trộn 0,1kg NPK. Định kỳ 6 tháng bổ sung cắt tỉa đồng đều đảm bảo
cành, nhánh phát triển. Cây lấy hom phải cao trên 1m. Thời kỳ cắt tỉa tháng 10 –
12 cho vụ xuân sau khi lấy hom giâm cành.
Thời vụ giâm cành: tốt nhất là vụ đông xuân và vụ hè. Vụ đông giâm cành
từ 20/12 đến tháng 2. Vụ xuân giâm từ tháng 2 đến tháng 5. Vụ xuân hè tỷ lệ sống
cao hơn do chu kỳ sinh trưởng của cây bắt đầu nảy lộc vào mùa xuân.
Thiết kế luống, làm đất đóng bầu: luống có chiều dài 10 -15 m, chiều rộng
1,0 - 1,2 m, giữa 2 luống chừa rãnh rộng 40 cm. Đất đóng bầu tơi xốp, có thành
phần cơ giới trung bình, sàng đất nhỏ. Sử dụng túi bầu PE có kích thước 10 x 18
cm. Thành phần ruột bầu gồm 95% đất mùn + 3% phân chuồng hoai đất trộn 0,2%
phân NPK. Làm giàn che bằng lưới đen độ che sáng 60-70%.
Chọn cành lấy hom: Chọn cành khỏe, không sâu bệnh, độ dài 25 – 30 cm
có 2 nhánh lá. Vận chuyển tránh giập gãy cành, dùng dao sắc cắt hom, cắt gần sát
phần phân nhánh và bỏ ½ thân lá.Xử lý hom bằng thuốc IBA 0,5%, trước khi cắm

hom, bầu phải được tưới ẩm, hom phải cắm thẳng, cuống lá gần sát đất, sau khi
cắm xong phải tưới ẩm ngay.
Chăm sóc hom giâm: Sau 10 - 15 ngày thì cây liền vết cắt và bắt đầu ra mô
sẹo, sau 20 - 30 ngày cây bắt đầu ra rễ. Thời kỳ này cần phải giữ độ ẩm thường


xuyên và điều chỉnh ánh sáng thích hợp. Thường xuyên phá váng bầu cây và nhổ
cỏ dại.
Phòng trừ sâu bệnh hại: thường xuất hiện các loại sâu phổ biến: rầy xanh,
nhện đỏ, bọ xít, phòng trừ bằng phun thuốc Trebon, Padan.... Chú ý không để úng
ngập bầu làm phát bệnh thối cổ rễ. Sau 1 tháng cây bắt đầu phát triển cành nhánh,
tiến hành tách giãn bầu và điều chỉnh ánh sáng còn 50%. Sau 2 tháng mở toàn bộ
giàn che để cây thích ứng với điều kiện ánh sáng tự nhiên .
Tiêu chuẩn bầu xuất vườn: Cây con đem trồng đạt 2 tháng tuổi trở lên,
chiều cao (dài thân) 35 – 40 cm, có trên 3 nhánh lá thật, đường kính gốc từ 2 – 3
mm. Cây phát triển tốt, không bị cụt ngọn.
Một số lưu ý khi giâm hom:
- Chọn cây mẹ khỏe mạnh, không mang mầm bệnh. Cây không dư lượng
đạm (điều kiện phát sinh nấm bệnh)
- Chọn cành khỏe, cắt bỏ bớt nhánh và lá nhằm hạn chế sự mất nước do
thoát qua lá và cũng để hạn chế nơi trú ngụ của mầm bệnh.
- Cắt hom giâm một gốc 45 độ nhằm tăng diện tích tiếp xúc với đất và hạn
chế xâm nhập của mầm bệnh. Vết cắt phải dứt khoát, không bầm dập. Nên cắt
bằng dao lam hoặc dao cắt cây chuyên dụng. Không cắt bằng kéo sẽ làm dập thân.
- Nếu sử dụng thuốc kích thích rễ thì nên dùng sau khi bôi keo để thuốc bám
nhiều hơn vào hom giâm.
- Che mát cho vùng cây giâm hom. Lượng ánh sáng tùy vào từng gian đoạn
của cây nhưng những ngày đầu nên che mát hoàn toàn.
- Giá thể dùng để giâm hom phải mềm (để khi giâm hom không bị xướt,
giập), thoát nước tốt (người ta thường dùng các mịn hoặc tro trấu).

- Cắm hom vào giá thể không để chạm thành, đáy. Việc này cũng là để hạn
chế tổn thương, hạn chế xâm nhiễm của bệnh và giúp rễ phát triển tốt hơn.
- Tưới nước đẫm ngay sau khi giâm hom rồi sau đó chỉ tưới ướt lá để hạn
chế sự thoát hơi nước ở lá. Kiểm soát độ ẩm của giá thể giâm hom (độ ẩm lý tưởng
cho giâm hom là 60-65%). Việc tưới ướt lá cần thực hiện trong những ngày đầu khi
mới giâm và thưa dần về sau.
- Phun thuốc chống nấm, vi khuẩn vào ngày thứ 2 sau khi giâm và phun lặp
lại vào ngày thứ 7. Thuốc sử dụng trong trường hợp này là Ridomil God hoặc
Superstar (nên đổi thuốc để tránh kháng thuốc)..
6. Kỹ thuật trồng
6.1. Phương thức trồng
Giảo cổ lam có thể trồng theo các phương thức sau đây: Trồng thuần loài đại
trà trên đất trống, đồng ruộng trồng theo băng dưới tán giữa hàng các cây khác (cây
ăn quả, cây trồng rừng)
6.2. Thời vụ trồng


Trồng vào vụ xuân hè tháng 3-5.
6.3. Mật độ trồng
Trồng tập trung thuần loài trên đất trống hoặc trên ruộng: mật độ 20.000
cây/ha (cây cách cây 50 cm). Trồng cây con dưới tán rừng: cây cách cây 0,8 – 1 m.
6.4. Xử lý thực bì
Nếu trồng dưới tán từng cần phát dọn thực bì toàn diện, thực bì sau đó dọn
ra khỏi nơi trồng.
6.5. Làm đất
Làm đất cơ giới cuốc lật hoặc cày bừa theo toàn bộ diện tích, làm đất nhỏ,
tơi xốp và sạch cỏ. San mặt bằng và thiết kế luống, luống có chiều dài 10–15m,
chiều rộng 1,0-1,2m, giữa 2 luống chừa rãnh rộng 40cm, kích thước hố 30x40cm,
bón lót mỗi hố 2kg phân chuồng + 0,1 kg NPK, đảo phân và lấp hố trước khi trồng.
6.6. Trồng

Dùng cuốc đào một lỗ nhỏ ở chính giữa hố độ rộng vừa đủ bầu cây đem
trồng, nếu trồng bằng cây gieo ươm trên luống cần bứng cây để trồng, nếu trồng
bằng cây con có bầu cần xé bỏ vỏ bầu. Đặt cây thẳng đứng trong lòng hố, tránh
cong rễ lên phía trên, lấp kín cổ rễ sâu 2 cm. Ấn chặt đất quanh gốc. Cần tưới nước
ngay sau khi trồng. Sau 1 tháng kiểm tra và trồng dặm những đã cây chết hoặc thay
thế các cây có nguy cơ chết, sức sống kém.
6.7. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh hại
a) Chăm sóc
Thường xuyên làm cỏ, tưới nước đủ ẩm và tránh không để cây bị ngập úng
khi có mưa. Điều chỉnh giàn che 30- 40% ánh sáng.
Chăm sóc lần 1: (sau trồng 25 – 30 ngày) xới đất, làm sạch cỏ, làm giàn cho
cây leo bám bằng tre hoặc cành cây.
Chăm sóc lần 2: (sau trồng 80-90 ngày) xới đất, vun gốc, làm sạch cỏ, chú ý
sửa lại giàn và đỡ cho cây leo lên giàn theo luống thiết kế. Bón thúc 5 tấn phân
chuồng hoai mục + 400kgNPK cho mỗi ha sau mỗi lần thu hoạch.
b) Phòng trừ sâu bệnh hại
Phòng và theo dõi phát hiện kịp thời các loại sâu bộ, cánh cứng hại cây. Nếu
thấy hiện tượng cây bị sâu bệnh cắt bỏ lá phần bị bệnh và lá bị già úa, vệ sinh toàn
bộ khu vực tránh bị lây lan.
6.8. Khai thác
Giảo cổ lam thuộc dạng cây dài ngày, trồng một lần cho thu hoạch 2-3 năm,
sau khi trồng 5-6 tháng bắt đầu khai thác dây để sơ chế. Khi cắt tránh làm tổn
thương gốc. Thời gian khai thác lần 2 sau 8 tháng đến 1 năm tuổi. Bộ phận sử dụng
là toàn bộ phần lá, thân trên mặt đất, khi thu hoạch tiến hành cắt theo đám để trẻ
hoá cây và để lại phần gốc khoảng 40cm.
6.9. Sơ chế, chế biến và bảo quản


Sau khi được thu hoạch và làm sạch cần đưa vào sơ chế để chế biến ngay.
Tuỳ theo chất lượng và qui cách sản phẩm khác nhau mà kĩ thuật sơ chế và chế

biến cũng khác nhau. Có thể để vào bóng râm, nơi khô ráo; cắt đoạn 2-3 cm, phơi
khô trong nắng nhẹ, bảo quản trong bao kín, nơi khô ráo, thoáng mát hoặc có thể
phơi/sao khô, chờ tiêu thụ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), 2013: Quyết định số
1739/QĐ-BNN-TCLN ngày 31.7.2012 về việc công bố hiện trạng rừng toàn quốc
năm 2012 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT.
2. Bộ NN&PTNT, 2006: Quyết định số 2366/BNN-LN ngày 17.8.2006 kèm theo
Đề án bảo tồn và phát triển LSNG giai đoạn 2006-2020.
3. Luật Đa dang sinh học năm 2008.
4. Nghị định 32/2006/NĐ-CP Loài cây quý hiếm
5. sinh vật rừng Việt Nam.
6. Hà Chu Chử, 2007: Tổng quan LSNG Việt Nam. Dự án hỗ trợ chuyên ngành
LSNG tại Việt Nam - pha II.
7. Sách đỏ Việt Nam năm 2007.
8. Nguyễn Huy Sơn, 2012: Định hướng bảo tồn và phát triển LSNG đến năm 2020.
Bản tin phục vụ lãnh đạo, số 10.2012. Thông tin chuyên đề NN&PTNT, Bộ
NN&PTNT.
9. Báo cáo quy hoạch hệ thống rừng đặng dụng của cả nước đến năm 2020 của
Tổng cục Lâm nghiệp, tháng 4 năm 2014.

Một số hình ảnh về cây Giảo cổ lam và sản phẩm làm từ cây Giảo cổ lam


1.Qảu Giảo cổ lam khi chín

3.Giống cây giảo cổ lam

5. Giảo cổ lam 7 lá.


2. Quả Giảo cổ lam khi còn non

4. Giảo cổ lam 5 lá

6. Giảo cổ lam trồng khu núi đá




×