Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TINH THẦN bất BÌNH với THỰC tại TRONG lý LUẬN và SÁNG tác văn học của một NHÀ văn TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.9 KB, 10 trang )

TINH THẦN BẤT BÌNH VỚI THỰC TẠI TRONG LÝ LUẬN VÀ SÁNG TÁC
VĂN HỌC CỦA TƯ MÃ THIÊN, BẠCH CƯ DỊ, HÀN DŨ, ÂU DƯƠNG TU
Trung Quốc là một trong những cái nôi của nền văn minh thế giới. Cùng với những
thành tựu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, nền văn học Trung Quốc đã có bước
phát triển rực rỡ không thua kém một nền văn học nào trên thế giới. Song song với
những thành tựu trong sáng tác thơ ca, hoạt động lý luận phê bình được hình thành
và đạt được nhiều thành tựu. Ở mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử, có những
khuynh hướng, những tư tưởng khác nhau chi phối đến các nhà sáng tác cũng như
trong lí luận phê bình. Trong giới hạn yêu cầu của chuyên đề, chúng tôi sẽ giới
thiệu khuynh hướng, tư tưởng lý luận: “ Tinh Thần Bất Bình Với Thực Tại” được
thể hiện qua một số tác gia như Tư Mã Thiên, Bạch Cư Dị, Hàn Dũ, Âu Dương Tu.
Từ đó thấy được mỗi giai đoạn, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của xã hội Trung Quốc có
ảnh hưởng như thế nào đối với quan niệm, tư tưởng cũng như trong lí luận về sáng
tác văn học của các nhà văn cổ điển Trung Hoa.
1. Đôi nét về các tác giả
1.1 Tư Mã Thiên
Tư Mã Thiên (145 trCN- ?) tự Tử Trường, người Hạ Dương ( Thiểm Tây ngày
nay). Ông là nhà văn, nhà viết sử vĩ đại thời Tây Hán. Tổ tiên ông từ đời Chu đã
làm chức Thái Sử, đến đời thân phụ ông là Tư Mã Đàm, làm chức Thái Sử lệnh
nhà Hán. Khi Tư Mã Thiên 20 tuổi, ông được thân phụ cho đi khắp Trung Hoa đến
những địa danh nổi tiếng để sau này có thể viết sử. Người đời sau coi ông là người
lữ hành vĩ đại nhất Trung Hoa thời cổ. Trở về ông được cho làm chức Lang Trung.
Sau khi cha mất, ông lại nối tiếp làm chức Thái sử lệnh. Khi chuẩn bị bắt tay vào
viết sử ký thì ông gặp phải tai vạ, do dám bênh vực bạn mình là Lý Lăng nên bị
Hán Vũ Đế khép vào tội “ khi quân” và bị xử “ Cung hình” ( bị thiến). Đau đớn
nhục nhã tưởng đến chết được, nhưng Tư Mã Thiên đã không gục ngã ông chấp
nhận đau khổ và phẫn uất, ông dồn hết tâm trí vào viết tác phẩm lớn nhất của đời
mình: Sử ký. Đó chính là bộ sử trác tuyệt nhất trong nền văn học và sử học Trung
Quốc.
1.2 Bạch Cư Dị



Bạch Cư Dị là nhà văn, nhà thơ vĩ đại đời Đường. đồng thời ông cũng là nhà phê
bình văn học kiệt xuất, chủ chương văn học tiến bộ của ông là một đóng góp quan
trọng cho lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Bạch Cư Dị ( 772 -846), tự Lạc
Thiên, người vùng Hạ Quê ( nay là huyện Vị Nam, tỉnh Thiểm Tây). Tác phẩm có
Bạch thị Trường Khánh tập. Bạch Cư Dị sống vào thời trung Đường sau loạn An
Lộc Sơn, lúc bấy giờ đất nước đang suy kiệt, các mâu thuẫn xã hội bộc lộ ra một
cách sâu sắc. Bạch Cư Dị nhận thức sâu sắc tác dụng xã hội của thi ca, ông ra sức
đề cao thơ phúng dụ. Bên cạnh đó ông cũng đã tổng kết lý luận thơ ca tiến bộ trong
quá khứ từ Nhạc Ký, Thi đại tự cho đến Trần Tử Ngang, Đỗ Phủ đời Đường. Kết
hợp yêu cầu thời đại, trình bày một cách rõ ràng quan hệ thơ ca với hiện thực và
tác dụng xã hội của nó. Chủ trương văn học giàu tính chiến đấu của ông có ý nghĩa
quan trọng trong lý luận thơ ca tiến bộ đời Đường.
1.3 Hàn Dũ
Hàn Dũ ( 768 – 824) tự Thối Chi, người Hà Dương ( nay là Mạnh Huyện, Hà
Nam). Do ông thuộc dòng họ lớn và có tiếng tăm trong quận Lê Xương, nên ông tự
xưng mình là Xương Lê Hàn Dũ và người đời sau gọi ông là Hàn Xương Lê. Ông
đỗ tiến sĩ năm thứ tám niên hiệu Trinh Nguyênv (792), bốn năm sau ông mới được
cử giữ chức Quan Sát Thôi Quan. Do ông dâng thơ lên nhà vua nói về việc tai họa
xảy ra tại Quan Trung nên bị giáng chức và đày đi làm huyện lệnh ở Dương Sơn…
Ông có Xương Lê Tiên Sinh tập.
1.4 Âu Dương Tu
Âu Dương Tu ( 1007 – 1072) tự Vĩnh Thúc, hiệu Túy Ông, cuối đời còn có hiệu là
Lục Nhất Cư Sĩ, người Lư Lăng ( nay là Cát An, Giang Tây), mồ côi cha từ bé, gia
cảnh tương đối nghèo túng. Năm 1030 đời Tống Nhân Tông, ông đỗ tiến sĩ, từ đó
lần lượt làm quan ở địa phương và trung ương. Thời kỳ này, tư tưởng chính trị của
ông phản ánh lợi ích của giai tầng địa chủ nhỏ không được hưởng đặc quyền phong
kiến. Ông có một nhận thức khá tỉnh táo đối với nguy cơ trầm trọng về các mặt
kinh tế, chính trị và quân sự đương thời đã tiếp xúc với các vấn đề bản chất như lấn
chiếm đất đai, phu dịch nặng nề.

Về cuối đời ông liên tục được bổ nhiệm làm phó sứ khu mật viện, tham tri chính
sự… những chức vụ trọng yếu đương thời. Âu Dương Tu có địa vị quan trọng
trong lịch sử văn học Trung Quốc. Trong cuộc vận động cách tân văn học Bắc


Tông, ông có những cống hiến nổi bật, trở thành lãnh tụ của văn đàn thời kỳ giữa
Bắc Tống. Ông lại là nhà văn có tài năng nhiều mặt: tản văn, thơ, từ, sử truyện…
mặt nào cũng có thành tựu. Ông được tôn là một trong Đường Tống bát đại gia, tác
phẩm: Tân Đường Thư, Tân Ngũ Đại Sử, và cuốn thi thoại được coi là mở đầu cho
thể tài này ở Trung Quốc là: Lục Nhất Thi Thoại..
2. Tinh thần bất bình bất bình với thực tại trong lý luận sáng tác của các tác giả.
2.1 Tư Mã Thiên với quan niệm “ Phát phẫn trứ thư”
Tinh thần bất bình với thực tại trong lí luận về sáng tác văn học của Tư Mã Thiên
bắt nguồn từ đời sống cá nhân của ông. Gặp nhiều trái ngang trong bước đường
quan lộ chỉ vì lòng tốt giúp bạn, Tư Mã Thiên đã bị chế độ phong kiến tàn khốc
ghép tội và xử cung hình, điều ấy khiến ông phải chịu đau khổ về thể xác, và nhục
nhã về nhân cách, tinh thần. Từ bi kịch của bản thân Tư Mã Thiên đã dòn hết tâm
lực của mình cho sự nghiệp văn chương. Ông đã cố gắng nén nỗi đau riêng mà
hoàn thành bộ sử ký. Trong Thái sử công tự tư, bài tựa sách Sử ký, Tư Mã Thiên đã
đưa ra thuyết “ Phát phẫn trứ thư” ( uất ức mà viết thành sách). Ông viết:
“Thái sử công gặp cái họa Lý Lăng, bị cùm trói trong tù, bèn bùi ngùi mà rằng: “
Đó là tội của ta! Đó là tội của ta! Thân tàn này không dùng được nữa rồi!”. Nhưng
lại suy nghĩ kỹ mà rằng:Ôi! Viết sách làm thơ, đó là điều những người trong lúc
cùng dùng để truyền đạt cái ý nghĩ của mình. Xưa Tây Bá bị tù ở Dĩu Lý nên diễn
giải Chu Dịch, Khổng Tử gặp nạn ở đất Trần, đất Thái nên viết Xuân Thu, Khuất
Nguyên bị đuổi nên viết Ly Tao, Tả Khâu Minh bị mù mà làm Quốc Ngữ. Tôn Tẫn
bị cụt chân bàn binh pháp. Lã Bất Vi bị đày sang Thục, đời truyền lại sách Lữ Lãm.
Hàn Phi bị tù ơ Tần làm những thiên Thuyết nan, Cô phẫn, ba trăm bài kinh thi
phần lớn đều do thánh hiền làm ra để giãi bày các nỗi uất ức không biểu lộ ra được,
cho nên thuật lại chuyện xưa mà lo truyền lại người sau”.

Tư Mã Thiên một lần nữa khẳng định cho thuyết “ Phát phẫn trứ thư” ( Văn
chương được sáng tác từ sự phẫn uất của người nghệ sĩ), tác phẩm viết ra từ những
điều uất ức của nhà văn không còn là câu chuyện sáng tác riêng tư mà đó là việc
biểu lộ sự bất bình chung của nhà văn đối với thực tại. Điều này thể hiện một bước
tiến trong quan niệm sáng tác nếu so với quan niệm truyền thống của nhà nho được
thể hiện trong Thi đại tự - “ Phát hồ tình, chỉ hồ lễ nghĩa” ( phát ra từ tình cảm mà
dừng lại ở lễ nghĩa).


Trong Thư trả lời Nhâm An ( Báo Nhâm Thiếu Khanh Thư), Tư Mã Thiên đã viết:
“ Người xưa giàu sang mà danh bị vùi dập không kể hết. Chỉ có những người trác
việt phi thường là được người ta nhắc đến mà thôi. Văn Vương bị giam diễn giải
Chu Dịch, Trọng Ni gặp nạn làm Kinh Xuân Thu, Khuất Nguyên bị đuổi nên ngân
Ly Tao. Tả Khâu bị mù nên có Quốc Ngữ. Tôn Tẫn bị chặt chân, trình bày binh
pháp. Bất Vi bị đày sang Thục, sách Lữ Lãm còn truyền lại ở đời. Hàn Phi bị tù ở
Tần, viết Thuyết Nan và Cô Phẫn. Kinh Thi ba trăm thiên phần lớn đều do thánh
hiền phát phẫn mà làm ra. Những người này đều có cái uất ức trong lòng không
bày tỏ được đạo của mình, cho nên thuật việc cũ để lại cho người sau này vậy. Kìa
xem Tả Khâu không có mắt, Tôn Tẫn bị chặt chân, trọn đời không thể làm được
việc gì nên lui về viết sách để hả điều căm giận, mong lấy câu văn suông để cho
đời biết đến mình”.
Tư Mã Thiên nói chuyện người xưa nhưng thực ra là để nói mình. Người xưa gặp
phải những hoàn cảnh éo le ngang trái đã để lại cho đời những tấm gương tiết liệt.
Cho dù hoàn cảnh có khó khăn cũng không làm cho các bậc trí nhân quân tử lùi
bước mà ngược lại càng làm cho họ - những con người coi thường cường quyền,
bạo ngược càng giữ vững khí tiết. Và cũng chính trong hoàn cảnh đó con người
nghệ sĩ trong họ được phát tiết bùng nổ và để lại cho đời những tác phẩm, những
quan niệm bất hủ trong sáng tác văn chương.
Quan niệm “ Phát phẫn trứ thư” của Tư Mã Thiên có ảnh hưởng sâu sắc đối với các
nhà văn sau này. Hoàn Đàm ( Đông Hán) cũng nói tương tự: “ Giả Nghị bị giáng

chức, thất chí, thì văn thái không phát được” ( Giả Nghị bất tả thiên thất chí, tắc
văn thái bất phát). Hàn Dũ đời Đường đưa ra thuyết vật bất bình thì kêu lên – “ Bất
bình tắc minh”. Âu Dương Tu ( thời Tống) nói về thơ thì cho rằng: Người cùng thì
thơ mới hay – “ Thi cùng nhi hậu công”, cũng có mối liên hệ chặt chẽ với quan
niệm “ Phát phẫn trứ thư” của Tư Mã Thiên.
2.2 Bạch Cư Di với quan niệm văn chương dùng để : “ Bổ sát thời chính”
Đi vào tìm hiểu cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Bạch Cư Dị, ta thấy các
sáng tác của ông được hình thành từ đầu những năm Nguyên Hòa. Khi ông cùng
với Nguyên Thận tìm hiểu mọi việc đương thời và viết Sách Lâm thì trong đó một
bài “ gom nhặt thi ca để làm tài liệu bổ sung cho việc tìm hiểu chính trị đương
thời” ( Thái thi dĩ bổ sát thời chính) đã nói đến tác dụng và chức năng của thi ca


một cách có hệ thông. Trước tiên ông cho rằng thi ca là sản phẩm có tình cảm do
con người xúc cảm một sự thật nào đó mà viết ra. Ông nói: “ Con người có cảm
xúc trước sự việc thì tất nhiên tình cảm sẽ bị kích động rồi sau đó mới cảm hứng
hoặc cảm thán phát ra lời ngâm vịnh mà hình thành thi ca”. Do vậy, Bạch Cư Di
nhấn mạnh việc có thể từ trong thi ca tìm hiểu vấn đề xã hội, thấy được “ Sự thịnh
suy của nước nhà”, “ Sự được mất về chính trị của nhà vua”. Cho nên nhà vua phải
cần học theo cổ nhân, đặt ra một quan chức chuyên trách việc thu thập thi ca trong
xã hội.
Sau năm Nguyên Hòa nguyên niên, lí luận trên đã dần dần được hoàn chỉnh. Đến
năm Nguyên Hòa thứ tư, trong bài tựa Tân Nhạc Phủ, Bạch Cư Dị đã đề xuất thi ca
phải: “ Vì vua, vì quan, vì dân, vì vật, vì sự mà sáng tác chứ không phải và văn mà
sáng tác”. Ông một mặt yêu cầu nhà vua: “ Muốn dẹp bỏ chướng ngại để đạt đến
nhân tình, thì trước tiên phải tìm hiểu những lời châm biến trong thi ca” ( Dục khai
ung tế đạt nhân tình, tiên hướng thi ca cầu phúng thích – theo bài Thái Thi Quan
trong Tân Nhạc Phủ). Mặt khác, ông cũng yêu cầu các thi nhân phải phản ánh vấn
đề thực tế trong thi ca và nêu lên việc phải dùng lời châm biếm để can gián. Từ đó
thấy được quan điểm văn chương của Bạch Cư Dị chủ yếu là: văn chương là khí cụ

dùng để “ Bổ sát thời chính”( Bổ sung cho việc xem xét nền chính trị đương thời).
Thực tại cuộc sống có tác động rất mạnh mẽ đến quan điểm cũng như thái độ của
Bạch Cư Dị trong quá trình sáng tác. Trong những năm Nguyên Hòa, tình hình xã
hội tương đối ổn định, chiến loạn đã tạm lắng xuống nên giới quyền quý giàu sang
lại sống xa hoa trụy lạc, bọn quan lại bất tài thì hí hửng chúc mừng nhau. Với ngòi
bút của mình Bạch Cư Dị đã lột tấm vải che mặt của họ, để phơi bày ra sự đen tối
nhơ nhớp và bất hợp lý của xã hội. Mũi nhọn phê bình của ông đã khoét sâu vào xã
hội, trên từ cung đình, dưới đến quan lại. Những bài thơ của ông đã làm cho “
quyền hào quý cận giả nhi tương mục biến sắc” ( Bọn quyền quý nhìn nhau mà thất
sắc), “ Chấp chính bính giả ách oản” ( Kẻ chấp chính nắm quyền siết chặt tay), “
Ác quân yếu giả thiết xỉ” ( Người cầm quân quan trọng nghiến răng) – Theo bức
thư gửi cho Nguyên Cửu.
Nhìn chung cuộc đời của Bạch Cư Dị cũng nhiều thăng trầm, điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến tư tưởng của nhà thơ trong hoạt động lí luận và sáng tác văn học.
Thực tại cuộc sống cũng như chế độ xã hội ngày càng có nhiều ngang trái bất công,
vói ngòi bút và trách nhiệm của mình, Bạch Cư Dị đã thể hiện sự đồng cảm với


những người nghèo khổ bị bóc lột, vơ vét mà lâm vào tình trạng khó khăn bi đát.
Trong bài Trùng Phú, ông miêu tả tầng lớp dưới: “ Ấu giả hình bất tế, lão giả thể
vô ôn, bi suyển tịnh hàn khí, tính nhập tị trung tân” ( Trai trẻ thân không kín, người
già ấm đủ đâu. Hảo hển thở hơi lạnh, hơi cay bay vào mũi). Trong bài Thương
Trạch, ông miêu tả sự xa hoa của người giàu có để đối chiếu với cảnh tượng kể
trên: “ Nhất đường phí bách vạn, uất uất khởi khinh yên. Động phòng ôn thả cao,
hàn thử bất năng can…trù hữu xú bại nhục, khố hữu quán hủ tiền” ( Ngôi nhà tốn
hàng triệu, ngạt ngào nhẹ khói bay. Gian phòng cao lại ấm, nóng lạnh nào có hay…
Nhà bếp thịt ôi thối, trong kho tiền rỉ hư).
2.3 Hàn Dũ với quan niệm: “ Vật bất bình tắc minh”
Người khởi xướng phong trào cổ văn thời Trung Đường là Hàn Dũ. Ngoài công lao
của ông là chống lại thói hư văn và giải phóng văn thể, nhất là văn xuôi. Ông còn

nổi tiếng với quan niệm sáng tác “ Vật bất bình tắc minh” – mọi vật vì bất bình mà
phải kêu lên. Theo quan niệm của Hàn Dũ thì vă chương cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Vì sự bất bình với thực tại mà người nghệ sĩ mới phải kêu lên, mà
sáng tạo ra tác phẩm: “ Nói chung vật không được quân bình thì kêu lên. Cỏ cây
không có âm thanh, gió đùa mà phát ra tiếng. Nước không có âm thanh, gió xao
động mà phát ra tiếng. Nó sẽ vọt lên nếu có ai chặn nó, nó sẽ cuốn đi nếu có ai
ngăn trở nó, nó sẽ sôi lên nếu có ai nấu nó. Sắt đá không có âm thanh, gõ thì nó
kêu. Người ta đối với ngôn từ cũng vậy, có điều chẳng đừng được mới phải nói ra,
người ta sẽ ca lên khi có tâm tư, sẽ khóc lóc khi nhớ thương. Tát cả những gì phát
ra từ miệng đều là do có nỗi bất bình. Nhạc là điều u uất ở trong mà tuân trào ra
ngoài, lựa lấy ở âm thanh hay mượn nó để tỏ bày (…). Đối với người ta cũng vậy.
Cái tinh hoa của tiếng người là lời nói, văn từ so với lời nói thì lại càng là tinh hoa,
lựa lấy những tiếng kêu hay, mượn nó để kêu lên nỗi niềm” ( Tống Mạnh Đông Dã
tự)
Tinh thần bất bình với thực tại trong lí luận về sáng tác văn học của Hàn Dũ còn
được thể hiện qua việc ông mượn hình tượng những loài động vật như lừa, ngựa,
lân để nói lên cảnh ngộ của con người. Trong những bài văn tạp cảm đó, thông
thường chứa đựng những lời than đầy xót xa bùi ngùi, buồn đau cô độc của chính
tác giả do có tài mà không gặp được dịp may như bài Thuyết Mã sau đây:


“ Đời Bá Nhạc rồi mới có thiên lý mã. Thiên lý mã thường có nhưng Bá Nhạc thì
không thường có. Cho nên dù là danh mã cũng chỉ đành chịu nhục dưới tay nô lệ,
đành tức giận mà chết trong tàu ngựa mà thôi, chứ không ai gọi nó là thiên lý mã
cả. Một con thiên lý mã khi ăn thì có thể ăn hết cả thạch bắp. Người nuôi ngựa cho
nó ăn nhưng không biết nó là thiên lý mã. Với một con ngựa cho dù có tài chạy
nghìn dặm nhưng ăn không no, sức không đủ, sắc đẹp không thể bộc lộ ra ngoài,
cho dù so với con ngựa thường cũng không bằng. Vậy nói gì tới việc chạy nghìn
dặm. Dùng roi đánh nó không đúng chỗ, cho ăn không đủ no, nó hí lên mà không
biết được ý nó muốn nói gì. Cầm roi đứng sát cạnh nó nói: “ Trong đời không có

ngựa. Ô hô! Phải thật không có ngựa chăng? Đây kì thực chỉ là không biết ngựa!”
Với quan niệm “ Vật bất bình tắc minh” , Hàn Dũ đã lí giải cho tinh thần bất bình
với thực tại trong lí luận về sáng tác văn học của mình. Là người khởi xướng cho
phong trào cổ văn thời Trung Đường đạt được nhiều thành tựu, bên cạnh đó trong
quan niệm sáng tác của mình Hàn Dũ cũng đã có rất nhiều sự thay đổi đó là việc sử
dụng những hình ảnh bình thường để phản ánh khái quát xã hội. Thông qua đó ta
thấy được tư tưởng cũng như tình cảm của ông đối với những kiếp người xa cơ lỡ
vận, phải chôn vùi tài năng của mình trong sự ràng buộc của chế độ xã hội cũng
như sự bất bình của người nghệ sĩ đối với thực tại.
2.4 Âu Dương Tu với quan niệm “ Thi cùng nhi hậu công”
Thực tại cuộc sống có thể đem lại cho người ta một nguồn cảm hứng mới, một khát
vọng sống mới để cống hiến, để khẳng định… cũng có khi thực tại cuộc sống đem
lại cho người ta cảm giác bất bình, phản kháng lại để khẳng định cái tôi cá nhân
cũng như phẩm chất thanh cao của người nghệ sĩ. Âu Dương Tu nhà văn hàng đầu
đời Tống đã thách thức dư luận bằng quan niệm “ Thi cùng nhi hậu công” ( Người
cùng thơ mới hay). Quan niệm này xuất phát từ đâu? Phải chăng chính là từ thực
tại cuộc sống đầy những trái ngang đẩy người ta đến “ Bước đường cùng” không
lối thoát, ở chính trong hoàn cảnh đó tài năng của người nghệ sĩ mới được phát tiết,
khẳng định. Quan niệm “ Thi cùng nhi hậu công” đã được Âu Dương Tu chứng
minh bằng chính cuộc đời đầy thăng trầm của mình.
Thực tại cuộc sống có ảnh hưởng rất lớn tới quan niệm, cũng như ngòi bút của Âu
Dương Tu. Ông có khả năng phản ánh các hiện tượng xã hội đen tối đương thời
một cách sinh động và chính xác. Bài Thực tao dân là một ví dụ, ông vạch trần việc


quan lại trưng thu lương thực của nông dân để nấu rượu, làm cho đời sống của
nông dân vô cùng khổ cực: “ Nồi không hạt cháo qua đông xuân” kết quả là người
nông dân không thể không “ Lại đến nhà quan mua bã ăn” thế mà bọn quan lại
không những không xấu hổ, ngược lại coi việc bán bã rượu cho nông dân như là
một ân huệ. Âu Dương Tu đã phê phán hiện thực xã hội một cách sâu sắc và gay

gắt.
Tinh thần bất bình với thực tại trong lí luận về sáng tác của Âu Dương Tu còn
được thể hiện qua một số bài Từ . Âu Dương Tu đã bao phen gặp trắc trở trên con
đường sĩ hoạn nên ông thường đưa những nỗi bùi ngùi xót xa về thân phận mình
vào trong từ . Đây là một đề tài mà những nhà sáng tác từ ít khi viết đến, ên đối với
không khí hẹp hòi đó nó có một tác dụng đột phá. Như trong bài Lâm Giang Tiên
có câu: “ Như kim bạch hoạn lão thiên nhai – Thập niên kỳ lộ không phụ khúc
giang hoa” ( Như nay quan bé ở xa xăm, mười năm đi lạc đường uổng phí khúc
giang hoa). Trong bài Thánh Vô Ưu ông viết: “ Thế lộ phong ba hiểm – Thập niên
nhất biệt tu du” ( Đườn đời phong ba hiểm – Mười năm khoảnh khắc biệt ly)… đều
thể hiện nỗi lo buồn trước cảnh đấu đá ở quan trường. Mười bài thơ lấy tựa chung
là Thái Tử Tang cũng như bài Họa Tô Tử Mỹ Thượng Lãng Đình…Ông lại nói lên
nỗi mệt mỏi chán chường trong đời sống sĩ hoạn, và ao ước được sống một cuộc
sống an nhàn ẩn dật. Chính điều này đã làm cho quan niệm “ Thi cùng nhi hậu
công” – người cùng văn mới hay của ông có được những giá trị nhất định. “ Thi
cùng nhi hậu công” được thể hiện như tản văn, thơ, từ, sử truyện…
3. Những điểm chung và khác biệt trong “ Tinh thần bất bình với thực tại” của các
tác gia
3.1 Đặc điểm chung
Một điểm chung dễ nhận thấy ở “ Tinh thần bất bình với thực tại” của các tác giả lý
luận văn học cổ điển Trung Quốc là việc bất đắc chí với thời cuộc. Hầu hết, họ đều
là những người có tài năng, muốn đem sức mình để phục vụ đất nước, phục vụ
nhân dân nhưng vì những chính kiến của mình không phù hợp với thời cuộc,
không phục vụ cho lợi ít của triều đình phong kiến nên họ tỏ ra bất mãn, dồn hết
tâm tư tình cảm của mình, phản ánh nổi uất ức của bản thân trong sáng tác văn
chương. Bắt đầu từ Tư Mã Thiên với cái họa Lý Lăng mà phải chịu hình phạt “
cung hình” tàn khốc, Bạch Cư Dị bất bình với hiện thực rối ren của đất nước khi


loạn An Lộc Sơn xảy ra ở giai đoạn Trung Đường, Hàn Dũ dâng thơ lên nhà vua

nói về việc tai họa xảy ra tại Quan Trung nên bị giáng chức và đày đi làm huyện
lệnh ở Dương Sơn, Âu Dương Tu làm quan thường dâng sớ bàn về chính sự nên bị
giáng chức, thuyên chuyển nhiều nơi, đến cuối đời phải từ quan do phản ánh cải
cách của Vương An Thạch. Do bất bình với những tư tưởng của nhà nước phong
kiến đương thời mà phát ra tiếng nói phản ánh dẩn đến cái họa cho bản thân.
Điểm chung thứ hai ở “tinh thần bất bình với thực tại” của các tác gia đó chính là
không tuân thủ một cách mù quáng theo những yêu cầu mù quáng của đạo đức
Nho Gia. Mặc dù xuất hiện trong thời đại mà Nho giáo là đạo giáo chính thống ở
Trung Quốc nhưng không vì thế mà các ông tuân theo quan niệm “ trung vua” một
cách mù quáng. Mặc dù bản thân phải chịu nhiều uất ức, chịu nhiều hình phạt nặng
nề, nhưng không vì thế mà sáng tác của các ông phản ánh những chuyện riêng tư
của bản thân mà ngược lại là sự biểu hiện cái bất bình chung với thực tại, mong
viết sách để truyền lại cho hậu thế.
3.2 Điểm khác biệt trong “ Tinh thần bất bình với thực tại” của các tác gia
Quan niệm “ phát phẫn trứ thư” bắt đầu từ Tư Mã Thiên đã có ảnh hưởng sâu sắc
đối với sáng tác của các nhà văn sau này. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh xã hội,
những triều đại khác nhau mà quan niệm này có những cách thể hiện khác nhau.
Tư Mã Thiên vì sự phẫn uất của bản thân, vì sự “ lập ngôn” mà viết lên bộ Sử Ký
nổi tiếng nhằm phản ánh thực tại của nhà nước phong kiến thông qua những sự
việc có thực trong xã hội để lư truyền cho hậu thế. Bạch Cự Dị thì vì sự đau khổ
của nhân dân do sự loạn lạc của đất nước mà đề xứng chủ trương “ riêng than dân
khổ” ( duy ca dân sinh bệnh), quy định nội dung của thơ ca phải phát huy hơn nửa
tác dụng châm biếm tệ trạng đương thời. Hàn Dũ, Âu Dương Tu thì dựa vào cái
Đạo, tuân theo thánh hiền xưa, vận dụng đạo vào sáng tác văn thơ. Tuy nhiên, dù
tuân thủ theo Đạo giáo những không rập khuôn mà mượn văn chương để nói lên
cái đạo của mình, qua văn chương thể hiện sự bất bình của bản thân, của người dân
trước hiện thực của xã hội phong kiến Trung Quốc.
♦ Tóm lại: Tinh thần bất bình với thực tại trong lý luận và sáng tác của Tư Mã
Thiên, Bạch Cư Dị, Hàn Dũ, Âu Dương Tu đã tạo nên một tư tưởng tiến bộ trong
sáng tác của các tác giả văn học cổ điển Trung Quốc. Từ nổi đau của bản thân, từ

việc bất đắc chí với thực tại xã hội phong kiến mà hiện thực xã hội phong kiến


được phản ánh rõ nét qua những sáng tác của các tác giả. Xuyên suốt từ Tư Mã
Thiên đến Hàn Dũ, Âu Dương Tu, mổi tác giá đều cho ra đời những tác phẩm xuất
sắc phản ánh hiện thực đương thời của xã hội phong kiến.Từ quan niệm phãn uất
mà Tư Mã Thiên đã cho ra đời bộ Sử ký Tư Mã Thiên phản ánh nét chân thực đời
sống phức tạp của các triều đại phong kiến thời nhà Hán, Bạch Cư Dị được xem là
nhà thơ hiện thực vĩ đại đời Đường, Hàn Dũ, Âu Dương Tu đều có những tác phẩm
xuất sắc lưu truyền cho hậu thế. Từ quan niệm “ phẫn uất phát trứ thư” mà những
hiện thực đời sống được phản ánh rõ nét, nổi thống khổ của người dân được tâm sự
giãi bày. Đây chính là một nét mới của văn học cổ điển Trung Quốc có nhiều điểm
tương đồng với chủ nghĩ hiện thực phê phán trong nền văn học hiện thực phê phán
trong văn học hiện đại sau này.
Đặng Công Đoãn, Lớp Văn Học Việt Nam K17, Trường Đại Học Cần Thơ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đoàn Lê Giang, Tưởng lý luận văn học cổ Trung Quốc- Thành phố
Hồ Chí Minh 2003.
2.
Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh ( Biên dịch), Văn học sử Trung
Quốc- NXB Phụ Nữ- 2000.
3.
I.S. Liswich (1993), Tư tưởng văn học Trung quốc cổ xưa, Trần
Đình Sử dịch, Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh xuất bản.
4.
Lương Duy Thứ, Bài giảng văn học Trung Quốc, Tủ sách Đại học
Tổng hợp TP Hồ Chí Minh- 1995.
5.


Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Trung Quốc- NXB Giáo dục-1997.



×