1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN XUÂN AN VIỆT
THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRÊN BÁO IN Ở VIỆT NAM
(Khảo sát trên báo Nhân dân, Tuổi trẻ, Thanh niên, Giáo dục và Thời đại
từ 2005 đến 2010)
LUẬN ÁN TIẾN SỸ BÁO CHÍ HỌC
HÀ NỘI - 2019
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN XUÂN AN VIỆT
THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRÊN BÁO IN Ở VIỆT NAM
(Khảo sát trên báo Nhân dân, Tuổi trẻ, Thanh niên, Giáo dục và Thời đại
từ 2005 đến 2010)
Ngành:
Báo chí học
Mã số:
9 32 01 01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ BÁO CHÍ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Tuấn Phong
TS. Lưu Hồng Minh
HÀ NỘI - 2019
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan trên đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Phong và Tiến sĩ Lưu Hồng Minh.
Các số liệu, kết luận và các kết quả nghiên cứu nêu trong luận án trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng, chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu
khoa học nào.
Luận án sử dụng, kế thừa và phát triển một số tư liệu, số liệu, kết quả
nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài liệu… liên quan đến nội dung đề tài
nghiên cứu và được chú giải đầy đủ.
Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận án
Nguyễn Xuân An Việt
4
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo khoa Báo chí,
khoa Phát thanh- truyền hình, Học viện Báo chí Tuyên truyền đã truyền tải tri
thức, tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi trong suốt quá trình học tập cũng như hoàn
thành luận án. Đồng thời, tôi xin cảm ơn các nhà quản lý, lãnh đạo, các phóng
viên các cơ quan báo chí đã chuyển tải những thông tin quý báo giúp tôi có cơ
sở tin cậy để hoàn thành luận án.
Tác giả xin đặc biệt cảm ơn TS. Nguyễn Tuấn Phong và TS. Lưu Hồng
Minh - đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện luận
án này.
Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, song luận án không tránh khỏi những
khiếm khuyết. Tác giả mong sẽ tiếp tục nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các
thầy cô để luận án được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn
Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2018
Tác giả luận án
Nguyễn Xuân An Việt
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ĐT
: Đào tạo
GD
: Giáo dục
GDĐT
: Giáo dục và đào tạo
GDTĐ
: Giáo dục và Thời đại
KHKT
: Khoa học kỹ thuật
NCS
: Nghiên cứu sinh
TT
: Thông tin
TTĐC
: Truyền thông đại chúng
6
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH
7
MỤC LỤC
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ, nền tảng phát triển của mỗi quốc
gia. Vì vậy, ngay từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Do đó, Đảng
và Nhà nước ta xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của
cách mạng Việt Nam. Bắt đầu từ của Đại hội lần thứ IV (1976) Đảng ta đã ra
Quyết định số 14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng, trong đó có những
nội dung cơ bản là: Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư
tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng
thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện phù hợp với
yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng cộng sản Việt
Nam. Cụ thể Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định, phát triển giáo dục
và đào tạo cùng với khoa học công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu,
do vậy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X tiếp tục khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển
giáo dục và đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan
trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục
ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ
người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu, kết quả, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giáo dục đã bộc lộ những yếu kém, bất cập, trong
đó có những vấn đề gây bức xúc xã hội kéo dài, chưa đáp ứng được yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Chính sách về
9
GDĐT trong thời gian qua thiếu đồng bộ, còn chắp vá; nhiều cơ chế, giải pháp
về giáo dục đã từng có hiệu quả, nay trở nên không còn phù hợp với giai đoạn
phát triển mới của đất nước, cần được điều chỉnh, bổ sung.
Nghị quyết Số: 29-NQ/TW ban hành ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế" được hội nghị trung ương 8 (khóa XI) thông qua. Nghị quyết đã nêu
được những thành tựu quan trọng của Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các
chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dụcđào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào
tạo nước ta, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể
là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ
mầm non đến đại học. Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm
2010… Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu
cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Quản lý giáo dục và đào tạo
còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất
lượng, số lượng và cơ cấu… Do đó, Nghị quyết đã đưa ra quan điểm chỉ đạo:
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính
sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc
tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả
các bậc học, ngành học.”
Do vậy, giai đoạn trước năm 2010 là năm “trước thềm” đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục nước nhà, cho nên cần có những nghiên cứu, khảo sát
toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền trên báo chí làm cơ sở tham mưu cho
các nhà quản lý xây dựng và hoạch định chính sách mới.
10
Với ý nghĩa như vậy, lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng được báo giới
trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm thông tin, tuyên truyền. Báo chí đã đóng
một vai trò quan trọng đối với sự phát triển và đổi mới của giáo dục trong những
năm qua. Báo chí đã thể hiện tích cực trong việc tuyên truyền các chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục, các quyết sách, chỉ đạo
của ngành giáo dục; thông tin các vấn đề liên quan đến giáo dục; đồng thời còn
thể hiện là một diễn đàn quan trọng của giáo viên, các nhà khoa học, các nhà
quản lý bàn về lĩnh vực giáo dục và đào tạo; là kênh thông tin của hàng triệu học
sinh, sinh viên, giáo viên và các tầng lớp nhân dân trên cả nước; góp phần phát
triển nền giáo dục nước nhà.
Có thể nói, những năm qua báo chí đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đến các quyết sách và thực hiện những đổi mới
tích cực của ngành giáo dục, với hàng loạt những vấn đề tiêu biểu như: Cuộc
vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục”, đổi mới thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và Tuyển sinh đại học, đổi mới
phương pháp giảng dạy của giáo viên các cấp…
Vấn đề giáo dục đã luôn được báo chí quan tâm, bám sát và thông tin kịp
thời, hầu hết các tờ báo lớn đều dành thời lượng đáng kể phản ánh về giáo dục
trong mỗi số báo, trang báo, chuyên mục. Trong đó, nội dung được phản ánh đa
dạng, nhiều mảng khác nhau của giáo dục từ mầm non đến đại học và sau đại học,
các vấn đề quản lý giáo dục… Vai trò và hiệu quả tác động của thông tin về giáo
dục và đào tạo trên báo chí nói chung và báo in nói riêng những năm qua đã được
khẳng định, một lĩnh vực có vị trí hết sức quan trọng được Đảng, Nhà nước ta xác
định là quốc sách hàng đầu. Vì vậy, đòi hỏi thông tin về giáo dục và đào tạo trên
báo chí ngày càng phải được thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần làm cho
lĩnh vực giáo dục phát triển, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một công việc hết sức trọng đại.
Chính bởi vậy, TT về GDĐT là một trong những đề tài thu hút nhiều sự quan
tâm của công chúng và cũng đã gây ra nhiều tranh cãi trong suốt những năm gần
đây. Do đó không ít các tờ báo đã khai thác, tìm hiểu, đăng tải thông tin khá kỹ
lưỡng về nội dung này, cung cấp cho độc giả mọi thông tin về từng bước phát
11
triển, thực hiện đổi mới giáo dục. Các báo đã góp phần tuyên truyền, quán triệt
sâu rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các định hướng và
nhiệm vụ chủ yếu của ngành giáo dục; góp phần mở rộng tầm nhìn cho công
chúng, cung cấp thông tin nhằm giúp công chúng nắm được tiến trình đổi mới
giáo dục ở nước ta; thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự
tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc phát
triển giáo dục. Nhưng bên cạnh đó, các báo vẫn còn những hạn chế nhất định
trong thông tin về GDĐT như hình thức thông tin còn kém hấp dẫn, thông tin
còn hời hợt, kém chất lượng.
Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thông tin về giáo dục và đào tạo
trên báo in ở Việt Nam” (khảo sát báo Nhân dân, Tuổi trẻ , Thanh niên, Giáo
dục và Thời đại từ năm 2005 đến 2010), đồng thời với thời điểm hoàn thành
luận án của tác giả vào năm 2017 nên tác giả đã mở rộng nghiên cứu thông tin
về giáo dục và đào tạo từ năm 2010 đến 2017 để nghiên cứu. Có thể nói, đây là
một yêu cầu bức xúc và cần thiết, nhằm phát huy được hiệu quả thông tin về lĩnh
vực giáo dục và đào tạo trên báo chí, đặc biệt là công cuộc đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo hiện nay đang được thực hiện.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận thông tin về giáo dục và
đào tạo trên báo, khảo sát thực trạng, đánh giá ưu điểm hạn chế về nội dung và hình
thức của thông tin về GDĐT trên báo in, từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị
nhằm nâng cao chất lượng thông tin về GDĐT, và đề xuất mô hình thông tin về
giáo dục và đào tạo để có thể ứng dụng trên báo in ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận án thực hiện nhiệm vụ cụ thể như sau:
-Xây dựng hệ thống lí luận và thực tế làm cơ sở triển khai đề tài. Hệ thống
hoá những vấn đề lý luận thông tin về GDĐT trên báo in ở Việt Nam. Cụ thể:
làm rõ các khái niệm liên quan; khẳng định vai trò và đặc điểm của thông tin về
12
GDDT trên báo in; chỉ ra mô hình thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in;
đưa ra những yêu cầu khi thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí.
- Khảo sát, đánh giá thực trạngTT về GDĐT trên báo in, về tần suất, nội
dung, hình thức và phương thức thông tin.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin về GDĐT trên
báo in. Luận án chỉ ra những nhận định về chất lượng thông tin về giáo dục và
đào tạo trên báo in ở Việt Nam hiện nay.
-Nêu những vấn đề đặt ra và giải pháp, khuyến nghị, đồng thời đề xuất
mô hình thông tin về giáo dục và đào tạo để có thể ứng dụng trên báo in ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in
3.2. Phạm vi khảo sát
Luận án khảo sát thông tin về giáo dục và đào tạo trên các báo: Nhân
Dân, Giáo dục và Thời đại, Tuổi trẻ và Thanh niên.
Tác giả lựa chọn các báo trên khảo sát vì:
- Báo Nhân Dân: cơ quan Trung ương của ĐCS Việt Nam, tiếng nói của
Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đại diện cho tờ báo tuyên truyền, phản
ánh và thông tin các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước nói chung, trong đó có các chủ trương, chính sách, pháp luật về giáo dục
- Báo Giáo dục và Thời đại: là tiếng nói của ngành Giáo dục, thực hiện
chức năng phục vụ công tác điều hành quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thanh niên là tờ báo của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, có chuyên
trang giáo dục và có ảnh hưởng mạnh trong xã hội với số lượng phát hành báo
hơn 300.000 bản/ngày, có thời điểm lên đến 400.000 bản/ngày.
- Tuổi trẻ là tờ báo của Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh. Báo có chuyên
trang giáo dục riêng và cũng là một trong những tờ báo có ảnh hưởng với xã hội,
đặc biệt là công chúng phía Nam với số lượng phát hành 400.000 bản/ngày
Tổng hợp các tin bài phản ánh trên 4 tờ báo trên, ngành Giáo dục cơ bản
có thể tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề về thông tin giáo dục và đào tạo đang
13
cần có thêm ý kiến của dư luận xã hội. Tất nhiên, trước những vấn đề đổi mới
mạnh mẽ, vấn đề nhạy cảm của giáo dục, cơ quan quản lý giáo dục các cấp
không chỉ dựa vào 4 tờ báo trên để nắm thông tin, mà còn phải lắng nghe ý kiến
từ công chúng, từ nhiều loại hình báo chí khác.
Phạm vi nghiên cứu đề tài là thông tin về GDĐT trên loại hình báo in.
Thời gian khảo sát: từ tháng 01/ 2005 đến tháng 12/ 2010 (Thông tin mở
rộng đến năm 2017)
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở nhận thức luận các vấn đề lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam về báo chí và giáo dục và đào tạo cũng
như các ngành khoa học liên quan.
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở các lý thuyết như:
-Lý thuyết truyền thông
Một số lý thuyết truyền thông: lý thuyết xâm nhập xã hội; lý thuyết xét
đoán xã hội; lý thuyết học tập; lý thuyết truyền bá cái mới; lý thuyết thuyết
phục; lý thuyết truyền thông điệp cho đối tượng; lý thuyết sử dụng; lý thuyết
sử dụng và hài lòng...
Trong môi trường thông tin, lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” coi việc có
đáp ứng được nhu cầu của công chúng hay không là tiêu chuẩn cơ bản để đánh
giá hiệu quả truyền thông, giác độ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Thứ nhất, hành vi tiếp xúc với truyền thông của công chúng là hoạt động
lựa chọn những nội dung trên phương tiện truyền thông dựa trên nhu cầu của
công chúng, sự lựa chọn này có “tính linh hoạt” nhất định, điều này có lợi cho
việc điều chỉnh quan điểm “công chúng hoàn toàn bị động” thành công chúng là
người hoàn toàn chủ động tiếp nhận thông tin trong môi trường truyền thông
hiện đại.
Thứ hai, lý thuyết này nhấn mạnh tính đa dạng trong cách thức sử dụng
phương tiện truyền thông của công chúng, đồng thời chỉ rõ vai trò chi phối của
nhu cầu công chúng đối với hiệu quả truyền thông.
14
Thứ ba, lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” chỉ ra rằng, truyền thông đại
chúng có hiệu quả cơ bản đối với công chúng, đây cũng là một sự bổ trợ có ích
cho “lý thuyết hiệu quả truyền thông hữu hạn” mà thập kỷ 1940 - 1960 nhấn
mạnh quá nhiều về tính phi hiệu quả của truyền thông đại chúng. Xét từ giác độ
này, một số học giả coi nó là lý thuyết “hiệu quả thích hợp”. Tuy nhiên, lý thuyết
“Sử dụng và hài lòng” cũng có những bất cập của nó, bởi nó nhấn mạnh quá
nhiều về nhân tố cá nhân và tâm lý, mang đậm màu sắc chủ nghĩa hành vi. Mặt
khác, lý thuyết này chỉ khảo sát đơn thuần hành vi tiếp xúc với phương tiện
truyền thông của công chúng, do đó không thể chỉ ra một cách toàn diện mối
quan hệ xã hội giữa công chúng và truyền thông. Tuy nhiên, nhà phê bình người
Anh D.Morley cho rằng, hoạt động sản xuất thông tin của cơ quan truyền thông là
một quá trình mã hóa, quá trình này bị chi phối bởi lợi ích và hình thái ý thức của
cơ quan truyền thông. Trong khi hành vi tiếp xúc với phương tiện truyền thông của
công chúng lại là một quá trình giải mã ký hiệu, quá trình bị chi phối bởi bối cảnh
xã hội, văn hóa và hình thái ý thức của công chúng, giữa hai quá trình này chắc
chắn tồn tại mối quan hệ phức tạp mâu thuẫn, xung đột hoặc thỏa hiệp
Trong môi trường thông tin, lý thuyết “sử dụng và hài lòng” đóng vai trò
quan trọng, có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn về công chúng hiện đại, từ đó giúp
các cơ quan báo chí thay đổi các phương thức tác nghiệp, cung cấp cho xã hội
những sản phẩm báo chí truyền thông phù hợp với thời đại.
Bản chất xã hội của truyền thông quá trình giao tiếp xã hội, quá trình liên
kết xã hội và quá trình can thiệp xã hội. Nói cách khác, đó là quá trình biện
chứng. Con người sau khi được truyền thông xã hội hóa có thể trở nên văn minh
hơn và khi con người, xã hội càng phát triển thì nhu cầu, năng lực và khả năng
đáp ứng của truyền thông càng cao [ 37; tr.120]
Quá trình truyền thông là sự truyền đi của các thông điệp (ý nghĩ, thông
tin, tư tưởng, ý tưởng, ý kiến, kiến thức...) từ một người hay một nhóm người
đến người khác hay một nhóm người khác bằng lời nói, hình ảnh, văn bản hoặc
các tín hiệu khác. Chính vì vậy, truyền thông liên quan đến việc làm thế nào để
liên kết các yếu tố như người nhận, người gửi, cách mã hóa và cách giải mã, các
15
kênh và các phương tiện truyền thông nhằm đảm bảo cho tính chính xác và hiệu
quả của quá trình truyền thông.
- Lý thuyết xã hội học truyền thông đại chúng
Dưới góc độ của xã hội học thì truyền thông đại chúng được coi như là
một quá trình xã hội. Đó là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi ra
công chúng trong xã hội thông qua các PTTTĐC như báo in, phát thanh, truyền
hình, báo mạng điện tử.
Nhà xã hội học Max Weber đã chỉ rõ tác động của truyền thông đại chúng.
Theo ông, truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội do nó có sự liên kết
bởi nhiều yếu tố như: nguồn tin, thông điệp và người nhận và chúng có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau. [ 59 ]
Một số tác giả khác cho rằng truyền thông đại chúng là một quá trình xã
hội, đó là quá trình truyền tải thông tin ra công chúng thông qua các phương tiện
truyền thông, được liên kết chặt chẽ bởi các yếu tố: nguồn tin, thông điệp và
người nhận. Thiếu một trong ba yếu tố này, hiệu ứng xã hội sẽ không xảy ra khi
các kênh truyền thông đại chúng truyền thông điệp mà không có người
nhận[71]; [72]
Cũng theo các tác giả, truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc
thù bao gồm ba thành tố sau đây: 1) Hoạt động truyền thông (săn tin, quay phim,
chụp ảnh, viết bài, biên tập và cuối cùng là xuất bản, hoặc phát sóng), 2) Các
nhà truyền thông (bao gồm các tổ chức truyền thông như báo chí, đài phát thanh,
đài truyền hình... và những người làm công tác truyền thông như nhà báo, phóng
viên, biên tập viên, phát thanh viên...), 3) Và đại chúng (các tầng lớp công chúng
rộng rãi).
Chẳng hạn, khi chúng ta mở máy tính, máy tính bảng, điện thoại di động
xem tin tức trên một tờ báo thì hành vi đó đã nằm trong quá trình truyền thông
đại chúng. Thế nhưng nếu chúng ta cũng mở những loại phương tiện trên nhưng
lại để xem một tập ảnh chụp chung với gia đình hay bạn bè, thì hành động này
lại không được coi là nằm trong quá trình truyền thông đại chúng, bởi một lẽ
đơn giản là tập dữ liệu này được chụp và truyền phát trong khuôn khổ cá nhân
mà thôi.
16
Nói cách khác, điểm then chốt trong việc xác định xem một hành vi có
nằm trong quá trình truyền thông đại chúng hay không không phải là cái màn
hình điện thoại di động hay máy tính, máy tính bảng mà là cần xem xét coi hành
vi ấy có nằm trong quá trình truyền tải thông tin ra rộng rãi công chúng thông
qua các PTTTĐC hay không.
Trong một số hướng nghiên cứu của xã hội học có hướng nghiên cứu về
các nhà tuyên truyền với vai trò là một nhóm xã hội- nghề nghiệp trong cơ cấu
xã hội. Do đó, tác giả tìm hiểu các vấn đề nghiên cứu về báo chí được tiếp cận,
xem xét như thế nào từ góc độ xã hội học, làm cơ sở cho việc đánh giá cụ thể về
cách thức hoạt động của nhà truyền thông.
- Lý thuyết báo chí học
Theo Siebert trong cuốn sách về Bốn lý thuyết về báo chí, báo chí mang
hình thức và màu sắc của các cấu trúc xã hội và chính trị trong đó nó hoạt động.
Báo chí và các phương tiện truyền thông khác, trong quan điểm của họ, sẽ phản
ánh “niềm tin căn bản và giả định rằng xã hội nắm giữ”. Để nhìn nhận sự khác
biệt của hệ thống báo chí giữa các nước một cách toàn diện nhất, phải nhìn vào
hệ thống xã hội mà chúng đang hoạt động. Để xem xét hệ thống xã hội trong
mối quan hệ với báo chí, phải xem xét những niềm tin và quan niệm cơ bản của
xã hội đó: đặc tính của con người, xã hội, đất nước, mối quan hệ giữa con người
và đất nước đó, của tri thức và sự thật.
Báo chí biểu hiện vai trò trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vực như:
Chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội.
Chức năng của báo chí: Thông tin, tư tưởng, khai sáng, giải trí quản lý,
giám sát và phản biện xã hội, kinh tế, dịch vụ.
- Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự
Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” (Agenda setting) do hai chuyên
gia truyền thông Maxwell McCombs và D.Shaw (Mỹ) đưa ra. Lý thuyết này mô
tả khả năng ảnh hưởng của giới truyền thông đối với công chúng thông qua các
phương tiện truyền thông. Trong xã hội, nếu một tin tức nào đó được nhắc tới
thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ nhớ tới và coi nó quan trọng
17
hơn những thông tin khác. Do vậy, chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” là
một giả thiết quan trọng trong các lý thuyết truyền thông. Điểm nổi bật của lý
thuyết này là truyền thông đại chúng có một chức năng sắp đặt “chương trình
nghị sự” cho công chúng, các bản tin và hoạt động đưa tin của cơ quan báo chí
truyền thông ảnh hưởng đến sự phán đoán của công chúng tới những “chuyện
đại sự” của thế giới xung quanh và tầm quan trọng của chúng bằng cách làm cho
các “chương trình” nét nổi bậtkhác nhau, từ đó có thể tác động và tạo ra sự dẫn
đường trong tương lai.Lý thuyết cho rằng Truyền thông đại chúng (trong đó có
báo chí) có chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho công chúng. Lý thuyết
còn chỉ ra rằng, việc đưa tin về thế giới bên ngoài của cơ quan truyền thông là
lựa chọn có mục đích.
Theo McCombs & Shaw’s study (1972), cho rằng các cơ quan báo chí
truyền thông (dựa vào giá trị quan và mục đích tôn chỉ, đồng thời căn cứ vào
môi trường thực tế để) “lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng
để cung cấp cho công chúng, chứ không phải cung cấp những thông tin mà công
chúng cần. McCombs (1994) gần đây cho rằng hiệu ứng của thuyết này rất mạnh
khi công chúngkhông biết hay không có kinh nghiệm trực tiếp về vấn đề, khi họ
phụ thuộc nhiều hơn vào các phương tiện truyền thông để hiểu tình hình.
Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” không đánh giá hiệu quả truyền
thông trong thời gian ngắn của một hãng truyền thông nào đó đối với một sự
kiện cụ thể, mà đánh giá về hiệu quả xã hội lâu dài, tổng hợp ở tầm vĩ mô của cả
ngành truyền thông được tạo ra sau khi đưa ra hàng loạt bản tin trong một quãng
thời gian khá dài.
Các cơ quan báo chí truyền thông dựa vào giá trị quan và mục đích tôn
chỉ, đồng thời căn cứ vào môi trường thực tế để “lựa chọn” vấn đề hoặc nội
dung mà họ coi là quan trọng nhất để sản xuất và cung cấp cho công chúng
những thông tin “đúng sự thật”.
18
Thiết lập chương trình nghị sự về TT GDĐT trên báo in gồm 2 khía cạnh:
Một là, báo in là chủ thể của các TT về GDĐT. Hai là, báo in là trung gian tổ
chức thu thập và công bố TT về GDĐT. Báo in luôn chủ trì về mặt truyền thông,
“lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng để cung cấp cho công
chúng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Là phương pháp tác giả sử dụng khảo
sát các văn bản, chỉ thị, nghị quyết và các công trình khoa học, sách, báo…nhằm
mục đích tìm cơ sở cho việc xây dựng khung lý thuyết về TT về GDĐT trên báo
in; đặc điểm, vai trò TT GDĐT trên báo in; mô hình TT GDĐT trên báo in và
những yêu cầu về TT GDĐT trên báo in. Đồng thời, tác giả tìm hiểu kết quả
nghiên cứu của một số công trình khoa học có thể hữu ích cho việc đối chiếu và
tham khảo trong khuôn khổ công trình nghiên cứu này, các công trình đó có thể
làm cơ sở cho việc đánh giá các kết qua khảo sát, tìm ra các giải pháp khoa học
cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Mục tiêu của phương pháp này là thu
nhận các nhận xét, đánh giá của các nhóm công chúng khi tiếp nhận thông tin
GDĐT trên các báo trong diện khảo sát. Tìm hiểu TT về GDĐT trên báo in đã
đáp ứng nhóm công chúng ở mức độ nào. Chúng tôi đề ra một bảng câu hỏi
(anket) phát cho đối tượng tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, tổng
số phiếu là 500 phiếu, bao gồm: Hà Nội 180 phiếu, Đà Nẵng 140 phiếu, thành
phố Hồ Chí Minh 180 phiếu. Số phiếu thu về sau điều tra là 483 phiếu.
Các đối tượng cụ thể: Ở mỗi thành phố chúng tôi lựa chọn đối tượng để
phát phiếu như sau: học sinh (chọn 1 trường THPT, 1 trường THCS, mỗi trường
1 lớp), sinh viên (chọn 3 trường đại học ở 3 thành phố thuộc 3 khối A, B, C, mỗi
trường 1 lớp), giáo viên (chọn 1 số giáo viên Tiểu học, Phổ thông và đại học),
cán bộ quản lý giáo dục (Hiệu trưởng đại học, phổ thông, sở Giáo dục và Đào
tạo, Vụ trưởng Vụ chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo), người dân (phụ
huynh học sinh Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, đại học), theo
đó có các cứ liệu và cơ sở giúp tác giả thực hiện luận án.
19
Với những phiếu điều tra bằng bảng hỏi (anket), chúng tôi sử dụng phần
mềm xử lý số liệu định lượng SPSS 16.0.
- Phương pháp phỏng vấn sâu (Phỏng vấn chuyên gia): với hình thức
phỏng vấn đặt câu hỏi với 20 đến 30 người trả lời là những đối tượng: lãnh đạo
cơ quan quản lý báo chí (Tổng biên tập một tờ báo, trưởng, phó ban giáo dục
của báo): 04 mẫu; phóng viên theo dõi giáo dục (các phóng viên hiện đang theo
dõi giáo dục được các báo giới thiệu đến Bộ Giáo dục và Đào tạo): 10 mẫu;
Công chúng (Chọn trong số những người điều tra XHH, mỗi thành phố chọn 2-3
người bất kỳ, thường xuyên đọc thông tin về GDĐT hoặc liên quan đến lĩnh vực
GDĐT như giáo viên, quản lý giáo dục, học sinh, sinh viên…): 08 mẫu. Từ đó,
tập hợp các cứ liệu thực tế phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Với phương pháp phỏng vấn sâu, chúng tôi sử dụng phần mềm xử lý dữ
liệu định tính Nvivo 8.0.
- Phương pháp quan sát: tiến hành khi thực hiện phỏng vấn sâu, điều tra
xã hội học và tiến hành các nghiên cứu. Mục đích để xem xét hoạt động của các
cơ quan báo in, hoạt động tiếp nhận thông tin GDĐT của công chúng; các biểu
hiện về nhận thức, thái độ, hành vi của công chúng và những người xây dựng
các sản phẩm báo chí liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Kết quả quan sát sẽ là cơ
sở để thực hiện nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp phân tích nội dung văn bản
- Mô tả về phương pháp: Phân tích nội dung văn bản là phương pháp phân
tích tài liệu bài viết (có thể dưới dạng in ấn hoặc nghe nhìn) nhằm lượng hoá nội
dung một cách có hệ thống, có thể nhân rộng dựa trên các tiêu chuẩn đã được
xác định. Phân tích nội dung được đề cập ở đây (phân tích nội dung định lượng)
khác với hai phương pháp phân tích nội dung thông tin khác đó là (1) Ký hiệu
học – một phương pháp phân tích văn bản và các hiệu tượng khác nhấn mạnh
việc tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của các hiện tượng này; (2) Phân tích nội dung
mang tính dân tộc học, phương pháp tiếp cận văn bản theo hướng nhận mạnh vai
trò của người điều tra trong việc xây dựng ý nghĩa của bài viết và trong toàn bộ
quá trình phân tích nó. Phương pháp này được xem là phương pháp phân tích
định tính trong đó yếu tố ngữ cảnh đóng vai trò quan trọng trong việc phân loại
số liệu và xây dựng các ý nghĩa.
20
Bước tiếp theo của phần phân tích định lượng là phải quyết định xem cần
xem xét những gì. Tất nhiên, việc quyết định phải xem xét cái gì trong quá trình
phân tích nội dung bị ảnh hưởng các câu hỏi nghiên cứu. Các vấn đề chung
thường được tính đến khi phân tích là: (1) Các nhân vật quan trọng (Ai viết, ai là
tiêu điểm- đặc điểm nổi bật nhất về họ là gì, ai có những ý kiến khác. Trong ngữ
cảnh đưa tin của phương tiện truyền thông đại chúng, các nhận vật chủ yếu trong
các tin bài và đặc điểm của họ là những yếu tố quan trọng để mã hoá; (2) Từ
ngữ- việc đếm tần số xuất hiện của một số từ đôi khi được thực hiện trong phân
tích nội dung có thể mang lại một số ý nghĩa nào đó vì nó có thể chỉ ra xu hướng
giật gân hoá một số sự kiện; (3) Chủ đề và ý nghĩa – đó là việc phân loại các
hiện tượng và các hiện tượng được quan tâm. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu không
chỉ phân loại dựa vào nội dung hiển nhiên mà còn cả những nội dung ẩn ý. Cần
dò tìm dưới bề mặt để đặt câuhoir sâu hơn về những sự việc đang diễn ra; (4)
Khuynh hướng cũng là vấn đề mà các nhà nghiên cứu quan tâm tìm kiếm khi
phân tích nội dung. Đó là sự thay đổi, mối quan tâm, niềm tin hay các nguyên
tắc.
Mã hoá là bước trung tâm và đặc biệt nhất của phân tích nội dung. Có 2
yếu tố chính trong bước này là thiết một một bảng mã và thiết kế một sổ tay mã
hoá. Bảng mã là một biểu/ bảng mẫu trong đó có tất cả các số liệu kiên quan tới
một vấn đề được mã hoá được điền vào. Bảng này được đơn giản hoá để hỗ trợ
các tranh luận về các nguyên tắc mã hoá trong phân tích nội dung và nguyên tắc
xây dựng bảng mã nói riêng. Mỗi cột trong bảng mã sẽ là một khía cạnh được
mã hoá. Đầu đề của các cột sẽ là các khía cạnh được mã hoá, các cột sẽ được
đánh số. Mỗi mẫu sẽ dùng cho một bài được mã hoá. Các mã số sau đó có thể
được chuyển thành một tệp sữ liệu máy tính cho việc phân tích bằng phần mềm
SPSS. Để giúp điềm thông tin đúng và thống nhất vào bảng mã này, cần có sổ
tay mã hoá. Sổ tay mã hoá là các hướng dẫn chi tiết cho người thực hiện mã hoá.
Trong luận án này, tất cả các bài viết về Giáo dục đào tạo được xem xét
kỹ lưỡng trên 4 tờ báo in Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Nhân Dân, Giáo dục và Thời đại
trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2010.
- Mẫu nghiên cứu bao gồm các thông tin về các tờ báo được lựa chọn để
phân tích, hình thức đăng tải, chuyên mục đăng tải, nguồn và thời gian đăng tải.
21
Các thông tin này giúp người nghiên cứu có một cái nhìn tổng thể về mẫu
nghiên cứu.
- Cách thức chọn mẫu: Tất cả các bài báo liên quan, đề cập đến GDĐT
trong khoảng thời gian nghiên cứu đều được sưu tầm. Với phương pháp lẫy
mẫu ngẫu nhiên hệ thống từ 26875 tin, bài về GDĐT trong 5 năm, tác giả lựa
chọn 720 tin, bài để phân tích (Mỗi báo chọn 180 tin, bài). Trong trường hợp
những bài viết trùng nhau được đăng tải trên nhiều báo sẽ lựa chọn ngẫu nhiên
một bài bất kỳ, không lấy tất cả các bài báo trùng nhau hoàn toàn trong mẫu
nghiên cứu. Trong trường hợp giống nhau nội dung hay tiêu đề nhưng có sự
khác biệt về cách phân tích hoặc thể hiện trong bài báo thì đều được chọn trong
mẫu nghiên cứu.
Thông tin thu thập từ các bảng mã viết về Giáo dục và đào tạo trên 4 báo
được mã hoá, nhập và xử lý bằng chương trình SPSS 16.0. Sau khi làm sạch số
liệu sẽ tiến hành biến đổi các số liệu để phục vụ cho việc lượng hoá các nhóm
vấn đề có liên quan đến GDĐT và đánh giá các bài viết về GDĐT
- Phương pháp phân tích diễn ngôn: Diễn ngôn là cách nói năng, phương
thức biểu đạt của con người, thế giới về các sự việc trong đời sống. Do đó,
nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu ngôn ngữ. Nhưng diễn ngôn không phải là
hình thức mà là tư tưởng- tư tưởng trong dạng thức thực tiễn, trên kênh truyền
thông đại chúng.
Theo Sara Mills trong Discourse, có thể thấy ba cách định nghĩa khác
nhau về diễn ngôn trong các trước tác của Foucault. Thứ nhất, diễn ngôn được
coi là tất cả các nhận định nói chung, đó là tất cả các phát ngôn hoặc văn bản có
nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong thế giới thực. Thứ hai, diễn ngôn là một
nhóm các diễn ngôn cụ thể, được qui ước theo một cách thức nào đó và có một
mạch lạc hoặc một hiệu lực nói chung, “được nhóm lại với nhau bởi một áp lực
mang tính thiết chế nào đó, bởi sự tương tự giữa xuất xứ và bối cảnh hay bởi
chúng cùng hành động theo một cách gần giống nhau”. Ví dụ, diễn ngôn nữ giới
là một nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là nhằm phản kháng lại diễn
ngôn về phụ nữ của đàn ông, diễn ngôn chủ nghĩa đế quốc là nhóm các diễn
ngôn có chung một hiệu lực là áp đặt quyền lực thực dân lên những xứ sở thuộc
22
địa… Thứ ba, diễn ngôn là một thực tiễn sản sinh ra vô số các nhận định và chi
phối việc vận hành của chúng. Diễn ngôn không chỉ được coi như “một cái gì
tồn tại cố hữu, tự thân và có thể được phân tích một cách cô lập, là những qui tắc
và cấu trúc nhằm tạo ra những phát ngôn và những văn bản cụ thể. Đó là một hệ
thống của “những tư tưởng, quan điểm, khái niệm, cách thức tư duy và hành xử,
những cái được hình thành trong một bối cảnh xã hội cụ thể”, có một hiệu lực
chung đối với cách suy nghĩ và nói năng của mỗi nhóm người cũng như mỗi cá
nhân.
Thông qua phương pháp phân tích diễn ngôn, luận án làm sáng tỏ những vấn
đề của thời đại thông qua thông tin GDĐT, làm rõ hơn góc nhìn quyền lực truyền
thông thông qua vấn đề được đề cập; làm sáng tỏ chủ thể thể hiện thông điệp về
GDĐT, đó là những thông tin mà nhà hoạch định chính sách kỳ vọng, hay những
thông tin phản biện từ vấn đề bất cập của thực tiễn triển khai chính sách.
- Ngoài ra luận án còn sử dụng một số phương pháp khác như: Phương
pháp so sánh; Phương pháp tổng hợp...
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu gồm:
- Thông tin về GDDT là gì và vai trò của thông tin về GDDT trên báo in?
- Mô hình thông tin về GDDT trên báo in như thế nào và có vai trò gì?
- Các yêu cầu cụ thể đối với việc thông tin về GDĐT là gì?
- Báo in cần phải làm gì và làm như thế nào đểthông tin về GDDT có hiệu
quả?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết thứ nhất: Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, giáo dục
đào tạo luôn được Đảng, Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu và đang có sự đổi
mới quyết liệt trong nhiều năm qua. Việc triển khai đổi mới một lĩnh vực liên quan
đến mọi người, mọi gia đình và thực hiện không chỉ ngành giáo dục mà cả hệ
thống, toàn xã hội. Vì vậy, định hướng đúng đắn các chủ trương đổi mới về giáo
dục, góp ý, phản biện những hạn chế trong quản lý, cách dạy, cách học…là hết sức
23
quan trọng của các cơ quan báo chí, trong đó có báo in. Do đó, nâng cao chất lượng
thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in là hết sức cần thiết.
- Giả thuyết thứ hai: Thông tin về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện
nay, còn có những hạn chế: đưa số lượng tin bài tiêu cực, giật gân nhiều; số
lượng tin, bài phản ánh tích cực, gương tập thể, cá nhân tốt trong ngành ít. Việc
khảo sát, phân tích một cách khoa học thực trạng để chỉ ra được những mặt tích
cực và hạn chế, cơ hội, thách thức cho báo in thực hiện tốt thông tin về giáo dục
và đào tạo.
- Giả thuyết thứ ba: Thông tin về giáo dục và đào tạo của báo in góp phần
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo sự đồng thuận trong
việc thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo
dục, đặc biệt là thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo trong
giai đoạn hiện nay.
- Giả thuyết thứ tư: Cách thông tin về giáo dục đào tạo hiện nay còn hạn
chế về mặt tương tác, tư duy nhận thức của mỗi tờ báo chưa tương xứng với vị
trí giáo dục và đào tạo được chỉ đạo qua các chủ trương, chính sách, Nghị quyết
của Đảng, Nhà nước, kiến thức hiểu biết giáo dục của phóng viên được phân
công theo dõi còn hạn chế, công tác truyền thông của ngành Giáo dục còn yếu.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thông tin về giáo dục và
đào tạo, báo chí nói chung, báo in nói riêng và vai trò của thông tin về giáo dục
và đào tạo trên báo in; những yêu cầu cần có đối với thông tin về giáo dục và
đào tạo trên báo in…Khung lý thuyết cộng với cơ sở thực tiễn làm nền tảng cho
việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề liên quan đến công tác thực hiện ở mảng
đề tài thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in.
- Luận án chỉ ra được thực trạng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo
in hiện nay, về thế mạnh, điểm tích cực, hạn chế để từ đó có nhận định khái quát
về thực trạng thông tin lĩnh vực này. Luận án khẳng định vai trò của thông tin về
giáo dục và đào tạo trênbáo in.
- Luận án nêu những vấn đề đặt ra của thông tin về giáo dục và đào tạo
trên báo in trong bối cảnh sự phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng
24
thời khuyến nghị những giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về giáo dục và
đào tạo trên báo in hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn củaluận án
7.1. Ý nghĩa lý luận
Hiện nay, việc tìm hiểu TT về GDĐT trên báo chí nói chung và báo in nói
riêng chưa được quan tâm đúng mức vì nhiều lý do khác nhau. Việc tìm hiểu
thông điệp về GDĐT chưa được thực hiện nhiều và còn nhiều bất cập. Luận án
này xác định những ưu điểm và hạn chế cụ thể của TT về GDĐT trên báo in .
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên hệ thống một cách tổng quát,
chuyên sâu, cập nhật về yêu cầu nâng cao chất lượng, vai trò của thông tin về
giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam hiện nay.
Các cơ quan báo in trước đây thường sản xuất các tác phẩm theo cách
truyền thống, thiếu sự sinh động, tương tác, nay cần lưu ý đến sự cạnh tranh đối
với các loại hình báo chí mới. Công chúng sẽ lựa chọn tiếp nhận dòng thông tin
gì và bằng các phương tiện nào.
Luận án là đề tài hết sức cần thiết để bổ sung cho các nguồn số liệu còn
thiếu của các đề tài nghiên cứu trước đây; là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích
cho công tác giảng dạy báo chí trong nhà trường; làm tài liệu tham khảo cho
sinh viên báo chí; gợi mở hướng nghiên cứu để tiếp tục phát triển và nâng cao
chất lượng báo chí nói chung và báo chí innói riêng.
7.2. Giá trị thực tiễn
Luận án sẽ cung cấp cho các cơ quan báo chí nói chung và cơ quan báo in
nói riêng ở nước ta có những cơ sở khoa học đáng tin cậy để đánh giá đúng về
TT GDĐT hiện nay, và là cơ sở để nâng cao chất lượng các tác phẩm báo chí, từ
đó tạo ra hướng đi mới cho cơ quan báo in phát triển mạnh mẽ.
Luận án góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các cơ quan báo chí với
các tác phẩm báo chí của chính họ. Để có được sự phát triển tốt phù hợp với báo
chí hiện đại, các cơ quan báo in cần tìm hiểu và ứng dụng các thành tựu khoa
học kỹ thuật mới cũng như cách viết tác phẩm báo chí mới. Ứng dụng các thành
tựu KHKT trong cơ quan báo chí có hiệu quả không chỉ là vấn đề của riêng báo
chí nước ta mà còn là của báo chí quốc gia và báo chí thế giới.
25
Tìm hiểu TT về GDĐT như phân tích để làm rõ thực trạng, chỉ ra đặc
điểm, những ưu điểm và hạn chế thông tin về giáo dục và đào tạo, đồng thời đề
xuất, khuyến nghị, giải pháp của luận án sẽ giúp cho các cơ quan báo chí có cơ
sở để sản xuất các sản phẩm báo chí hấp dẫn, thiết thực; cơ sở để nâng cao
cáctác phẩm báo chí và nâng cao chất lượng đội ngũ người làm báo. Từng bước
góp phần giúp báo in phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan vấn đề nghiên cứu, Kết luận, Tài liệu
tham khảo và Phụ lục, Luận án gồm 3 chương 12 tiết, 15 bảng biểu.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn thông tin về giáo dục đào tạo trên
báo in.
Chương 2: Thực trạng thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in ở Việt
Nam.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra, giải pháp và khuyến nghị thông tin về
giáo dục đào tạo trên báo in ở Việt Nam hiện nay.