Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở việt nam (khảo sát trên báo nhân dân, tuổi trẻ, thanh niên, giáo dục và thời đại từ 2005 2010) tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.39 KB, 25 trang )

1

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của
công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc
xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu, kết quả, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, giáo dục đã bộc lộ những yếu kém, bất cập, trong đó có những vấn đề gây
bức xúc xã hội kéo dài, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập quốc tế. Chính sách về GDĐT trong thời gian qua thiếu đồng bộ, còn chắp vá; nhiều
cơ chế, giải pháp về giáo dục đã từng có hiệu quả, nay trở nên không còn phù hợp với giai đoạn
phát triển mới của đất nước, cần được điều chỉnh, bổ sung.
Nghị quyết Số: 29-NQ/TW ban hành ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" được hội nghị trung ương 8 (khóa XI) thông
qua. Nghị quyết đã nêu được những thành tựu quan trọng của Nghị quyết Trung ương 2 khóa
VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta, góp phần to
lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục
và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm
2010… Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo
dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu… Do đó, Nghị quyết
đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong
các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào


tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu,
nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và
việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc
học, ngành học.”


2

2

Do vậy, giai đoạn trước năm 2010 là năm “trước thềm” đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục nước nhà, cho nên cần có những nghiên cứu, khảo sát toàn diện công tác thông tin,
tuyên truyền trên báo chí làm cơ sở tham mưu cho các nhà quản lý xây dựng và hoạch định chính
sách mới.
Với ý nghĩa như vậy, lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng được báo giới trong và ngoài
nước đặc biệt quan tâm thông tin, tuyên truyền. Báo chí đã đóng một vai trò quan trọng đối với
sự phát triển và đổi mới của giáo dục trong những năm qua. Báo chí đã thể hiện tích cực trong
việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục, các
quyết sách, chỉ đạo của ngành giáo dục; thông tin các vấn đề liên quan đến giáo dục; đồng thời
còn thể hiện là một diễn đàn quan trọng của giáo viên, các nhà khoa học, các nhà quản lý bàn về
lĩnh vực giáo dục và đào tạo; là kênh thông tin của hàng triệu học sinh, sinh viên, giáo viên và
các tầng lớp nhân dân trên cả nước; góp phần phát triển nền giáo dục nước nhà.
Có thể nói, những năm qua báo chí đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến lĩnh vực giáo dục
và đào tạo, đến các quyết sách và thực hiện những đổi mới tích cực của ngành giáo dục, với hàng
loạt những vấn đề tiêu biểu như: Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục”, đổi mới thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và Tuyển sinh đại học,
đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên các cấp…
Vấn đề giáo dục đã luôn được báo chí quan tâm, bám sát và thông tin kịp thời, hầu hết các
tờ báo lớn đều dành thời lượng đáng kể phản ánh về giáo dục trong mỗi số báo, trang báo,

chuyên mục. Trong đó, nội dung được phản ánh đa dạng, nhiều mảng khác nhau của giáo dục từ
mầm non đến đại học và sau đại học, các vấn đề quản lý giáo dục… Vai trò và hiệu quả tác động
của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí nói chung và báo in nói riêng những năm qua đã
được khẳng định, một lĩnh vực có vị trí hết sức quan trọng được Đảng, Nhà nước ta xác định là
quốc sách hàng đầu. Vì vậy, đòi hỏi thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí ngày càng phải
được thực hiện một cách có hiệu quả, góp phần làm cho lĩnh vực giáo dục phát triển, đáp ứng yêu
cầu đổi mới của đất nước.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một công việc hết sức trọng đại. Chính bởi vậy, TT
về GDĐT là một trong những đề tài thu hút nhiều sự quan tâm của công chúng và cũng đã gây ra
nhiều tranh cãi trong suốt những năm gần đây. Do đó không ít các tờ báo đã khai thác, tìm hiểu,
đăng tải thông tin khá kỹ lưỡng về nội dung này, cung cấp cho độc giả mọi thông tin về từng
bước phát triển, thực hiện đổi mới giáo dục. Các báo đã góp phần tuyên truyền, quán triệt sâu
rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các định hướng và nhiệm vụ chủ yếu của
ngành giáo dục; góp phần mở rộng tầm nhìn cho công chúng, cung cấp thông tin nhằm giúp công
chúng nắm được tiến trình đổi mới giáo dục ở nước ta; thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng
thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc


3

3

phát triển giáo dục. Nhưng bên cạnh đó, các báo vẫn còn những hạn chế nhất định trong thông tin
về GDĐT như hình thức thông tin còn kém hấp dẫn, thông tin còn hời hợt, kém chất lượng.
Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt
Nam” (khảo sát báo Nhân dân, “Tuổi trẻ”, Thanh niên, Giáo dục và Thời đại từ năm 2005 đến
2010), đồng thời với thời điểm hoàn thành luận án của tác giả vào năm 2017 nên tác giả đã mở
rộng nghiên cứu thông tin về giáo dục và đào tạo từ năm 2010 đến 2017 để nghiên cứu. Có thể
nói, đây là một yêu cầu bức xúc và cần thiết, nhằm phát huy được hiệu quả thông tin về lĩnh vực
giáo dục và đào tạo trên báo chí, đặc biệt là công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào

tạo hiện nay đang được thực hiện.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề cơ sở lý luận thông tin về giáo dục và đào tạo trên
báo, khảo sát thực trạng, đánh giá ưu điểm hạn chế về nội dung và hình thức của thông tin về
GDĐT trên báo in, từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin
về GDĐT, và đề xuất mô hình thông tin về giáo dục và đào tạo để có thể ứng dụng trên báo in ở
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận án thực hiện nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Xây dựng hệ thống lí luận và thực tế làm cơ sở triển khai đề tài. Hệ thống hoá những
vấn đề lý luận thông tin về GDĐT trên báo in ở Việt Nam. Cụ thể: làm rõ các khái niệm liên
quan; khẳng định vai trò và đặc điểm của thông tin về GDDT trên báo in; chỉ ra mô hình thông
tin về giáo dục và đào tạo trên báo in; đưa ra những yêu cầu khi thông tin về giáo dục và đào tạo
trên báo chí.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng TT về GDĐT trên báo in, về tần suất, nội dung, hình thức
và phương thức thông tin.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin về GDĐT trên báo in. Luận án
chỉ ra những nhận định về chất lượng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam
hiện nay.
- Nêu những vấn đề đặt ra và giải pháp, khuyến nghị, đồng thời đề xuất mô hình thông
tin về giáo dục và đào tạo để có thể ứng dụng trên báo in ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in
3.2. Phạm vi khảo sát


4


4

Luận án khảo sát thông tin về giáo dục và đào tạo trên các báo: Nhân Dân, Giáo dục và
Thời đại, “Tuổi trẻ” và Thanh niên.
Tác giả lựa chọn các báo trên khảo sát vì:
- Báo Nhân Dân: cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếng nói của Đảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đại diện cho tờ báo tuyên truyền, phản ánh và thông tin các
chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung, trong đó có các chủ
trương, chính sách, pháp luật về giáo dục
- Báo Giáo dục và Thời đại: là tiếng nói của ngành Giáo dục, thực hiện chức năng phục vụ
công tác điều hành quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thanh niên là tờ báo của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, có chuyên trang giáo dục
và có ảnh hưởng mạnh trong xã hội với số lượng phát hành báo hơn 300.000 bản/ngày, có thời
điểm lên đến 400.000 bản/ngày.
- “Tuổi trẻ” là tờ báo của Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh. Báo có chuyên trang giáo dục
riêng và cũng là một trong những tờ báo có ảnh hưởng với xã hội, đặc biệt là công chúng phía
Nam với số lượng phát hành 400.000 bản/ngày
Tổng hợp các tin bài phản ánh trên 4 tờ báo trên, ngành Giáo dục cơ bản có thể tìm thấy
câu trả lời cho các vấn đề về thông tin giáo dục và đào tạo đang cần có thêm ý kiến của dư luận
xã hội. Tất nhiên, trước những vấn đề đổi mới mạnh mẽ, vấn đề nhạy cảm của giáo dục, cơ quan
quản lý giáo dục các cấp không chỉ dựa vào 4 tờ báo trên để nắm thông tin, mà còn phải lắng
nghe ý kiến từ công chúng, từ nhiều loại hình báo chí khác.
Phạm vi nghiên cứu đề tài là một khâu, một mắt xích trong mô hình truyền thông: nghiên
cứu về thông điệp (Message), thông tin về giáo dục và đào tạo trên loại hình báo in.
Thời gian khảo sát: từ tháng 01/ 2005 đến tháng 12/ 2010
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở nhận thức luận các vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về báo chí và giáo dục và đào tạo cũng như các ngành khoa học liên quan.

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở các lý thuyết như:
- Lý thuyết truyền thông
Một số lý thuyết truyền thông: lý thuyết xâm nhập xã hội; lý thuyết xét đoán xã hội; lý
thuyết học tập; lý thuyết truyền bá cái mới; lý thuyết thuyết phục; lý thuyết truyền thông điệp
cho đối tượng; lý thuyết sử dụng; lý thuyết sử dụng và hài lòng...


5

5

Trong môi trường thông tin, lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” coi việc có đáp ứng được
nhu cầu của công chúng hay không là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá hiệu quả truyền thông, giác
độ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Thứ nhất, hành vi tiếp xúc với truyền thông của công chúng là hoạt động lựa chọn những
nội dung trên phương tiện truyền thông dựa trên nhu cầu của công chúng, sự lựa chọn này có
“tính linh hoạt” nhất định, điều này có lợi cho việc điều chỉnh quan điểm “công chúng hoàn toàn
bị động” thành công chúng là người hoàn toàn chủ động tiếp nhận thông tin trong môi trường
truyền thông hiện đại.
Thứ hai, lý thuyết này nhấn mạnh tính đa dạng trong cách thức sử dụng phương tiện
truyền thông của công chúng, đồng thời chỉ rõ vai trò chi phối của nhu cầu công chúng đối với
hiệu quả truyền thông.
Thứ ba, lý thuyết “Sử dụng và hài lòng” chỉ ra rằng, truyền thông đại chúng có hiệu quả
cơ bản đối với công chúng, đây cũng là một sự bổ trợ có ích cho “lý thuyết hiệu quả truyền thông
hữu hạn” mà thập kỷ 1940 - 1960 nhấn mạnh quá nhiều về tính phi hiệu quả của truyền thông đại
chúng. Xét từ giác độ này, một số học giả coi nó là lý thuyết “hiệu quả thích hợp”. Tuy nhiên, lý
thuyết “Sử dụng và hài lòng” cũng có những bất cập của nó, bởi nó nhấn mạnh quá nhiều về nhân
tố cá nhân và tâm lý, mang đậm màu sắc chủ nghĩa hành vi. Mặt khác, lý thuyết này chỉ khảo sát
đơn thuần hành vi tiếp xúc với phương tiện truyền thông của công chúng, do đó không thể chỉ ra
một cách toàn diện mối quan hệ xã hội giữa công chúng và truyền thông.

Trong môi trường thông tin, lý thuyết “sử dụng và hài lòng” đóng vai trò quan trọng, có
thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn về công chúng hiện đại, từ đó giúp các cơ quan báo chí thay đổi
các phương thức tác nghiệp, cung cấp cho xã hội những sản phẩm báo chí truyền thông phù hợp
với thời đại.
Bản chất xã hội của truyền thông quá trình giao tiếp xã hội, quá trình liên kết xã hội và
quá trình can thiệp xã hội. Nói cách khác, đó là quá trình biện chứng. Con người sau khi được
truyền thông xã hội hóa có thể trở nên văn minh hơn và khi con người, xã hội càng phát triển thì
nhu cầu, năng lực và khả năng đáp ứng của truyền thông càng cao [ 37; tr.120]
Quá trình truyền thông là sự truyền đi của các thông điệp (ý nghĩ, thông tin, tư tưởng, ý
tưởng, ý kiến, kiến thức...) từ một người hay một nhóm người đến người khác hay một nhóm
người khác bằng lời nói, hình ảnh, văn bản hoặc các tín hiệu khác. Chính vì vậy, truyền thông
liên quan đến việc làm thế nào để liên kết các yếu tố như người nhận, người gửi, cách mã hóa và
cách giải mã, các kênh và các phương tiện truyền thông nhằm đảm bảo cho tính chính xác và
hiệu quả của quá trình truyền thông.


6

6

Lịch sử nghiên cứu truyền thông từ đầu thế kỷ XX đến nay, dù theo mô hình nào cũng đều
liên quan đến thông điệp được truyền tải thông tin, xem thông điệp là một khâu, một mắt xích
quan trọng trong chu trình truyền thông. Đây là yếu tố nền tảng cho việc tạo lập một chu trình
truyền thông.
- Lý thuyết xã hội học truyền thông đại chúng
Dưới góc độ của xã hội học thì truyền thông đại chúng được coi như là một quá trình xã
hội. Đó là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi ra công chúng trong xã hội thông qua
các PTTTĐC như báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử.
Nhà xã hội học Max Weber đã chỉ rõ tác động của truyền thông đại chúng. Theo ông,
truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội do nó có sự liên kết bởi nhiều yếu tố như: nguồn

tin, thông điệp và người nhận và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. [59]
Một số tác giả khác cho rằng truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội, đó là quá trình
truyền tải thông tin ra công chúng thông qua các phương tiện truyền thông, được liên kết chặt chẽ
bởi các yếu tố: nguồn tin, thông điệp và người nhận. Thiếu một trong ba yếu tố này, hiệu ứng xã
hội sẽ không xảy ra khi các kênh truyền thông đại chúng truyền thông điệp mà không có người
nhận[71]; [72]
Cũng theo các tác giả, truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm ba
thành tố sau đây: 1) Hoạt động truyền thông (săn tin, quay phim, chụp ảnh, viết bài, biên tập và
cuối cùng là xuất bản, hoặc phát sóng), 2) Các nhà truyền thông (bao gồm các tổ chức truyền
thông như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình... và những người làm công tác truyền thông
như nhà báo, phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên...), 3) Và đại chúng (các tầng lớp công
chúng rộng rãi).
Chẳng hạn, khi chúng ta mở máy tính, máy tính bảng, điện thoại di động xem tin tức trên
một tờ báo thì hành vi đó đã nằm trong quá trình truyền thông đại chúng. Thế nhưng nếu chúng ta
cũng mở những loại phương tiện trên nhưng lại để xem một tập ảnh chụp chung với gia đình hay
bạn bè, thì hành động này lại không được coi là nằm trong quá trình truyền thông đại chúng, bởi
một lẽ đơn giản là tập dữ liệu này được chụp và truyền phát trong khuôn khổ cá nhân mà thôi.
Nói cách khác, điểm then chốt trong việc xác định xem một hành vi có nằm trong quá
trình truyền thông đại chúng hay không không phải là cái màn hình điện thoại di động hay máy
tính, máy tính bảng mà là cần xem xét coi hành vi ấy có nằm trong quá trình truyền tải thông tin
ra rộng rãi công chúng thông qua các PTTTĐC hay không.
Trong một số hướng nghiên cứu của xã hội học có hướng nghiên cứu về các nhà tuyên
truyền với vai trò là một nhóm xã hội- nghề nghiệp trong cơ cấu xã hội. Do đó, tác giả tìm hiểu
các vấn đề nghiên cứu về báo chí được tiếp cận, xem xét như thế nào từ góc độ xã hội học, làm
cơ sở cho việc đánh giá cụ thể về cách thức hoạt động của nhà truyền thông.


7

7


- Lý thuyết báo chí học
Theo Siebert trong cuốn sách về Bốn lý thuyết về báo chí, báo chí mang hình thức và màu
sắc của các cấu trúc xã hội và chính trị trong đó nó hoạt động. Báo chí và các phương tiện truyền
thông khác, trong quan điểm của họ, sẽ phản ánh “niềm tin căn bản và giả định rằng xã hội nắm
giữ”. Để nhìn nhận sự khác biệt của hệ thống báo chí giữa các nước một cách toàn diện nhất, phải
nhìn vào hệ thống xã hội mà chúng đang hoạt động. Để xem xét hệ thống xã hội trong mối quan
hệ với báo chí, phải xem xét những niềm tin và quan niệm cơ bản của xã hội đó: đặc tính của con
người, xã hội, đất nước, mối quan hệ giữa con người và đất nước đó, của tri thức và sự thật.
Báo chí biểu hiện vai trò trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vực như: Chính trị, kinh tế,
văn hoá – xã hội.
Chức năng của báo chí: Thông tin, tư tưởng, khai sáng, giải trí quản lý, giám sát và phản
biện xã hội, kinh tế, dịch vụ.
- Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự
Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” (Agenda setting) do hai chuyên gia truyền
thông Maxwell McCombs và D.Shaw (Mỹ) đưa ra. Lý thuyết này mô tả khả năng ảnh hưởng của
giới truyền thông đối với công chúng thông qua các phương tiện truyền thông. Trong xã hội, nếu
một tin tức nào đó được nhắc tới thường xuyên, liên tục và nổi bật, công chúng sẽ nhớ tới và coi
nó quan trọng hơn những thông tin khác. Do vậy, chức năng “thiết lập chương trình nghị sự” là
một giả thiết quan trọng trong các lý thuyết truyền thông. Điểm nổi bật của lý thuyết này là
truyền thông đại chúng có một chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho công chúng, các
bản tin và hoạt động đưa tin của cơ quan báo chí truyền thông ảnh hưởng đến sự phán đoán của
công chúng tới những “chuyện đại sự” của thế giới xung quanh và tầm quan trọng của chúng
bằng cách làm cho các “chương trình” nét nổi bật khác nhau, từ đó có thể tác động và tạo ra sự
dẫn đường trong tương lai. Lý thuyết cho rằng Truyền thông đại chúng (trong đó có báo chí) có
chức năng sắp đặt “chương trình nghị sự” cho công chúng. Lý thuyết còn chỉ ra rằng, việc đưa tin
về thế giới bên ngoài của cơ quan truyền thông là lựa chọn có mục đích.
Theo McCombs & Shaw’s study (1972), cho rằng các cơ quan báo chí truyền thông (dựa
vào giá trị quan và mục đích tôn chỉ, đồng thời căn cứ vào môi trường thực tế để) “lựa chọn” vấn
đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng để cung cấp cho công chúng, chứ không phải cung cấp

những thông tin mà công chúng cần. McCombs (1994) gần đây cho rằng hiệu ứng của thuyết này
rất mạnh khi công chúng không biết hay không có kinh nghiệm trực tiếp về vấn đề, khi họ phụ
thuộc nhiều hơn vào các phương tiện truyền thông để hiểu tình hình.


8

8

Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” không đánh giá hiệu quả truyền thông trong
thời gian ngắn của một hãng truyền thông nào đó đối với một sự kiện cụ thể, mà đánh giá về hiệu
quả xã hội lâu dài, tổng hợp ở tầm vĩ mô của cả ngành truyền thông được tạo ra sau khi đưa ra
hàng loạt bản tin trong một quãng thời gian khá dài.
Các cơ quan báo chí truyền thông dựa vào giá trị quan và mục đích tôn chỉ, đồng thời căn
cứ vào môi trường thực tế để “lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là quan trọng nhất để
sản xuất và cung cấp cho công chúng những thông tin “đúng sự thật”.
Thiết lập chương trình nghị sự về TT GDĐT trên báo in gồm 2 khía cạnh: Một là, báo in
là chủ thể của các TT về GDĐT. Hai là, báo in là trung gian tổ chức thu thập và công bố TT về
GDĐT. Báo in luôn chủ trì về mặt truyền thông, “lựa chọn” vấn đề hoặc nội dung mà họ coi là
quan trọng để cung cấp cho công chúng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Là phương pháp tác giả sử dụng khảo sát các văn bản,
chỉ thị, nghị quyết và các công trình khoa học, sách, báo…nhằm mục đích tìm cơ sở cho việc xây
dựng khung lý thuyết về TT về GDĐT trên báo in; đặc điểm, vai trò TT GDĐT trên báo in; mô
hình TT GDĐT trên báo in và những yêu cầu về TT GDĐT trên báo in. Đồng thời, tác giả tìm
hiểu kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học có thể hữu ích cho việc đối chiếu và
tham khảo trong khuôn khổ công trình nghiên cứu này, các công trình đó có thể làm cơ sở cho
việc đánh giá các kết qua khảo sát, tìm ra các giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Mục tiêu của phương pháp này là thu nhận các nhận
xét, đánh giá của các nhóm công chúng khi tiếp nhận thông tin GDĐT trên các báo trong diện

khảo sát. Tìm hiểu TT về GDĐT trên báo in đã đáp ứng nhóm công chúng ở mức độ nào. Chúng
tôi đề ra một bảng câu hỏi (anket) phát cho đối tượng tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí
Minh, tổng số phiếu là 500 phiếu, bao gồm: Hà Nội 180 phiếu, Đà Nẵng 140 phiếu, thành phố Hồ
Chí Minh 180 phiếu. Số phiếu thu về sau điều tra là 483 phiếu.
Các đối tượng cụ thể: Ở mỗi thành phố chúng tôi lựa chọn đối tượng để phát phiếu như
sau: học sinh (chọn 1 trường THPT, 1 trường THCS, mỗi trường 1 lớp), sinh viên (chọn 3 trường
đại học ở 3 thành phố thuộc 3 khối A, B, C, mỗi trường 1 lớp), giáo viên (chọn 1 số giáo viên
Tiểu học, Phổ thông và đại học), cán bộ quản lý giáo dục (Hiệu trưởng đại học, phổ thông, sở
Giáo dục và Đào tạo, Vụ trưởng Vụ chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo), người dân (phụ
huynh học sinh Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, đại học), theo đó có các cứ liệu
và cơ sở giúp tác giả thực hiện luận án.


9

9

Với những phiếu điều tra bằng bảng hỏi (anket), chúng tôi sử dụng phần mềm xử lý số
liệu định lượng SPSS 16.0.
- Phương pháp phỏng vấn sâu (Phỏng vấn chuyên gia) : với hình thức phỏng vấn đặt câu
hỏi với 20 đến 30 người trả lời là những đối tượng: lãnh đạo cơ quan quản lý báo chí (Tổng biên
tập một tờ báo, trưởng, phó ban giáo dục của báo): 04 mẫu; phóng viên theo dõi giáo dục (các
phóng viên hiện đang theo dõi giáo dục được các báo giới thiệu đến Bộ Giáo dục và Đào tạo): 10
mẫu; Công chúng (Chọn trong số những người điều tra XHH, mỗi thành phố chọn 2-3 người bất
kỳ, thường xuyên đọc thông tin về GDĐT hoặc liên quan đến lĩnh vực GDĐT như giáo viên,
quản lý giáo dục, học sinh, sinh viên…): 08 mẫu. Từ đó, tập hợp các cứ liệu thực tế phục vụ cho
đề tài nghiên cứu. Với phương pháp phỏng vấn sâu, chúng tôi sử dụng phần mềm xử lý dữ liệu
định tính Nvivo 8.0.
- Phương pháp quan sát: tiến hành khi thực hiện phỏng vấn sâu, điều tra xã hội học và
tiến hành các nghiên cứu. Mục đích để xem xét hoạt động của các cơ quan báo in, hoạt động tiếp

nhận thông tin GDĐT của công chúng; các biểu hiện về nhận thức, thái độ, hành vi của công
chúng và những người xây dựng các sản phẩm báo chí liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Kết quả
quan sát sẽ là cơ sở để thực hiện nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp phân tích nội dung văn bản
- Mô tả về phương pháp: Phân tích nội dung văn bản là phương pháp phân tích tài liệu bài
viết (có thể dưới dạng in ấn hoặc nghe nhìn) nhằm lượng hoá nội dung một cách có hệ thống, có
thể nhân rộng dựa trên các tiêu chuẩn đã được xác định. Phân tích nội dung được đề cập ở đây
(phân tích nội dung định lượng) khác với hai phương pháp phân tích nội dung thông tin khác đó
là (1) Ký hiệu học – một phương pháp phân tích văn bản và các hiệu tượng khác nhấn mạnh việc
tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của các hiện tượng này; (2) Phân tích nội dung mang tính dân tộc học,
phương pháp tiếp cận văn bản theo hướng nhận mạnh vai trò của người điều tra trong việc xây
dựng ý nghĩa của bài viết và trong toàn bộ quá trình phân tích nó. Phương pháp này được xem là
phương pháp phân tích định tính trong đó yếu tố ngữ cảnh đóng vai trò quan trọng trong việc
phân loại số liệu và xây dựng các ý nghĩa.
Bước tiếp theo của phần phân tích định lượng là phải quyết định xem cần xem xét những
gì. Tất nhiên, việc quyết định phải xem xét cái gì trong quá trình phân tích nội dung bị ảnh hưởng
các câu hỏi nghiên cứu. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu không chỉ phân loại dựa vào nội dung hiển
nhiên mà còn cả những nội dung ẩn ý. Cần dò tìm dưới bề mặt để đặt câu hỏi sâu hơn về những
sự việc đang diễn ra; (4) Khuynh hướng cũng là vấn đề mà các nhà nghiên cứu quan tâm tìm
kiếm khi phân tích nội dung. Đó là sự thay đổi, mối quan tâm, niềm tin hay các nguyên tắc.
Mã hoá là bước trung tâm và đặc biệt nhất của phân tích nội dung. Có 2 yếu tố chính trong
bước này là thiết một một bảng mã và thiết kế một sổ tay mã hoá. Bảng mã là một biểu/ bảng


10

10

mẫu trong đó có tất cả các số liệu kiên quan tới một vấn đề được mã hoá được điền vào. Bảng
này được đơn giản hoá để hỗ trợ các tranh luận về các nguyên tắc mã hoá trong phân tích nội

dung và nguyên tắc xây dựng bảng mã nói riêng. Mỗi cột trong bảng mã sẽ là một khía cạnh
được mã hoá. Đầu đề của các cột sẽ là các khía cạnh được mã hoá, các cột sẽ được đánh số. Mỗi
mẫu sẽ dùng cho một bài được mã hoá. Các mã số sau đó có thể được chuyển thành một tệp sữ
liệu máy tính cho việc phân tích bằng phần mềm SPSS. Để giúp điềm thông tin đúng và thống
nhất vào bảng mã này, cần có sổ tay mã hoá. Sổ tay mã hoá là các hướng dẫn chi tiết cho người
thực hiện mã hoá.
Trong luận án này, tất cả các bài viết về Giáo dục đào tạo được xem xét kỹ lưỡng trên 4 tờ
báo in Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Nhân Dân, Giáo dục và Thời đại trong thời gian từ năm 2005 đến
năm 2010.
- Mẫu nghiên cứu bao gồm các thông tin về các tờ báo được lựa chọn để phân tích, hình
thức đăng tải, chuyên mục đăng tải, nguồn và thời gian đăng tải. Các thông tin này giúp người
nghiên cứu có một cái nhìn tổng thể về mẫu nghiên cứu.
- Cách thức chọn mẫu: Tất cả các bài báo liên quan, đề cập đến GDĐT trong khoảng thời
gian nghiên cứu đều được sưu tầm. Với phương pháp lẫy mẫu ngẫu nhiên hệ thống từ 26875 tin,
bài về GDĐT trong 5 năm, tác giả lựa chọn 720 tin, bài để phân tích (Mỗi báo chọn 180 tin, bài).
Trong trường hợp những bài viết trùng nhau được đăng tải trên nhiều báo sẽ lựa chọn ngẫu nhiên
một bài bất kỳ, không lấy tất cả các bài báo trùng nhau hoàn toàn trong mẫu nghiên cứu. Trong
trường hợp giống nhau nội dung hay tiêu đề nhưng có sự khác biệt về cách phân tích hoặc thể
hiện trong bài báo thì đều được chọn trong mẫu nghiên cứu.
Thông tin thu thập từ các bảng mã viết về Giáo dục và đào tạo trên 4 báo được mã hoá,
nhập và xử lý bằng chương trình SPSS 16.0. Sau khi làm sạch số liệu sẽ tiến hành biến đổi các số
liệu để phục vụ cho việc lượng hoá các nhóm vấn đề có liên quan đến GDĐT và đánh giá các bài
viết về GDĐT
- Phương pháp phân tích diễn ngôn: Diễn ngôn là cách nói năng, phương thức biểu đạt
của con người, thế giới về các sự việc trong đời sống. Do đó, nghiên cứu diễn ngôn là nghiên cứu
ngôn ngữ. Nhưng diễn ngôn không phải là hình thức mà là tư tưởng- tư tưởng trong dạng thức
thực tiễn, trên kênh truyền thông đại chúng.
Theo Sara Mills trong Discourse, có thể thấy ba cách định nghĩa khác nhau về diễn ngôn
trong các trước tác của Foucault. Thứ nhất, diễn ngôn được coi là tất cả các nhận định nói chung,
đó là tất cả các phát ngôn hoặc văn bản có nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong thế giới thực.

Thứ hai, diễn ngôn là một nhóm các diễn ngôn cụ thể, được qui ước theo một cách thức nào đó
và có một mạch lạc hoặc một hiệu lực nói chung, “được nhóm lại với nhau bởi một áp lực mang


11

11

tính thiết chế nào đó, bởi sự tương tự giữa xuất xứ và bối cảnh hay bởi chúng cùng hành động
theo một cách gần giống nhau”[ Sara Mills, Diễn ngôn, Cấu trúc diễn ngôn, Diễn ngôn, các diễn
ngôn ]. Ví dụ, diễn ngôn nữ giới là một nhóm các diễn ngôn có chung một hiệu lực là nhằm phản
kháng lại diễn ngôn về phụ nữ của đàn ông, diễn ngôn chủ nghĩa đế quốc là nhóm các diễn ngôn
có chung một hiệu lực là áp đặt quyền lực thực dân lên những xứ sở thuộc địa… Thứ ba, diễn
ngôn là một thực tiễn sản sinh ra vô số các nhận định và chi phối việc vận hành của chúng[Sara
Mills, Diễn ngôn, Dẫn nhập ]. Diễn ngôn không chỉ được coi như “một cái gì tồn tại cố hữu, tự
thân và có thể được phân tích một cách cô lập[Sara Mills, Diễn ngôn ]”, là những qui tắc và cấu
trúc nhằm tạo ra những phát ngôn và những văn bản cụ thể. Đó là một hệ thống của “những tư
tưởng, quan điểm, khái niệm, cách thức tư duy và hành xử, những cái được hình thành trong một
bối cảnh xã hội cụ thể[Sara Mills, Diễn ngôn, Dẫn nhập ]”, có một hiệu lực chung đối với cách
suy nghĩ và nói năng của mỗi nhóm người cũng như mỗi cá nhân.
Thông qua phương pháp phân tích diễn ngôn, luận án làm sáng tỏ những vấn đề của thời
đại thông qua thông tin GDĐT, làm rõ hơn góc nhìn quyền lực truyền thông thông qua vấn đề
được đề cập; làm sáng tỏ chủ thể thể hiện thông điệp về GDĐT, đó là những thông tin mà nhà
hoạch định chính sách kỳ vọng, hay những thông tin phản biện từ vấn đề bất cập của thực tiễn
triển khai chính sách.
- Ngoài ra luận án còn sử dụng một số phương pháp khác như: Phương pháp so sánh;
Phương pháp tổng hợp...
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu gồm:

- Thông tin về GDDT là gì và vai trò của thông tin về GDDT trên báo in?
- Mô hình thông tin về GDDT trên báo in như thế nào và có vai trò gì?
- Các yêu cầu cụ thể đối với việc thông tin về GDĐT là gì?
- Báo in cần phải làm gì và làm như thế nào để thông tin về GDDT có hiệu quả?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết thứ nhất: Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, giáo dục đào tạo luôn
được Đảng, Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu và đang có sự đổi mới quyết liệt trong nhiều
năm qua. Việc triển khai đổi mới một lĩnh vực liên quan đến mọi người, mọi gia đình và thực
hiện không chỉ ngành giáo dục mà cả hệ thống, toàn xã hội. Vì vậy, định hướng đúng đắn các chủ
trương đổi mới về giáo dục, góp ý, phản biện những hạn chế trong quản lý, cách dạy, cách học…
là hết sức quan trọng của các cơ quan báo chí, trong đó có báo in. Do đó, nâng cao chất lượng
thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in là hết sức cần thiết.


12

12

- Giả thuyết thứ hai: Thông tin về giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay, còn có những
hạn chế: đưa số lượng tin bài tiêu cực, giật gân nhiều; số lượng tin, bài phản ánh tích cực, gương
tập thể, cá nhân tốt trong ngành ít. Việc khảo sát, phân tích một cách khoa học thực trạng để chỉ
ra được những mặt tích cực và hạn chế, cơ hội, thách thức cho báo in thực hiện tốt thông tin về
giáo dục và đào tạo.
- Giả thuyết thứ ba: Thông tin về giáo dục và đào tạo của báo in góp phần quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện hiệu quả các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục, đặc biệt là thực hiện đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
- Giả thuyết thứ tư: Cách thông tin về GDĐT hiện nay còn hạn chế về mặt tương tác, tư duy
nhận thức của mỗi tờ báo chưa tương xứng với vị trí giáo dục và đào tạo được chỉ đạo qua các
chủ trương, chính sách, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, kiến thức hiểu biết giáo dục của phóng

viên được phân công theo dõi còn hạn chế, công tác truyền thông của ngành Giáo dục còn yếu.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thông tin về giáo dục và đào tạo, báo chí
nói chung, báo in nói riêng và vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in; những yêu
cầu cần có đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in…Khung lý thuyết cộng với cơ sở
thực tiễn làm nền tảng cho việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề liên quan đến công tác thực hiện
ở mảng đề tài thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in.
- Luận án chỉ ra được thực trạng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in hiện nay, về
thế mạnh, điểm tích cực, hạn chế để từ đó có nhận định khái quát về thực trạng thông tin lĩnh vực
này. Luận án khẳng định vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in.
- Luận án nêu những vấn đề đặt ra của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in trong
bối cảnh sự phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời khuyến nghị những giải pháp
nâng cao chất lượng thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận
Hiện nay, việc tìm hiểu TT về GDĐT trên báo chí nói chung và báo in nói riêng chưa
được quan tâm đúng mức vì nhiều lý do khác nhau. Việc tìm hiểu thông điệp về GDĐT chưa
được thực hiện nhiều và còn nhiều bất cập. Luận án này xác định những ưu điểm và hạn chế cụ
thể của TT về GDĐT trên báo in .
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên hệ thống một cách tổng quát, chuyên sâu, cập
nhật về yêu cầu nâng cao chất lượng, vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở
Việt Nam hiện nay.


13

13

Các cơ quan báo in trước đây thường sản xuất các tác phẩm theo cách truyền thống, thiếu
sự sinh động, tương tác, nay cần lưu ý đến sự cạnh tranh đối với các loại hình báo chí mới. Công

chúng sẽ lựa chọn tiếp nhận dòng thông tin gì và bằng các phương tiện nào.
Luận án là đề tài hết sức cần thiết để bổ sung cho các nguồn số liệu còn thiếu của các đề
tài nghiên cứu trước đây; là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác giảng dạy báo chí
trong nhà trường; làm tài liệu tham khảo cho sinh viên báo chí; gợi mở hướng nghiên cứu để tiếp
tục phát triển và nâng cao chất lượng báo chí nói chung và báo chí in nói riêng.
7.2. Giá trị thực tiễn
Luận án sẽ cung cấp cho các cơ quan báo chí nói chung và cơ quan báo in nói riêng ở
nước ta có những cơ sở khoa học đáng tin cậy để đánh giá đúng về TT GDĐT hiện nay, và là cơ
sở để nâng cao chất lượng các tác phẩm báo chí, từ đó tạo ra hướng đi mới cho cơ quan báo in
phát triển mạnh mẽ.
Luận án góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các cơ quan báo chí với các tác phẩm báo
chí của chính họ. Để có được sự phát triển tốt phù hợp với báo chí hiện đại, các cơ quan báo in
cần tìm hiểu và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới cũng như cách viết tác phẩm báo
chí mới. Ứng dụng các thành tựu KHKT trong cơ quan báo chí có hiệu quả không chỉ là vấn đề
của riêng báo chí nước ta mà còn là của báo chí quốc gia và báo chí thế giới.
Tìm hiểu TT về GDĐT như phân tích để làm rõ thực trạng, chỉ ra đặc điểm, những ưu
điểm và hạn chế thông tin về giáo dục và đào tạo, đồng thời đề xuất, khuyến nghị, giải pháp của
luận án sẽ giúp cho các cơ quan báo chí có cơ sở để sản xuất các sản phẩm báo chí hấp dẫn, thiết
thực; cơ sở để nâng cao các tác phẩm báo chí và nâng cao chất lượng đội ngũ người làm báo.
Từng bước góp phần giúp báo in phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan vấn đề nghiên cứu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, Luận án gồm 3 chương 11 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in.
Chương 2: Thực trạng thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in ở Việt Nam.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra, giải pháp và khuyến nghị thông tin về giáo dục đào tạo
trên báo in ở Việt Nam hiện nay.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong phần này NCS đã nghiên cứu một số công trình nghiên cứu về giáo dục và đào tạo,
về lý luận báo chí, vai trò chức năng của báo chí với thông tin về giáo dục và đào tạo ở trong và

ngoài nước. Qua đó cho thấy rằng, vai trò thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí nói
chung, báo in nói riêng được đề cập từ rất sớm thông qua nghiên cứu các lĩnh vực như triết học,
chính trị học, luật học, báo chí học, giáo dục học, xã hội học….Các nghiên cứu này chủ yếu được


14

14

nghiên cứu ở góc độ lý luận cơ bản, nghiên cứu cụ thể trong hoạt động của cơ quan báo chí, hay
kỹ năng, nghiệp vụ. Theo đó, giáo dục hay cụ thể hơn là thông tin về giáo dục đào tạo trên báo
chí được đặt trong mối quan hệ với nhà nước pháp quyền, xã hội dân chủ, báo chí phát triển.
Thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí được coi là nguyên tắc cơ bản và tất yếu trong đời
sống chính trị và hoạt động quản lý xã hội đối với các quốc gia.
Các nghiên cứu cũng cho thấy đã chứng minh giáo dục đào tạo là một lĩnh vực quan trọng
của mỗi quốc gia, thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí là một chức năng và có vị trí quan
trọng của báo chí. Tuy nhiên, cũng chưa có một nghiên cứu nào chỉ ra một cách đầy đủ, cụ thể về
thông tin giáo dục đào tạo trên báo chí và ở Việt Nam, cũng như chưa chỉ ra được bản chất, nội
dung, phương thức thông tin về giáo dục đào tạo trên báo chí nói chung và từng loại hình báo chí
nói riêng. Việc nghiên cứu cho thấy, nhiều vấn đề khái niệm và bản chất, nội dung và hình thức,
phương thức, phương tiện, vai trò, hiệu quả tác động…của thông tin về giáo dục đào tạo trên báo
in ở nước ta vẫn chưa được làm rõ. Các nội dung này sẽ được NCS làm sáng tỏ qua đề tài: Thông
tin về giáo dục và đào tạo trên báo in Việt Nam (Khảo sát trên các báo Nhân Dân, Giáo dục và
Thời đại, “Tuổi trẻ” và Thanh Niên)
Do vậy, trong luận án này, NCS sẽ nghiên cứu để làm rõ thực trạng thông tin về giáo dục
đào tạo trên báo chí, ý nghĩa, hiệu quả tác động của báo chí với giáo dục và đào tạo. Với sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước ta về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đã được xác định là quốc sách
hàng đầu, báo chí đã luôn dành sự quan tâm và phản ánh nhiều chiều về giáo dục. Với ý nghĩa
như vậy, việc thông tin trên báo chí cũng cho thấy những mặt mạnh và những mặt còn hạn chế,
như: ở nhiều bài viết cần có thêm hoặc tìm hiểu sâu về kiến thức giáo dục (Mầm non, tiểu học,

trung học cơ sở, trung học phổ thông và đại học); cần bàn thêm nhìn ở góc độ tính giáo dục
trong những ngôn ngữ sử dụng trong bài hoặc đặt đầu bài…
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN
- Trong Chương 1, luận án đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản thông tin về
GDĐT trong đó đưa ra các khái niệm liên quan đến phạm vi, lĩnh vực thuộc phạm vi đề tài
nghiên cứu, khái niệm “Thông tin”, “Giáo dục”, “Đào tạo”, “Giáo dục và đào tạo”, “Báo in” và
“Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in”, đây là những cơ sở để tác giả nghiên cứu khảo sát
ở những nội dung tiếp theo về thông tin báo chí nói chung và thông tin về giáo dục và đào tạo
trên báo in nói riêng.
+Thông tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:


15

15

Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc
sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội được báo chí phản
ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công chúng.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này Thông tin được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác nhau: có khi chỉ là cái
tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi là một chương trình phát thanh,
truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác phẩm trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh
viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ báo… đều chứa đựng thông tin.
Thuật ngữ “Thông tin” trong hoạt động báo chí còn có có cách hiểu rộng hơn, chúng còn
được hiểu như một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ tác phẩm, hay hệ thống những
tin tức… là thông tin.
Thông qua việc phân tích thông tin GDĐT trên báo in, luận án sẽ làm sáng tỏ những nội

dung thông tin từ các nhà quản lý, hoạch định chính sách, thông tin phản biện những vấn đề bất
cập trong triển khai chính sách giáo dục giai đoạn 2005-2010, thông qua đó, luận án nêu lên
những vấn đề của thời đại thông qua việc phân tích thông tin, làm rõ hơn góc nhìn của quyền lực
của truyền thông.
+ Giáo dục và đào tạo là hoạt động có tổ chức, có mục đích của xã hội, nhằm bồi dưỡng
và phát triển các phẩm chất và năng lực của người.
Trong đó, giáo dục chỉ là sự bồi dưỡng và phát triển toàn diện con người từ bậc giáo dục
mầm non đến trung học phổ thông.
Đào tạo chỉ sự bồi dưỡng và chuẩn bị nghề cho con người trong các trường dạy nghề, cao
đẳng và đại học.
Điều 4 của Luật Giáo dục năm 2005 đã nêu rõ về hệ thống giáo dục quốc dân là: “(1) Hệ
thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên; (2) Các cấp học và
trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu
giáo; Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; Giáo dục nghề
nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề; Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi
chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ
tiến sĩ.”
+Thông tin về giáo dục và đào tạo là thông tin về một lĩnh vực cũng như các lĩnh vực
khác như y tế, giao thông, môi trường…Theo đó khảo sát của tác giả thông tin về giáo dục và đào


16

16

tạo là thông tin về hoạt động giảng dạy, hoạt động điều hành quản lý, hoạt động giáo dục giáo
dục nói chung, bao gồm:
Quan điểm, mục tiêu và chủ trương, chính sách về giáo dục và đào tạo
Tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí về giáo dục và đào tạo
Quản lý về giáo dục - đào tạo và hệ thống các cơ quan quản lý và nội dung quản lý về giáo

dục - đào tạo
Thông tin về hoạt động của giáo dục gồm: quản lý giáo dục, hoạt động nhà trường, hoạt
động của học sinh, sinh viên…
Nói tóm lại Thông tin về giáo dục và đào tạo bao gồm các thông tin về quan điểm, mục tiêu
và chủ trương, chính sách về giáo dục và đào tạo; tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí về giáo
dục và đào tạo; quản lý về giáo dục - đào tạo và hệ thống các cơ quan quản lý và nội dung quản
lý về giáo dục - đào tạo; thông tin về hoạt động của giáo dục.
+Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in là thông tin về một lĩnh vực chuyên về giáo
dục và đào tạo, đây là những dữ liệu đề xây dựng nên các tác phẩm báo chí trên báo in phản ánh
về lĩnh vực giáo dục.
Theo Luật báo chí, báo in bao gồm: báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn. Nghị
định số 51/2002/NĐ-CP, ngày 26 tháng 4 năm 2002 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí định nghĩa “Báo in: là tên gọi loại hình báo chí
được thực hiện bằng phương tiện in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn)”. Căn cứ
vào Luật Báo chí năm 2016, Báo in là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, tranh, ảnh, thực hiện
bằng phương tiện in để phát hành đến bạn đọc, gồm báo in, tạp chí in.
“Báo in là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung thông tin mang tính thời sự và
được phát hành rộng rãi trong xã hội. Trong trường hợp này, thuật ngữ báo in dùng để chỉ 2 bộ
phận báo và tạp chí”. [ 63; tr 81]
-Trong chương này, tác giả cũng làm rõ đặc điểm và vai trò của thông tin về giáo dục và
đào tạo, trong đó đi vào cụ thể từng phần đặc điểm chung và riêng. Theo đó, làm rõ vai trò của
thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in, cụ thể đối với cơ quan báo chí và đối với công chúng
báo chí.
- Đặc điểm của thông tin báo chí: Thông tin thời sự; Thông tin có tính công khai; Thông
tin có tính mục đích; Thông tin báo chí có tính phong phú, đa dạng nhiều chiều; Thông tin dễ
hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo; Thông tin tương tác; Thông tin đa phương tiện.
- Đặc điểm thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in: Thông tin về giáo dục và đào tạo
trên báo in có tính thời sự; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in có tính công khai; Thông



17

17

tin về giáo dục và đào tạo trên báo in có tính mục đích; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo
in có tính định kỳ; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in phong phú, đa dạng; Thông tin về
giáo dục và đào tạo trên báo in dễ nhớ, dễ hiểu dễ làm theo; Thông tin về giáo dục và đào tạo trên
báo in có tính tương tác và tính đa phương tiện.
Vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in
- Đối với chủ thể thông tin: Chủ thể thông tin bao gồm cơ quan báo chí và nhà báo.
+ Thông tin về giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng là chất liệu hình thành nên các
tác phẩm báo chí về giáo dục
+ Thông tin về GDĐT mang lại giá trị kinh tế
+ Thông tin về GDĐT tạo lập thương hiệu cho cơ quan báo in
- Đối với khách thể thông tin về GDĐT trên báo in
Khách thể thông tin GDĐT là các tập thể: các cơ quan quản lý GDĐT, các cơ quan thực thi
GDĐT. Theo Nghị định Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của Chính phủ số
115/2010/NĐ-CP, các cơ quan quản lý GDĐT bao gồm: Bộ GDĐT, UBND cấp tỉnh, Sở GDĐT,
UBND cấp huyện, Phòng GDĐT, UBND cấp xã. Khách thể thông tin GDĐT còn là tổ chức, cá
nhân liên quan đến GDĐT, công chúng quan tâm đến thông tin GDĐT.
Vai trò của TTGDĐT đối với khách thể thông tin: Tư vấn, hoạch định chính sách GDĐT;
Quản lý, giám sát, phản biện chính sách GDĐT; Cung cấp tri thức GDĐT và các giá trị văn hoá,
lịch sử.
Luận án cũng trình bày cụ thể cơ sở chính trị và pháp lý của thông tin về GDĐT trên
báo chí, từ đó giúp tác giả luận án nhận thức rõ vai trò quan trọng của GDĐT và có sơ sở để
phân tích về giá trị các thông tin GDĐT trên báo in ở Việt Nam hiện nay.
- Những yêu cầu đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in
Đối với nội dung thông tin
- Thứ nhất, thông tin về GDĐT tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước ... những ý tưởng và quyết định trong công tác đổi mới của Bộ Giáo

dục và Đào tạo.
- Thứ hai, thông tin về giáo dục và đào tạo đảm bảo tính nhân văn, giáo dục và văn hóa.
- Thứ ba, thông tin về GDĐT đã đưa ra các mô hình giáo dục, phương pháp giảng dạy
hiệu quả, giúp nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
- Thứ tư, thông tin về GDĐT chia sẻ những tấm gương, những câu chuyện tích cực và phê
phán các hiện tượng tiêu cực trong GDĐT.
- Thứ năm, Thông tin về hoạt động đổi mới trong GDĐT


18

18

Yêu cầu đối với hình thức thông tin
Thông tin giáo dục và đào tạo phải thể hiện được đặc thù của báo in, trình bày đẹp, hấp
dẫn, khoa học, hiện đại. Cùng với đó việc thể hiện mỗi tác phẩm báo chí phải được chú trọng
việc đặt “tít” bài, “Sapo”, “Box” thông tin, ảnh phù hợp với nội dung cần phản ánh. Các thể loại
báo chí phải được sử dụng phong phú, đa dạng phù hợp theo từng chủ đề, nội dung, chuyên mục,
chuyên trang khác nhau…như tin tức, phóng sự, phỏng vấn…Các chuyên trang giáo dục cũng
phải thực hiện tính ổn định, tạo thuận lợi và hấp dẫn bạn đọc.
Kết cấu tác phẩm cần đảm bảo yêu cầu cơ bản là: tác phẩm đó là gì, nói gì và nói như thế
nào? Đồng thời đặt tác phẩm trong những mối tương quan khác như: vai trò xã hội, tích cấp thiết
của nội dung tác phẩm thể hiện; điểm nhìn của tác giả; vai trò của tác giả; cách xử lý số liệu trong
tác phẩm; cách khai thác thông tin của tác giả. Ngôn ngữ thể hiện đối với thông tin về giáo dục
và đào tạo cũng là một yêu cầu đặt ra đối với ngôn ngữ văn bản và hình ảnh vừa đáp ứng tính báo
chí nhưng cũng phải đáp ứng tính giáo dục cao, với đặc thù đối tượng công chúng chủ yếu quan
tâm đến thông tin giáo dục đào tạo là các nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản lý và học sinh, sinh
viên, phụ huynh.
Yêu cầu đối với phương thức thông tin
Đối với nhật báo: Thông tin giáo dục và đào tạo được chuyển tải đến công chúng nhanh

nhạy, kịp thời, khách quan, khoa học và đa chiều tạo điều kiện cho nhân dân dễ dàng tiếp nhận
thông tin, tham gia ý kiến phản biện hay góp ý,bày tỏ quan điểm riêng ủng hộ hoặc không hài
lòng.
Đối với tuần báo: đảm bảo yêu cầu vừa bám sát tính thời sự về các chủ trương, chính
sách, các sự kiện, vấn đề…về giáo dục và đào tạo nhưng phải thể hiện được đặc thù của báo tuần
có các bài viết đi sâu hơn, phân tích nhiều chiều, mang tính định hướng cao.
Với cơ sở lý luận đã nghiên cứu, khung lý thuyết đưa ra và thực tiễn báo chí về thông tin
về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam hiện nay, NCS dựa vào đó để tiến hành khảo sát,
phân tích, đánh giá về thực trạng thông tin về giáo dục và đào tạo của báo in để thực hiện nội
dung tiếp theo của luận án. NCS cũng đã kế thừa những ý tưởng của những nhà nghiên cứu đi
trước và coi đó là tiền đề lý luận và thực tiễn để triển khai đề tài nghiên cứu của mình.
Chương 2:
THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chương 2 của luận án giới thiệu sơ lược về 4 tờ báo mà luận án giới hạn khảo sát: Báo
Nhân dân, Báo GD&TĐ, Báo Thanh niên, Báo “Tuổi trẻ” TP Hồ Chí Minh. Theo đó, luận án
trình bày rõ về tần suất và mức độ thông tin về giáo dục và đào tạo trên các báo khảo sát.


19

19

Trên cơ sở sử dụng kết quả phương pháp phân tích nội dung văn bản, luận án đã phân tích
nội dung về GDĐT trên các báo khảo sát theo các tiêu chí: thông tin về đổi mới giáo dục tuyên
truyền, phổ biến các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ... những ý tưởng
và quyết định trong công tác đổi mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo; thông tin phản biện chính sách
về giáo dục và đào; thông tin về GDĐT đã đưa ra các mô hình giáo dục, phương pháp giảng dạy
hiệu quả, giúp nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường; thông tin về GDĐT chia sẻ
những tấm gương, những câu chuyện tích cực; thông tin phê phán các hiện tượng tiêu cực trong

GDDT, và thông tin về đổi mới giáo dục. Các phân tích về nội dung trên cơ sở các luận điểm
khoa học được minh chứng bằng các nội dung tác phẩm báo chí đã được đăng tải và kết quả điều
tra xã hội học từ công chúng do tác giả thực hiện.
Trên cơ sở các phân tích về nội dung và hình thức, luận án đã đánh giá về những thành
công và hạn chế trong thông tin về GDĐT trên báo in nước ta. Thành công ở chỗ tờ báo đã kịp
thời cung cấp các thông tin cần thiết cho bạn đọc, thu hút được lượng độc giả lớn quan tâm tới
nội dung này. Tuy nhiên, mặt hạn chế thể hiện ở chỗ nhiều nội dung còn sơ sài, đề tài chưa hấp
dẫn, ảnh kém chất lượng. Luận án cũng nêu lên các nguyên nhân ảnh hưởng đên thông tin về
GDĐT trên báo in qua 2 khía cạnh là nguyên nhân chủ quan và khách quan. Cụ thể:
Đánh giá thông tin về giáo dục đào tạo trên các báo khảo sát
Những kết quả đạt được
- Về nội dung: Tác động đến chính sách giáo dục; Tác động các hoạt động dạy và học
trong các nhà trường; Tác động đến đổi mới quản lý giáo dục, đổi mới cơ chế tài chính trong giáo
dục; Tác động đổi mới thi và tuyển sinh Đại học - Cao đẳng; Tác động các cuộc vận động và
phong trào thi đua trong ngành Giáo dục
- Về hình thức, các báo khảo sát cũng cải tiến cách viết bài cho phóng viên cũng như cách
biên tập bài báo sao cho ngắn gọn và đủ ý, nhiều thông tin bổ ích. Cho nên các tác phẩm báo chí
trên báo về GDĐT đã đi vào phản ánh vấn đề trọng tâm hơn, bỏ qua những nội dung phụ, tập
trung phản ánh những chi tiết đắt trong bài. Các bài viết đa phần cũng không đặt nặng về số từ để
tránh gây cảm giác quá vất vả cho người đọc. Các tin thường dao động trong phạm vi 200- 300
chữ. Các bài phản ánh, phân tích, bài phỏng vấn chuyên gia thường trong không quá 900 - 1200
chữ. Độ dài này rất phù hợp với đặc điểm của báo giấy và thói quen tiếp nhận thông tin của công
chúng hiện nay.
Các bài viết được trình bày dễ nhìn. Đầu đề được in đậm, phóng to, sapo được in đậm, các
đoạn được ngắt quãng hợp lý, không dài quá khiến người đọc mệt mỏi và có thời gian nghỉ cần
thiết, đồng thời các nội dung khác nhau cũng được chia tách rõ ràng. Ngoài ra, hình ảnh minh
họa sử dụng phù hợp, chú thích ảnh được in nghiêng, dễ nhìn. Đặc biệt, báo đã tận dụng tối đa


20


20

tính tương tác của báo chí hiện đại. Các bài đều có địa chỉ của hòm thư điện tử để nhận và trả lời
phản hồi của độc giả.
Những hạn chế
Hạn chế về nội dung:
- Nội dung về thông tin giáo dục và đào tạo phần lớn là phản biện, góp ý (đây là một chức
năng của báo chí hết sức quan trọng và ý nghĩa đối với sự phát triển của giáo dục) những nội
dung này chiếm quá lớn làm cho độc giả có cảm giác đọc về giáo dục chỉ có mà xám. Trong khi
đó, báo chí thực hiện các chức năng thông tin về giáo dục và đào tạo còn là thông tin góp phần
phổ biến, nâng cao kiến thức, động viên, cổ vũ thầy và trò dạy tốt, học tốt.
- Việc phản ánh, phân tích góp ý chuyên sâu lĩnh vực giáo dục đào tạo đôi khi còn có
những bài chưa phân tích ở nhiều góc độ khách quan về chủ trương, chính sách, pháp luật và thực
tế dẫn đến người đọc khó hiểu hoặc dẫn đến hoang mang cho học sinh, sinh viên.
- Nhiều đề tài chưa hay, chưa hấp dẫn, đề tài nhỏ lẻ, vụn vặt. Các chủ đề, đề tài phân phối
không đồng đều.
- Phản ánh các cuộc vận động và phong trào trong ngành giáo dục chưa đầy đủ và quá chú
trọng vào việc tìm kiếm những việc làm tiêu cực hay những vụ việc nhỏ lẻ.
- Nhiều bài viết còn khá hời hợt, viết nội dung mang tính chủ quan, dựa trên quan điểm
riêng của tác giả khiến bài viết thiếu sức thuyết phục. Nhiều bài viết đặt ra vấn đề nhưng không
giải quyết triệt để, kết bài vội vàng gây hụt hẫng cho độc giả.
- Ngôn ngữ sử dụng trong cách rút “tít” chưa mang tính giáo dục, dễ làm cho người đọc
hiểu theo nhiều nghĩa.
- Hạn chế về tính thời sự và tính phản biện của báo ngành.
Hạn chế về hình thức:
- Tính hấp dẫn trong trình bày của mỗi tờ báo còn hạn chế.
- Bố trí sắp xếp thông tin chưa hợp lý.
- Hình thức, phương thức thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in hiện nay còn khá
khô cứng, dập khuôn, ít cải tiến.

- Các đề tài, chủ đề, vấn đề phản biện các báo in chưa thông tin chuyên sâu, đa chiều.
- Thông tin về GDĐT vẫn còn rất nhiều những “hạt sạn” trong việc sử dụng ảnh như ảnh
kém chất lượng, ảnh chụp chưa đẹp.
Nguyên nhân ảnh hưởng đến thông tin về giáo dục đào tạo trên báo in
Nguyên nhân thành công
- Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về GDĐT


21

21

- Báo chí có vai trò, sứ mệnh quan trọng trong hoạt thông tin về giáo dục và đào tạo.
- Báo chí được sự quan tâm, chỉ đạo đặc biệt của các ngành, các cấp đặc biệt là Bộ Giáo dục
và Đào tạo trong quá trình khai thác và chuyển tải thông tin. Bộ tạo cơ chế cung cấp thông tin
kịp thời cho các báo như gửi các thông tư, chỉ thị… về những quy định mới trong GDĐT, tổ chức
họp báo để thông báo những sự kiện, vấn đề quan trọng… đây là những cơ sở quan trọng để các
báo thông tin chính xác đến công chúng.
Nguyên nhân hạn chế
- Một bộ phận phóng viên còn yếu về phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, thiếu cập nhật những kiến thức mới nên chưa đáp yêu cầu thông tin về GDĐT trong tình
hình mới.
- Tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường
Những phân tích trong Chương 2 là cơ sở để tác giả luận văn xác định những vấn đề cần
khắc phục, từ đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin về GDĐT trên báo
in ở Việt Nam.
Chương 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA, GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ THÔNG TIN VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRÊN BÁO IN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Từ nghiên cứu lý luận và khảo sát đánh giá phân tích của chương 1 và 2, trong Chương 3
NCS đã đưa ra những vấn đề đặt ra đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in, nhất là

trong bối cảnh sự phát triển của khoa học công nghệ với sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình
báo chí khác đang cạnh tranh quyết liệt hiện nay, đòi hỏi báo in phải đặt ra các vấn đề thực tế và
nhìn nhận nghiêm túc để đổi mới phát triển trong thời gian tới.
Từ những nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả cũng đã đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao chất lượng của báo in trong thực hiện thông tin về giáo dục và đào tạo. Theo đó
NCS cũng đưa ra mô hình thông tin cho báo in hiện đại để vừa phát huy thế mạnh của báo in
trước sự cạnh tranh rất mạnh mẽ của các loại hình báo chí khác, vừa phát huy thế mạnh của việc
thông tin về lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
+ Mô hình thông tin giáo dục và đào tạo phải được ứng dụng theo cách tổ chức chuyên
trang, trong đó có các chuyên mục, mục được mở ra linh hoạt theo tính thời sự, thực tế quan tâm
của công chúng, xã hội, sự luân chuyển thông tin giáo dục và đào tạo phù hợp, linh hoạt ở trang
thời sự và các trang khác. Riêng báo chuyên sâu về giáo dục, thì phải thể hiện về nội dung, hình
thức đặc thù, chuyên sâu và sự khác biệt, độc đáo thông tin về giáo dục và đào tạo. Tính thời sự
trong TT về GDĐT trên báo in là cần thiết vì nó đáp ứng được nhu cầu của công chúng hiện đại
luôn muốn tiếp nhận cái mới, tuy nhiên tính thời sự trên báo in không thể cạnh tranh với các loại
hình khác như phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử, do vậy báo in cần phát huy thế mạnh


22

22

của mình là kết hợp tính thời sự cùng với phản ánh thông tin một cách sâu sắc để đưa đến cho
công chúng một “cái nhìn” toàn diện về sự việc, vấn đề mới, nóng.
+ Mô hình thông tin về giáo dục và đào tạo phải tổ chức đội ngũ cán bộ biên tập viên, đặc
biệt phóng viên có am hiểu, kiến thức chuyên sâu về quản lý và hoạt động giáo dục và đào tạo.
Đây là một điều kiện để nâng cao chất lượng thông tin cũng như thực hiện đổi mới mô hình đặc
thù, độc đáo, sự khác biệt của thông tin về giáo dục và đào tạo.
+ Nội dung thông tin: các đề tài, chủ đề phải đảm bảo đúng quan điểm, chủ trương, chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước; nội dung thông tin về giáo dục và đào tạo trong đó phản

ánh các sự kiện, vấn đề phải mang tính thời sự, đồng thời nêu các sự vật, hiện tượng, nhân vật chi
tiết phải chân thật, khách quan, tính giáo dục cao và có ý nghĩa xã hội; nội dung đảm bảo được
luận điểm, luận cứ khoa học; Nội dung đảm bảo tính nhân văn, giáo dục và văn hóa.
+ Hình thức thông tin: thông tin giáo dục và đào tạo phải thể hiện được đặc thù của báo
in, trình bày đẹp, hấp dẫn, khoa học, hiện đại mang tính giáo dục, phát hành nhanh chóng. Các
báo cần cần tăng cường lượng công chúng bằng cách đăng tải các bài về GDĐT lên các trang
mạng xã hội, liên kết để thông tin cùng với các loại hình báo chí khác, như báo điện tử hay kênh
phát thanh truyền hình trong cùng cơ quan báo chí. Khi đăng tải thông tin về GDĐT trên trang
mạng xã hội hay báo mạng, cần ứng dụng khoa học công nghệ vào việc in ấn để đảm bảo sức hấp
dẫn như sử dụng nhiều cách thức mới trong trình bày bài báo như inforgraphic, video, ảnh …
Chuyên trang, chuyên mục phản ánh sâu sắc

Nội dung mang tính đặc thù

TT GDĐT trên báo in

Hình thức hấp dẫn, liên kết mạng XH và các loại
hình BC

Phóng viên am hiểu chuyên sâu

Hình 3.1 . Mô hình thông tin GDĐT trên báo in
Bên cạnh đó, tác giả cũng đã đưa ra các khuyến nghị khoa học về nhận thức tầm quan
trọng của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in; cơ chế, chính sách và nguồn lực đảm bảo
thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in. Đồng thời nêu giải pháp về nguồn nhân lực, gồm:


23

23


nâng cao năng lực, phẩm chất đội ngũ cán bộ quản lý báo chí ở các cơ quan Đảng, Nhà nước;
nâng cao năng lực, phẩm chất đối với ban biên tập, cán bộ biên tập và tòa soạn báo; nâng cao
năng lực, phẩm chất đội ngũ nhà báo trực tiếp thông tin về giáo dục và đào tạo.
Đây là những nhóm giải pháp cơ bản được nêu trên cơ sở lý luận và thực tiễn, khi được
thực hiện đồng bộ thì các báo in nói riêng và báo chí nói chung sẽ phát huy tốt nhất các chức
năng báo chí trong việc thực hiện thông tin về giáo dục và đào tạo. Theo đó báo in khẳng định vị
thế, thế mạnh cũng như thông tin về lĩnh vực giáo dục và đào tạo luôn được Đảng, Nhà nước ta
coi là quốc sách hàng đầu, luôn là lĩnh vực được mọi người dân, mọi gia đình quan tâm.
KẾT LUẬN
Thông tin về giáo dục và đào tạo của báo in góp phần quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước về giáo dục, đặc biệt là thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào
tạo trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, hiệu quả vẫn còn có những
hạn chế trong việc thông tin về giáo dục ở cả hai phía Báo chí và ngành Giáo dục. Việc khảo sát,
phân tích một cách khoa học thực trạng để chỉ ra được những mặt tích cực và hạn chế, cơ hội,
thách thức cho báo in thực hiện tốt thông tin về giáo dục và đào tạo.
Từ thực tiễn nghiên cứu, khảo sát và phân tích, công tình này đạt được những kết quả
chính sau:
1. Luận án đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về thông tin về giáo dục và đào tạo, báo
chí nói chung, báo in nói riêng như: Các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu; đặc điểm và
vai trò của thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in; cơ sở chính trị, pháp lý và những yêu cầu
cần có đối với thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in. Khung lý thuyết cộng với cơ sở thực
tiễn làm nền tảng cho việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề liên quan đến công tác thực hiện ở
mảng đề tài thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí.
2. Thông qua phương pháp điều tra xã hội học, luận án tiến hành khảo sát, tìm hiểu thông
tin về giáo dục đào tạo trên báo in để đánh giá đúng chất lượng thông tin và vị trí của báo in trong
hệ thống truyền thông đại chúng hiện nay. Tác giả tìm hiểu công chúng ở 3 thành phố lớn là Hà
Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Từ những kết quả thu được thông qua bảng hỏi và phỏng
vấn sâu, luận án chỉ ra những thông số ban đầu về chất lượng và nhu cầu TT về GDĐT từ công

chúng; Báo đã trở thành diễn đàn của mọi người dân, nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản lý và của
toàn xã hội về chính sách và hoạt động đổi mới giáo dục. Thông qua các tác phẩm báo chí và
biến nó thành một sức mạnh mềm buộc các cơ quan công quyền phải vào cuộc.
3. Qua phân tích các nội dung và hình thức thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in đã
cho thấy, thông tin về GDĐT trên báo in ngày càng tăng về quy mô, số lượng và chất lượng,
phong phú về thể loại, nội dung và đổi mới phương thức thể hiện. Đặc biệt là việc báo chí phản


24

24

ánh gắn với đặc thù lĩnh vực khoa học giáo dục với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, chuyên
gia, nhà giáo. Điều này chứng tỏ cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, giáo dục đào tạo luôn
được Đảng, Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu và đang có sự đổi mới quyết liệt trong nhiều
năm qua. Việc triển khai đổi mới một lĩnh vực liên quan đến mọi người, mọi gia đình và thực
hiện không chỉ ngành giáo dục mà cả hệ thống, toàn xã hội. Vì vậy, định hướng đúng đắn các chủ
trương đổi mới về giáo dục, góp ý, phản biện những hạn chế trong quản lý, cách dạy, cách học…
là hết sức quan trọng của các cơ quan báo chí, trong đó có báo in. Do đó, nâng cao chất lượng
thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in là hết sức cần thiết.
Khảo sát và phân tích các báo in cũng cho thấy, thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in rất
sâu rộng, đa dạng, các vấn đề đặt ra bám sát chủ trương của Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục, sát với
bối cảnh thực tế hoạt động giáo dục, những ghi nhận về thành tích cũng như hạn chế, bất cập trong
giáo dục đều được các báo in đề cập, tạo diễn đàn với sự đóng góp tích cực, xây dựng của dư luận.
Tuy nhiên, cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, bất cập nhất định của mỗi mỗi báo.
4.Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, phân tích, đánh giá thực tế của báo in cũng
thấy được hạn chế về nội dung như: tổng thể nội dung còn thiên lệch nhiều về phản biện, góp ý;
Việc phản ánh, phân tích góp ý chuyên sâu lĩnh vực giáo dục đào tạo đôi khi còn có những bài
chưa phân tích ở nhiều góc độ khách quan về chủ trương, chính sách, pháp luật và thực tế dẫn
đến người đọc khó hiểu hoặc dẫn đến hoang mang cho học sinh, sinh viên… Về hình thức còn

hạn chế tính hấp dẫn trong trình bày của mỗi tờ báo. Thực tế báo in đã làm rất tốt chức năng giám
sát phản biện xã hội về giáo dục đào tạo, tuy nhiên vẫn còn có nhiều rào cản nhất định, trong đó
có rào cản về việc chưa có hệ thống pháp luật đủ mạnh để báo in nói riêng và báo chí nói chung
thực hiện chức năng giám sát và phản biện trong các hoạt động giáo dục và đào tạo một cách hiệu
quả nhất.
5. Luận án đã nêu ba vấn đề đặt ra và đề xuất hai nhóm giải pháp chung và cụ thể nhằm
nâng cao hiệu quả thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt Nam hiện nay. Trong đó chỉ
ra cách thức thực hiện cho nhóm giải pháp cụ thể bao gồm: Ứng dụng mô hình thông tin; Đổi
mới nội dung thông tin; Đổi mới hình thức thông tin.
Đối với các khuyến nghị khoa học, tác giả tập trung vào 3 nhóm nội dung là: Nhận thức tầm
quan trọng của TT về GDĐT trên báo in; Nâng cao năng lực, phẩm chất đội ngũ nhà báo trực tiếp
thông tin về GDĐT; Cơ chế, chính sách và nguồn lực đảm bảo thông tin về GDĐT trên báo in.
Kiến nghị về những nghiên cứu tiếp theo
Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo chí nói chung, báo in nói riêng là vấn đề nghiên
cứu chuyên một lĩnh vực, còn khá ít công trình nghiên cứu chuyên sâu trước và khá mới mẻ ở
Việt Nam, là một lĩnh vực quan trọng và cũng rất rộng lớn nên cũng còn nhiều vấn đề chưa có kết
luận cuối cùng. Do đó, công trình nghiên cứu Thông tin về giáo dục và đào tạo trên báo in ở Việt


25

25

Nam hiện nay (Khảo sát trên 4 báo Nhân dân, “Tuổi trẻ”, Thanh niên và Giáo dục và Thời đại)
mới đạt được những kết quả bước đầu, còn nhiều vấn đề đặt ra còn phải tiếp tục nghiên cứu ở các
công trình khác ngày càng hoàn thiện hơn. Tác giả mong muốn việc tìm hiểu thông tin về GDĐT
được thực hiện thường xuyên hơn, thông qua các công trình nghiên cứu khoa học các cấp, các
luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, với các hướng nghiên cứu tiếp theo là:
+ Tìm hiểu thông tin về GDĐT trên các loại hình báo chí, như báo phát thanh, báo truyền
hình, báo mạng…

+ Tìm hiểu nhu cầu và điều kiện tiếp nhận thông tin của công chúng về lĩnh vực GDĐT ở
các tỉnh, thành phố và trên phạm vi cả nước, trên cơ sở đó tiến tới tìm giải pháp hiện thực hoá các
điều kiện nhằm thoả mãn nhu cầu thông tin về GDĐT của công chúng.
+ Nghiên cứu các mô hình TT về GDĐT của các nước trên thế giới. Từ đó so sánh với mô
hình của nước ta và rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá.
Vẫn còn có những vấn đề khác rất quan trọng đang cần được tiếp tục triển khai nghiên
cứu tiếp. Chúng tôi hy vọng rằng những kết quả của luận án sẽ đặt những cơ sở cần thiết cho
những nghiên cứu tiếp sau.
Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả đã có những thuận lợi cụ thể như: Đã có một số
công trình như sách, luận văn, một số công trình nghiên cứu khoa học tìm hiểu về lĩnh vực
GDĐT và TT về GDĐT; tác giả nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Thầy cô giáo, các nhà khoa
học ở Học viện Báo chí, các nhà báo ở các cơ quan báo chí nói chung và cơ quan báo chí khảo
sát nói riêng, đặc biệt là sự cộng tác nhiệt tình của các nhà báo, đồng nghiệp trong quá trình viết
luận án; Hai giáo viên hướng dẫn luận án đều hoạt động trong lĩnh vực báo chí truyền thông có
chuyên môn cao, đã có những chỉ bảo tận tình giúp tác giả hiểu vấn đề nghiên cứu và hoàn thiện
luận án một cách tốt nhất.
Tuy nhiên, tác giả cũng gặp một số khó khăn nhất định như chưa nhiều công trình khoa
học lớn nghiên cứu về thông tin GDĐT trên báo in, đặc biệt là các nghiên cứu về các mô hình
thông tin về GDĐT và tiêu chí đánh giá về chất lượng TT về GDĐT trên báo in. Thông tin về
GDĐT trên các báo chưa được đề cao, nhiều lúc các báo còn tập trung thời lượng cho các thông
tin nóng mang tính câu khách. Bản thân chưa có kinh nghiệm, lần đầu tiên đứng trước một công
trình khoa học lớn nên chắc chắn còn nhiều sai sót. NCS rất mong được tiếp tục nhận được các ý
kiến chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo, nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý để chỉnh sửa
hoàn thiện Luận án.
Tác giả trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn, tạo
điều kiện tốt nhất trong quá trình tác giả thực hiện Luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!



×