Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng Xói mòn đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
-TÌNH HÌNH XÓI MÒN ĐẤT TRÊN THẾ GIỚI
-TÌNH HÌNH XÓI MÒN ĐẤT Ở VIỆT NAM
1.Xói mòn đất:
1.1Khái niệm
1.2Phân loại
1.3Các kiểu xói mòn
2.Nguyên nhân:
2.1Xói mòn do gió
2.2Xói mòn do nước
2.3Xói mòn do trọng lực
2.4Xói mòn đất do các hoạt động sản xuất và quản lý của con người
3.Tác hại của xói mòn:
3.1.Mất đất do xói mòn
3.2.Mất dinh dưỡng
3.3.Tác hại đến sản xuất
3.4.Tác hại đến môi trường
4.Giải pháp hạn chế xói mòn đất:
4.1.Một số biện pháp công trình nhằm hạn chế xói mòn
4.2.Biện pháp nông nghiệp
4.4.Biện pháp hóa học
4.5.Biện pháp canh tác khống chế và giảm thiểu xói mòn.
KẾT LUẬN
BIỆN PHÁP CỦA NHÓM


MỞ ĐẦU
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là thành phần quan trọng hàng đầu của
môi trường sống. Trong sản xuất nông nghiệp đất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư
liệu sản xuất không thể thay thề được. Do vậy, lĩnh vực đánh giá tài nguyên đất rất


được quan tâm nhằm đề ra các phương pháp sử dụng đất hợp lý trên mỗi vùng lãnh
thô nhất định.
Trên quan điểm sinh thái và mội trường, đất là nguồn tài nguyên tái tạo, một vật thể
sống động, một “vật mang”của hệ sinh thái tồn tại trên Trái Đất. Đất là tư liệu sản
xuất, là đối tượng lao động, là vật mang đặt thù bởi tính chất độc đáo mà không vật
thể tự nhiên nào có được đó là phì nhiêu. Chính nhờ tính chất này mà các hệ sinh thái
đã và đang tồn tại, phát triển, kết trái và xét cho cùng, cuộc sống của loài người cũng
phụ thuộc vào tính chất độc đáo này của đất.
Đất cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng, cung cấp lương thực cho người và động
vật để bảo tồn sự sống. Đất còn cung cấp các sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu khác
của con người như bông, gỗ xẻ, dược liệu, .v.v
Cuộc sống của con người phụ thuộc rất nhiều vào lớp đất trồng trọt để sản xuất ra
lương thực, thực phẩm và các nguyện liệu sản xuất công nghiệp phục vụ cho cuộc
sống của mình. Tuy nhiên lớp đất có khả năng canh tác này lại luôn chịu những tác
động mạnh mẽ của tự nhiên và các hoạt động canh tác do con người. Những tác động
này có thể làm chúng thoái hóa và mất dần đi khả năng sản xuất, một trong những
nguyên nhân làm cho đất thoái hóa mạnh nhất là do xói mòn. Hiện tượng mất đất do
xói mòn mạnh hơn rất nhiều so với sự tạo thành đất trong quá trình tự nhiên, một cài
cm đất có thể mất đi chỉ trong một vài trận mưa, giông hoặc gió lốc trong khi đó để có
thể có vài cm đất đó cần phải có thời gian hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm
mới tạo ra được. Trên thế giới hầu như không có quốc gia nào là không chịu ảnh
hưởng của xói mòn, nhất là do ảnh hưởng xói mòn của nước và gió.
Việt Nam là nước ¾ diện tích đất ở vùng đồi núi, có độ dốc cao, lượng mưa lớn
(1800-2000mm/năm) tập trung vào 4-5 tháng mùa mưa với lượng mưa chiếm tới 80%
tông lượng mưa, thì hiện tượng xói mòn đất luôn xảy ra và gây hậu quả nghiêm trọng.
-TÌNH HÌNH XÓI MÒN ĐẤT TRÊN THẾ GIỚI:
Ở vùng nhiệt đới và xích đạo, sự thành lập tầng đất mặt mới ước lượng khoảng 2.5cm
trong 500 năm, trong khi đó sự xói mòn trên đất canh tác có tỷ lệ gấp 18-100 lần sự
thành lập tầng đất mặt mới trong tự nhiên. Sự xói mòn đất cũng xãy ra ở đất rừng
nhưng ít nghiêm trọng hơn đất canh tác nông nghiệp. Mặc dù vậy nhưng việc quản lý,

bảo vệ chống lại sự xói mòn đất rừng cũng là điều hết sức được quan tâm vì tỷ lệ tái
tạo đất rừng thấp hơn 2-3 đất canh tác.
Hiện trạng thế giới ngày nay, sự xói mòn đất mặt của đất canh tác có tốc độ lớn hơn sự
đồi mới thành lập tầng đất mặt, phần lớn tầng đất mặt bị rửa trôi, được đưa vào sông,


hồ, đại dương, người ta ước tính được trên thế giới có khoảng 7% lớp đất mặt của đất
canh tác bị rửa trôi trong một chu kỳ là 10 năm.
Tài nguyên đất hiện bị suy giảm do áp lực tăng dân số (200.000 người/ngày), giảm
diện tích đất trồng để xây nhà (đô thị hóa), làm đường cao tốc và nhà máy công
nghiệp (tại Mỹ khoảng 2 triệu vùng đất trồng được dùng để phát triển đô thị, một triệu
vùng bị ngập nước), đất bị xói mòn do gió và nước.
Trước tình hình này để đủ lượng lương thực nuôi sống nhân loại ngày nay càng tăng,
con người đã sử dụng lượng phân bón gấp 9 lần, thủy lợi gấp 3 lần trong các thập niên
từ 1950-1987, điều này tạm thời đã che dấu được suy thoái đất. Tuy nhiên thực tế
phân bón không đủ chất để phục hồi lại độ phì nhiêu của đất như đất tự nhiên được vì
có những chất không thể tông hợp được bằng các phản ứng hóa học, điều này chứng
tỏ nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt hơn.
Tỉ lệ xói mòn tùy theo địa hình, sự kết cấu của đất, tác động của mưa, sức gió, dòng
chảy, đối tương canh tác. Sự xói mòn đất do hoạt động của con người xảy ra rất nhanh
ở các quốc gia như Ấn Độ, Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ tính chung các quốc gia này sản
xuất hơn 50% số lương thực trên thế giới và số dân cũng chiếm 50% số dân trên thế
giới. Ở Trung Quốc theo báo cáo hàng năm mặt đất bị bào mòn trung bình 40 tấn cho
mỗi hecta, trong cả nước có 34% diện tích đất bị bào mòn đất làm sông bị lấp đầy bùn
là một vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra ở đây, trong cả nước có khoảng 25% diện tích
đất bị bào mòn mạnh. Ở Nga theo ước tính của The World Watch Institule là nơi có
diện tích đất canh tác lớn nhất và có tầng đất mặt bị xói mòn nhiều nhất thế giới.
Ở Hoa Kỳ theo điều tra của SCS (Soil Conservation Service) ước tính khoảng 1/3 tầng
đất mặc canh tác bị rửa trôi vào sông, hồ, biển tỉ lệ xói mòn trung bình là 18 tấn/ha
còn ở Iowa và Missouri hơn 35 tấn/ha. Các chuyên gia cho rằng sự xói mòn tầng đất

mặt diễn ra hàng năm ở Hoa Kỳ đủ để phủ đầy một đầm dài 5600km (3500 dặm) làm
mất đi gần ¼ lớp canh tác trong cả nước, tính ra sự hao phí chất dinh dưỡng cho cây
do sự xói mòn xảy ra hàng năm trị giá 18 tỷ USD. Các nhà nghiên cứu ước tính rằng
nếu không có những biện pháo bảo vệ đất chống lại sự xói mòn thì khoảng chừng 50
năm tới diện tích đất canh tác bị xói mòn tương đương với các ban New York, New
Yersy, Maine, New Hampshire, Massachusetts và Connecticut.
Dân ngheo ngày càng tăng thì sự canh tác cũng tăng theo, đó cũng là nguyên nhân làm
tăng sự xói mòn của đất. Sự xói mòn đất không chỉ là vấn đề do hoạt động canh tác
mà còn do sự quản lý và sử dụng không hớp lý đất rừng, đất đồng cỏ, mà còn do các
hoạt động xây dựng của con người theo sự gia tăng dân số (hoạt động xây dựng làm
xói mòn đất chiếm khoảng 40% đất bị xói mòn). Mặc khác hậu quả của sự xói mòn
còn làm trở ngại sự vận chuyện đường thủy, làm giảm sức chứa cùa các đập thùy điện,
xáo trộn cuộc sống hoang dã của các loài sinh vật…từ đó ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái tự nhiên.


- Tuy nhiên hiện nay người ta chưa đưa ra một phương pháp nào để bảo vệ đất chống
sự xói mòn một phương pháp nào để bảo vệ đất chống sự xói mòn một cách có hiệu
quả, nên đây là một vấn đề cần được quan tâm.
-TÌNH HÌNH XÓI MÒN ĐẤT Ở VIỆT NAM:
Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới ẩm và có lượng mưa tương đối lớn (từ 18002000mm) nhưng lại phân bố không đồng đều và tập trung chủ yếu trong các tháng của
mùa mưa từ tháng 4-5 đến tháng 10 riêng vùng duyên hải miền trung thì lượng mưa
bắt đầu và kết thúc muộn hơn từ 2-3 tháng. Lượng mưa lớn tập trung lại tạo thành
dòng chảy có cường độ rất lớn, đây là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng xói mòn
đất ở Việt Nam. Hang năm nước của các con sông mang phù xa đô vào biển Đông
khoảng 200 triệu tấn, người ta ước tính trung bình 1m 3 chứa 50g-400g phù xa, riêng
đồng bằng sông Hồng 1000g/m3 và có khi đạt 2000g/m3.
Với tông diện tích đất tự nhiên 33.121 triệu ha, với khoảng 25 triệu ha đất dốc, chiếm
hầu hết lãnh thô miền núi và trung du. Cùng với những biến dộng của môi trường thì
Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thoái hóa đất do xói mòn rửa trôi là rất lớn.

Nguyên nhân chính dẫn đến sự xói mòn đất là do sự khai thác phá rừng để lấy gỗ và
lấy đất canh tác. Từ năm 1983-1994 trên cả nước ta có khoảng 1,3 triệu hecta rừng đã
bị khai thác để lấy gỗ và lấy đất trồng trọt, gây nên sự xói mòn và rửa trôi lớp đất mặt
làm cho đất ở các nơi này ngày càng trở nên bạc màu. Chỉ tính riêng cho các vùng
phía bắc sông Hồng và dọc theo dãy Trường sơn thì đã có khoảng 700000 ha đất bị
bạc màu.
Sự xói mòn do gió mặc dù xảy ra ít nghiêm trọng hơn nhưng cũng là vấn đề đáng
quan tâm ở các vùng duyên hải, vùng trung du và vùng núi. Để giảm bớt sự xói mòn,
nhiều biện pháp đã được thực hiện như trồng cây chắn gió, khôi phục lại rừng ở đầu
nguồn và trồng cây gây rừng, phủ các đồi trọc…
Các số liệu thống kê hiện trạng sử dụng đất năm 2008 cho thấy, Việt Nam có khoảng
25 triệu ha đất dốc nên nguy cơ xói mòn và rửa trôi đất rất lớn. Theo các quan trắc có
hệ thống từ năm 1960 đến nay thì có khoảng 10-20% lảnh thô bị ảnh hưởng xói mòn
từ trung bình đến mạnh. Đặt biệt là khu vực miền núi và trung du. Do thảm thực vật
che phủ bị tàn phá đã dẫn đến hiện tượng sụt lở đất, làm giảm diện tích đất đồi, thu
hẹp đất ruộng. Quan trắc ở 14 khu vực thuộc Phú Thọ, Bắc Kạn, Thái nguyên, Đắk
Lắk cho thấy tỉ lệ mất đất tới 1-2% năm. Kết quả nghiên cứu về xói mòn đất của Hội
Khoa học đất Việt Nam ở huyện Quỳnh Nhai -Sơn La cũng cho phép ước tính lượng
đất mất hàng năm lên tới hơn 800 nghìn tấn, thiệt hại mỗi năm khoảng trên 15 tỷ
đồng.
Không chỉ bị xói mòn, rữa trôi, các kết quả nghiên cứu cũng đưa ra những con số giật
mình: Trên 50% diện tích đất tự nhiên của cả nước (3,2 triệu ha đất đồng bằng, 13
triệu ha đất đồi núi) có nguy cơ bị thoái hóa.


Tình trạng xói mòn và rửa trôi đất đang đe dọa trực tiếp tới sự phát triển kinh tế. Ước
tính, mất mát do canh tác nương rẫy và quảng canh ở Việt Nam (trong diện tích 2,6
triệu ha) không dưới 700 triệu USD so với diện tích như vậy không bị thoái hóa. Và
con số này dường như ngày một gia tăng. Tốc độ hủy hoại bởi chính bàn tay con
người ngày một tăng mặc cho những nô lực không ngừng của rất nhiều tô chức trong

và ngoài nước.
Xói mòn là hoạt động của các quá trình bề mặt (như nước hoặc gió) làm phong hóa và
vận chuyển hợp phần rắn (trầm tích, đá, đất, …) trong môi trường tự nhiên hoặc từ
nguồn và lắng đọng ở vị trí khác.
Xói mòn được phân biệt với phong hóa bởi quá trình hóa học hoặc vật lý phân hủy các
khoáng vật trong đá, mặc dù hai quá trình này có thể xuất hiện đồng thời.
- Xói mòn do nước
- Xói mòn do gió
Nguyên nhân quá trình xói mòn.
–Yếu tố khí hậu (Climate factors): mưa, gió, bão, nhiệt độ, …
–Yếu tố địa chất (geologic factors): loại đá/trầm tích, độ dốc, độ lỗ rỗng, nứt nẻ, hệ số
thấm, …
–Yếu tố sinh học (biological factors): độ bao phủ bề mặt, hoạt động của sinh vật, sử
dụng đất, …
–Do trọng lượng: Di chuyển từ nơi cao xuống nơi thấp hơn
–Do nước:
+ Splash erosion: do những giọt mưa rơi xuống làm di chuyển các hạt vật liệu
tới khoảng cách khác.
+ Sheet erosion: nước mưa chảy tràn kéo theo các hạt vật liệu theo đường di
chuyển của dòng chảy
+ Khe xói mòn (rill erosion): nước tập trung trong các khe nhỏ và kéo theo vật
liệu theo dòng chảy.
+ Rãnh xói mòn (gully erosion): kết quả của khe xói mòn theo thời gian.
–Dọc bờ biển: Hoạt động của sóng
+Do băng (ice erosion):
+Do gió (wind erosion):
+Do nhiệt (thermal erosion): tan chảy băng, thay đôi nhiệt độ


Bản đồ thế giới thể hiện các khu vực dễ bị tôn thương bởi tốc độ xói mòn cao do

nước.
Xói mòn là một quá trình tự nhiên tuy nhiên ở một vài nơi quá trình này diễn ra nhanh
hơn do tác động từ việc sử dụng đất của con người.

1.XÓI MÒN ĐẤT:
1.1Khái niệm:
Xói mòn đất là quá trình làm mất lớp đất trên mặt và phá hủy các tầng đất bên dưới do
tác động của nước mưa, băng tuyết tan hoặc do gió. Đối với sản xuất nông nghiệp thì
nước và gió là hai tác nhân quan trọng nhất gây ra xói mòn và các tác nhân này có
mức độ ảnh hưởng tăng giảm khác nhau theo các hoạt động của con người đối với đất
đai.

1.2Phân loại:
Gồm 2 loại xói mòn xói mòn vật lý và xói mòn hóa học
-Xói mòn vật lý:


Là sự tách rời và di chuyển những phân tử đất không tan như cát, sét , bùn và hợp chất
hữu cơ. Sự di chuyển được xảy ra có thể theo phương nằm ngang trên bề mặt hoặc
cũng có thể theo phương thẳng đứng dọc theo bề dày của phẫu diện đất qua các khe
hở, kẽ nứt lỗ hông có sẵn trong đất.
-Xói mòn hóa học:
Là sự di chuyển của vật liệu hòa tan. Xói mòn hóa học có thể xảy ra do tác động của
dòng chảy ngầm từ tầng này đến tầng khác.

1.3Các kiểu xói mòn:
Có hai kiểu xói mòn đất chủ yếu là xói mòn do nước và xói mòn do gió.
- Xói mòn do nước:
Kiểu xói mòn do nước gây ra do tác động của nước chảy tràn trên bề mặt (nước mưa,
băng tuyết tan hay tưới tràn). Hiện tượng xói mòn do nước gây ra đối với đất sản xuất

nông nghiệp thường mạnh nhất ở các bề mặt đất trống, sau khi làm đất chuẩn bị gieo
trồng. Ðể xảy ra xói mòn, nước cần có năng lượng để tách các hạt đất, rồi sau đó vận
chuyển chúng đi. Mưa và nước có thể tách được các hạt đất song việc vận chuyển
được chúng đi bao xa phải phụ thuộc vào dòng chảy. Tác động của mưa gây ra xói
mòn đối với đất gồm các tác động va đập phá vỡ, làm tách rời các hạt đất và sau đó
vận chuyển các hạt đất bị phá hủy theo các dòng chảy tràn trên mặt đất. Dòng chảy
của nước có thể tạo ra các rãnh xói, khe xói hoặc bị bóc theo từng lớp, người ta chia
kiểu xói mòn do nước gây ra thành các dạng: Xói mòn thẳng là sự xói lở đất, đá mẹ
theo những dòng chảy tập trung, ăn sâu tạo ra các rãnh xói và mương xói. Xói mòn
phẳng là sự rửa trôi đất một cách tương đối đồng đều trên bề mặt do nước chảy dàn
đều, đất bị cuốn đi theo từng lớp, phiến. Khi lớp đất trên bề mặt bị xói mòn thì rất khó
khôi phục và những thiệt hại của xói mòn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức sản
xuất của đất. Ví dụ một phép tính đơn giản nếu đất bị xói mòn 1cm đất thì trên 1 ha
đất mất đi 100m3 đất, tương đương 150 tấn, trong đó có 6 tấn mùn và 1,5 tấn đạm.
Trong khi đó, ở vùng nhiệt đới có những nơi xói mòn làm mất 3cm đất mặt hàng năm.
Riêng vùng đồi núi hàng năm bình quân mất đi khoảng 2cm điều này làm cho đất ở
đây bị thoái hóa nhanh chóng. Trên những vùng đất cao, dốc, mưa lớn còn tạo nên
những dòng chảy cực đại trên sườn dốc và ngoài việc bào mòn lớp đất mặt chúng còn
có khả năng tạo ra những dòng xói hoặc rãnh xói. Có rãnh sâu 5 - 6m tới tận lớp đá
mẹ và làm mất đi hoàn toàn khả năng sản xuất của đất đai.
-Tác động gồm các tác động va đập phá vỡ, làm tách rời các hạt đất và sau đó vận
chuyển các hạt đất bị phá hủy theo các dòng chảy tràn trên mặt đất.
-Dòng chảy của nước có thể tạo ra các rãnh xói, khe xói hoặc bị bóc theo từng lớp,
người ta chia kiểu xói mòn do nước gây ra thành các dạng:
+Xói mòn thẳng là sự xói lở đất, đá mẹ theo những dòng chảy tập trung, ăn sâu
tạo ra các rãnh xói và mương xói.


+Xói mòn phẳng là sự rửa trôi đất một cách tương đối đồng đều trên bề mặt do
nước chảy dàn đều, đất bị cuốn đi theo từng lớp, phiến.

Yếu tố ảnh hưởng lượng đất xói mòn:
Phương trình mất đất phô dụng:
A=R.K.L.S.C.P
Trong đó:
A-Lượng đất mất bình quân trong năm(tấn/ha/năm)
R-Yếu tố mưa và dòng chảy
K-Hệ số bào mòn của đất(tấn/ha/đơn vị chỉ số xói mòn)
L-Yếu tố chiều dài của sườn dốc
S-Yếu tố độ dốc
C-Yếu tố che phủ và quản lý đất
P-Yếu tố hoạt động điều tiết chống xói mòn
Yếu tố mưa và dòng chảy(R)
Đây là thước đo sức mạnh xói mòn của mưa và sức chảy tràn trên mặt. Yếu tố được
thể hiện qua tông lượng mưa và cường độ mưa.
Sự phân bố của mùa mưa cũng là yếu tố chi phối và quyết định đến lượng đất mất do
xói mòn. Những trận mưa lớn nếu xảy ra ở những thời điểm đất trống trải cũng là
nguyên nhân làm cho lượng đất bị mất nhiều hơn.
Hệ số xói mòn đất (K)
Hệ số xói mòn K thể hiện mức độ bị bào mòn vốn có của đất. Có hai đặc tính ảnh
hưởng và liên quan chặt chẽ tới hệ số xói mòn đó là khả năng thấm và sự ôn định về
mặt cấu trúc của đất. Khả năng thấm của đất, chịu ảnh hưởng chủ yếu bằng sự ôn định
của cấu trúc, đặc biệt là các tầng đất trên mặt và thêm vào đó là thành phần cơ giới,
hàm lượng hữu cơ trong đất.
Yếu tố địa hình (L, S)
Phản ánh chiều dài dốc và mức độ dốc.
Đất có độ dốc càng lớn khả năng xói mòn càng lớn bởi vì chúng làm tốc độ của dòng
chảy và lượng nước chảy tràn tang lên.
Chiều dài dốc cũng góp phần quan trọng đối với khả năng xói mòn đất bởi vì chúng
mở rộng diện tích nghiêng của dốc do nó tập trung nhiều lượng nước chảy trên mặt.
Yếu tố che phủ và quản lý (C)



Yếu tố này chỉ ra mức độ tác động của các hệ thống cây trồng và những khác biệt
trong quản lý sử dụng đất đối với lượng đất bị mất do sói mòn. Các rừng và đồng cỏ là
những hệ thống bảo vệ đất tự nhiên tốt nhất, tiếp đó là các loại cây trồng có khả năng
che phủ cao thường được trồng mật độ dày (họ đậu, …) có khả năng bảo vệ đất khá
tốt.
XÓI MÒN DO DÒNG NƯỚC MẶT GÂY RA TẠO RA CÁC DẠNG ĐỊA HÌNH:
- Rãnh nông - do nước chảy tràn.
- Khe rãnh xói mòn - do dòng chảy tạm thời.
- Thung lũng sông, suối - do dòng chảy thường xuyên.
- Xói mòn do gió
Kiểu xói mòn do gió là hiện tượng xói mòn gây ra bởi sức gió. Ðây là hiện tượng xói
mòn có thể xảy ra ở bất kì nơi nào khi có những điều kiện thuận lợi sau đây: Ðất khô,
tơi và bị tách nhỏ đến mức độ gió có thể cuốn đi Mặt đất phẳng, có ít thực vật che phủ
thuận lợi cho việc di chuyển của gió Diện tích đất đủ rộng và tốc độ gió đủ mạnh để
mang được các hạt đất đi Thông thường đất cát là loại đất rất dễ bị xói mòn do gió vì
sự liên kết giữa các hạt cát là rất nhỏ, đất lại bị khô nhanh. Ảnh hưởng của xói mòn do
gió gây ra khá phức tạp, đất bị chuyển dịch đi có thể dưới các hình thức nhảy cóc,
trườn trên bề mặt hoặc bay lơ lửng.
Xói mòn do gió chịu ảnh hưởng của các yếu tố:
-Tốc độ gió và sức cuốn của gió
-Điều kiện bề mặt đất
-Đặc tính của đất
-Tình trạng thực vật vhe phủ trên bề mặt đất
-Sự ôn định về các đặc tính cơ lý của đất như dung trọng, tỷ trọng và kích thước.

2.Nguyên nhân:
2.1 Xói mòn do gió:
Hiện tượng xói mòn đất do gió thường xảy ra ở những vùng đất có thành phần cơ giới

nhẹ như những vùng đất cát ven biển, đất vùng đồi bán khô hạn.
Mức độ xói mòn do gió mạnh hay yếu phụ thuộc vào ngững yếu tố sau:
- Tốc độ gió
-Thành phần cơ giớ của đất
- Độ ẩm đất
-Độ che phủ của thảm thực vật


2.2 Xói mòn do nước:
Xói mòn do nước là loại xói mòn do sự công phá của những hạt mưa đối với lớp đất
mặt và sức cuốn trôi của dòng chảy trên bề mặt đất. Đây là loại xói mòn ở những vùng
đất dốc khi không có lớp phủ thực vật, gây ra các hiện tượng xói mặt, xói rãnh, xói
khe.

Các nhân tố ảnh hưởng đến xói mòn do nước:
-Mưa: là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến xói mòn đất. Chỉ cần lượng mưa
trên 100mm, ở những nơi có độ dốc trên 10 0 là có thể gây ra hiện tượng xói mòn đất.
Giọt mưa công phá đất trực tiếp gây ra xói mòn, giọt mưa càng lớn sức công phá càng
mạnh.
-Đất: đất có độ thấm nước càng lớn thì càng hạn chế được xói mòn, vì lượng nước
dòng chảy giảm. Độ thấm nước phụ thuộc vào độ dày của lớp đất, thành phần cơ giới
của đất, kết cấu đất, …
-Địa hình: Độ dốc càng lớn thì độ xói mòn càng mạnh. Cường độ xói mòn còn phụ
thuộc vào chiều dài dốc: dốc càng dài khối lượng nước chảy, tốc độ dòng chảy, lực
quán tính càng tang, xói mòn càng mạnh.
-Độ che phủ thực vật: thảm thực vật có tác dụng ngăn chặn xói mòn nhờ làm tắt năng
lượng hạt mưa, làm chậm tích tụ nước, tạo kết cấu bền của thể đất, tăng mức độ thấm
nước của đất, tăng ma sát cơ học thông qua bộ rễ và thảm lá rụng.

2.3 Xói mòn do trọng lực:

Do đặc tính vật lý của đất là có độ xốp, đất có nhiều khe hở với nhiều kích thước khác
nhau và do lực hút của quả đất nên đất có khả năng di chuyển từ tầng đất trên bề mặt
xuống tầng đất sâu do chính trọng lượng của nó hoặc có thể là đất bị trôi nhẹ theo khe,
rãnh. Hay người ta gọi là hiện tượng rửa trôi đất theo chiều sâu của phẩu diện đất.

2.4 Xói mòn đất do các hoạt động sản xuất và quản lý của con người:


Nhịp độ tang dân số và phát triển kinh tế xã hội trong nhiều thập kỷ qua đã làm cãn
kiệt các nguồn tài nguyên đặc biệt là tài nguyên đất. con người với các hoạt động và
quản lý tài nguyên đất khác nhau đã góp phần gây ra xói mòn đất dẫn đến suy thoái
đất.
Các hoạt động và quản lý đất đã dẫn đến xói mòn đất: khai thác rừng không hợp lý,
phá rừng làm nương rẩy. Canh tác nông nghiệp không bền vững, cháy rừng, chặt phá
rừng, đốt nương làm rẫy chăn thả gia súc quá mức, canh tác không hợp lý trên đất dốc,
xây dựng đường điện, cầu cống, đường điện ở vùng núi không hợp lý, trồng rừng quy
mô lớn nhưng không chú ý đến hỗn loài và chọn loại cây thích hợp.

- Hậu quả của quá trình này là:
. Mất các chất dinh dưỡng
. Tầng đất mỏng đi
. Độ pH giảm mạnh và chất độc nhôm tăng cao
.Gây bùn lắng, làm giảm tuôi thọ các hồ chứa, bồi lấp các dòng chảy và cửa
biển, gây trở ngại cho giao thông đường thủy.

3. Tác hại của xói mòn
3.1. Mất đất do xói mòn
Lượng đất mất do xói mòn là rất lơn và phụ thuộc vào độ dốc, chiều dài sườn dốc,
thực trạng lớp phủ trên mặt đất, dao động từ 100 đến 500 tấn đất/ha/năm.


3.2. Mất dinh dưỡng
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp, đất đồi núi miền Bắc nước ta hàng năm mất khoảng
1cm tầng đất mặt (100m3/ha), trong đó có khoảng 6 tấn mùn (tương đương khoảng
100 tấn phân chuồng) và 300kg N (tương đương khoảng 1,5 tấn sunphat amon). Đặc
biệt, có nơi như Tây Bắc mất đi khoảng 3cm đất mặt, tương đương 150 - 300 tấn
đất/ha. Mỗi năm nước cuốn ra biển khoảng 250 triệu tấn phù sa màu mỡ, riêng song
Hồng mất đi khoảng 80 triệu m3/năm.


-Đất bị thoái hóa bạc màu
-Làm thay đôi tính chất vật lý của đất, đất trở nên khô cằn, khả năng thấm hút và giữ
nước của đất kém.
-Làm tôn hại đến môi trường sống của sinh vật, động thực vật đất, nên hạn chế khả
năng phân giải của chúng do đó độ phì của đất giảm.

3.3. Tác hại đến sản xuất:
Năng suất cây trồng giảm nhanh, có khi không thu hoạch. Như ở Nông trường Mộc
châu, Tây Bắc, năm 1959 mới khai phá, năng suất lúa 25 tạ/ha, đến năm 1960 chỉ còn
18 tạ/ha, năm 1961 còn 5 tạ/ha và năm 1962 gieo ngô cũng không thu hoạch được
Tăng chi phí sản xuất để phục hồi đất, thu nhập của người dân thấp, đời sống của
người dân gặp khó khăn
-Tác hại đến sản xuất nông nghiệp: Đất mặt bị bào mòn, đất trở nên nghèo,
xấu, mất hết chất hữu cơ độ phì trong đất. Xói mòn đất gây nhiều thiệt hại to lớn trong
nông nghiệp đã lôi cuốn phần lớn các hạt đất có kích thước nhỏ có chứa chất phì làm
đất trở nên nghèo nàn. Làm giảm năng xuất cây trồng.
-Tác hại đến sản xuất công nghiệp: Do xói mòn đất, nương rẫy chỉ gieo trồng
vài ba vụ rồi bỏ, lại phá rừng đốt rẫy. Lâm sản bị tiêu hao rất nhiều. Sau nhiều lần phá
như vậy, cuối cùng chỉ còn đồi núi trọc, hậu quả là đất đai bị thoái hóa. Khi rừng cây
bị phá sẽ kèm theo nạn lũ lụt, hạn hán và khí hậu khu vực thay đôi rõ rệt
-Tác hại đến thủy lợi: Mức độ xói mòn ở nước ta thuộc loại cao, phù xa các

song lớn cuốn từ thượng nguồn về bồi đắp các con sông ở hạ lưu làm nâng mực nước
sông dẫn đến lục lội. Ngoài ra, phù xa bồi làm cho các công trình thủy lợi như hồ chứa
nước, kênh mương bị thu hẹp diện tích, hiệu suất sử dụng bị hạn chế, công tác tưới
tiêu gặp nhiều trở ngại.

3.4. Tác hại đến môi trường:
Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, hạn hán, lũ lụt xảy ra liên tục làm ô nhiễm
nguồn nước và gây ra nhiều thiệt hại cho nhà nước và nhân dân.
Xói mòn đất ở mức độ cao người ta gọi là hiện tượng lở đất, sạt núi gắn liền với hiện
tượng lũ quét đã gây thiệt hại không những cho môi trường sinh thái, cảnh quan mà cả
con người và xã hội.

4. Giải pháp hạn chế xói mòn đất
4.1. Một số biện pháp công trình nhằm hạn chế xói mòn
Trong các vùng nhiệt đới biện pháp công trình (thiết kế đồi ruộng, xây dựng ruộng bậc
thang nắn dòng chảy...) là rất cần thiết trong việc canh tác và bảo vệ đất dốc. Chức
năng chủ yếu của công trình là dẫn dòng, ngăn dòng làm cho chảy chậm lại, lưu chứa
tạm thời hay bố trí dòng chảy an toàn đễn xói mòn là thấp nhất. Các biện pháp công


trình bao gồm thiết kế lô thửa, xây dựng hệ thống ruộng bậc thang. Những biện pháp
này có tác dụng bảo vệ đất tốt nhất (đạt hiệu quả bảo vệ 80- 90%) nhưng cũng đòi hỏi
việc đầu tư vốn lớn sau đây là một số biện pháp chính thường được áp dụng ở vùng
đồi núi nước ta:
a.Thềm bậc thang
- Ðể xây dựng ruộng bậc thang đất đai phải có các điều kiện để sau đây:
+ Ðất phải có tầng dày tối thiểu từ 60 cm trở lên, đất càng dày làm ruộng bậc
thang càng thuận lợi, bề rộng của mặt ruộng càng rộng.
+ Ðộ dốc có thể xây dựng ruộng bậc thang tốt nhất từ 5- 250, ở những nơi có
độ dốc lớn hơn 250 vẫn có thể làm được ruộng bậc thang như ở vùng Sapa, tuy

nhiên đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và rất tốn đất.
+ Những nơi làm ruộng bậc thang để trồng lúa nước đòi hỏi phải có nguồn
nước hoặc có khả năng giải quyết được nước tưới.
- Nguyên tắc thiết kế ruộng bậc thang:
+ Ruộng bậc thang phải thiết kế theo đường đồng mức
+ Ruộng bậc thang nhất thiết phải có bờ. Mặt ruộng rộng hay hẹp phụ thuộc
vào độ dốc và tầng dày đất.
+ Ðất bị san làm tầng không vượt quá 2/3 độ dày tầng đất ban đầu, phải đảm
bảo trả lại được lớp đất màu trên mặt, tỷ lệ sử dụng đất phải đạt 65- 70% so với
diện tích ban đầu.
b.Các công trình và thềm đơn giản
Thềm cây ăn quả: là một dạng thềm canh tác không liên tục của dạng thềm bậc thang
hẹp, dốc nghịch. Thềm cây ăn quả có thể làm trên sườn dốc > 30 o (58%). Khoảng cách
giữa hai hàng cây ăn quả được bảo vệ bằng những băng lớp phủ thực vật tự nhiên lâu
năm hay các cây cỏ, cây họ đậu và các cây bảo vệ đất khác. Cây trồng chính được
trồng theo các bồn riêng.
Thềm sử dụng linh hoạt: là các dạng thềm nằm cách nhau khá xa, xen kẽ là các dải
sườn đồi chưa được xử lý dùng để canh tác hỗn hợp. Thềm để trồng cây lương thực là
chủ yếu, trong khi ở phần sườn dốc chưa xử lý ở giữa thì trồng cây dài ngày hay cây
lấy gỗ.
Thềm tự nhiên: thềm tự nhiên được hình thành sau khi tạo ra các bờ thấp (dải chắn)
bằng đất hay đá có thể thu lượm tại chỗ, hay các dải cỏ dày theo đường đồng mức trên
các sườn dốc thoải. Chúng được thiết kế và thi công sao cho đỉnh của đê chắn phía
dưới cao ngang tâm điểm giữa đoạn sườn dốc tới đê kế tiếp ở phía trên. Sau vài năm
canh tác thềm sẽ được hình thành do sự bồi đắp tự nhiên. Loại này thường chỉ áp dụng
cho sườn dốc 7-12o.


4.2.Biện pháp nông nghiệp
Biện pháp bảo vệ bằng nông nghiệp thực chất là các kỹ thuật đã được áp dụng qua

việc quản lý, sử dụng đất trồng, chúng liên quan chặt chẽ với các quy trình canh tác
bình thường, nhưng được thiết kế hay lựa chọn một cách đặc biệt nhằm đem lại lợi ích
cho công tác bảo vệ đất trồng, chi phí đòi hỏi không lớn và có thể áp dụng tương đối
dễ dàng. Các biện pháp thường được áp dụng trong nông nghiệp như: canh tác theo
đường đồng mức, cày bừa ngang dốc, bố trí đa canh, trồng cây thành dải, biện pháp
phủ bôi, trồng cây bảo vệ đất, làm đất tối thiểu, trồng các dải cây chắn... Tuy nhiên,
những biện pháp này chỉ có thể áp dụng được trên những sườn đồi núi không dốc lắm
(dưới 12o), ở những nơi có độ dốc cao hơn thì cần phải kết hợp giữa biện pháp nông
nghiệp với các biện pháp công trình đơn giản ở trên.
Thực hiện “dồn điền, đôi thửa” tạo thuận lợi cho canh tác trên đất dốc theo mô hình
liên hoàn từ dưới lên theo đường đồng mức: Ruộng bậc thang – vườn đồi – nương rẫy
– rừng. Đây là mô hình canh tác bền vững, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, giống
và kỹ thuật canh tác mới làm thay đôi tập quán canh tác lạc hậu, tạo ra năng suất, tăng
thu nhập, nâng cao mức sống, giảm đốt phá rừng làm nương rẫy.

Lúa trồng trên ruộng bậc thang
Xây dựng các hệ thống phòng hộ nhằm chia cắt dòng chảy hạn chế tốc độ chảy của
nước. Bờ dốc của bậc thang phải thoai thoải để giảm xói mòn. Một rãnh nhỏ được đào
ở phía dưới bậc thang. Một bờ đất nhỏ được tạo ra tại mép bậc thang để phòng rửa trôi
đất. Trên bờ đất trồng các loài cây như cỏ hoặc dứa, phía bờ dốc thì trồng các loài cây
đậu (cốt khí, keo dậu). Tại những nơi không có nguồn nước tưới: trồng các cây chịu
hạn như ngô, sắn, mía, cao lương, đậu tương, các loại cây lấy củ khác như khoai môn,
khoai sọ, củ từ…
Các biện pháp thường được áp dụng trong nông nghiệp như:
. Canh tác theo đường đồng mức


. Cày bừa ngang dốc
. Bố trí đa canh
. Trồng cây thành dãy

. Trồng cây bảo vệ đất

Trồng cỏ Vetiver chống xói mòn
. Trồng các dải cây chắn
….
Tuy nhiên các biện pháp trên chỉ áp dụng được trên vùng đồi dốc không dốc lắm
(<120) còn ở những nơi có độ dốc cao hơn thì cần phải kết hợp giữa biện pháp nông
nghiệp với các biện pháp công trình đơn giản.
Các biện pháp canh tác trên đất dốc


Mô hình làm bậc thang kết hợp trồng cây phòng hộ

Mô hình đào mương đồng mức kết hợp trồng cây phòng hộ

Mô hình xếp đá kết hợp trồng cây phòng hộ


Mô hình làm tiểu bậc thang kết hợp trồng cây phòng hộ

Mô hình hàng rào xanh


Mô hình nông – lâm – thủy

Thân cây ngô sau thu hoạch được chặt và giữ nguyên toàn bộ trên nương nhưng
không đốt để che phủ đất (mô hình che phủ đất bằng tàn dư thực vật)


Cây lúa nương đựợc phủ bằng rơm rạ (mô hình che phủ đất bằng tàn dư thực vật)


4.3. Biện pháp lâm nghiệp : trên các đỉnh đồi, núi, sườn dốc đứng và ở những vị trí
hợp thủy không có điều kiện xây dựng đồi ruộng phải được trồng rừng hoặc bảo vệ
rừng tái sinh. Các diện tích rừng bảo vệ này có tác dụng chống xói mòn, ngăn chặn
dòng chảy và giữ ẩm cho đất đồng thời còn hạn chế cả xói mòn gây ra do gió.
Rừng được trồng tại đầu nguồn, dọc theo lưu vực sông, trên đỉnh đồi và nơi có độ dốc
lớn trên 250.
Trồng rừng, xác định cơ cấu, loài cây trồng đa tác dụng, vừa có tác dụng phòng hộ
vừa có giá trị kinh tế, phù hợp với sinh thái 3 loại rừng :
Rừng đặc dụng: nên trồng các loài cây bản địa quý hiếm đang có nguy cơ diệt chủng.
Cần coi trọng và giải pháp bảo tồn quỹ gen: Pơ mu, Sa mu dầu, Sến mật Tam qui, Lim
xanh, Sấu, Trám, Gụ, Giôi…
Rừng phòng hộ: nên trồng các loài cây có tuôi thọ cao, thường sinh sống lâu năm, phù
hợp với đất đai, khí hậu, điều kiện sinh thái như: Lát hoa, Dẻ, Re, Lim, Xanh, Giôi,
Lim xẹt, Trám trắng, Trám đen, Chò chỉ, Quế, luồng…kết hợp cây kinh tế như: Các
loại keo, Bạch đàn, Cao su, cây ăn quả,…mang lại kinh tế cho chủ rừng.
Rừng sản xuất: Thực hiện trồng thâm canh, nhằm tăng giá trị kinh tế trên diện tích
rừng; trồng rừng theo quy hoạch vùng nguyên liệu gắn với nhà máy chế biến lâm sản
như: Cây Luồng, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Keo lai, Quế, Trám…Trồng xen với cây
ăn quả các loại. Trước mắt ưu tiên trồng rừng vùng nguyên liệu bột và giấy.
Trồng 3 năm đầu rừng mới trồng chưa khép tán, trồng xen cây lương thực (ngô, khoai,
sắn, lạc, đậu..) có tác dụng chống xói mòn, cải tạo đất, tăng thu nhập cho người dân.


4.4. Biện pháp hóa học: một số nước tiên tiến trên thế giới người ta nghiên cứu các
chất kết dính hóa học (phụ phẩm của ngành chế biến gỗ) đưa vào đất để tạo cho đất có
thể liên kết chống xói mòn. Ngoài ra người ta còn dùng một số chất có khả năng giữ
đất khác như thạch cao, sợi, thủy tinh tạo thành màng bảo vệ trên mặt đất.

4.5. Biện pháp canh tác khống chế và giảm thiểu xói mòn.

Luôn duy trì độ ẩm cho đất, tránh để hiện tượng đất bị khô kiệt. Có thể thực hiện bằng
các biện pháp xây dựng hồ chứa nước, hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu, các giếng
khoan.
Thường xuyên che phủ cho đất bằng các đai rừng chắn gió, thảm thực vật tự nhiên
(rừng đồng cỏ...) và các hệ thồng cây trồng thích hợp cho khu vực thông qua việc sử
dụng các mô hình nông - lâm kết hợp các công thức luân canh và xen canh.
Trong hoạt động quản lý canh tác ở các vùng xói mòn do gió phải hết sức chú ý tới
các đai rừng bảo vệ, không cày bừa hoặc lên luống theo hướng gió thôi thường xuyên
mà phải cắt vuông góc với hướng gió, tạo cho mặt đất có độ gồ ghề bằng cách lên
luống cao, không nên làm đất quá kỹ làm các hạt đất bị vỡ nhỏ hình thành nhiều các
hạt mịn dễ bị gió cuốn đi.
Bón phân hoá học kết hợp hữu cơ và trả lại phụ phẩm cây trồng cải thiện độ phì nhiêu
đất và giảm lượng xói mòn.
Các biện pháp thủy lợi:
– Xây dựng ao núi kết hợp hố vẩy cá;

– Phai đập: đập bằng đất, đập bằng đá xây hồ lớn để bảo vệ bờ, đập rọ đá, đập bằng bó
cành cây

KẾT LUẬN


Tăng cường quy hoạch và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có các biện pháp
giảm nhẹ thiên tai, cung cấp nước cho các vùng hạn hán nghiêm trọng, xóa đói giảm
nghèo, …cũng được coi là giải pháp hữu hiệu trong cuộc chiến chống thoái hóa, sa
mạc đất do xói mòn và rửa trôi đất.
Trong sản xuất của chúng ta phải nâng cao tinh thần trách nhiệm của người sản xuất
đối với thiên nhiên. Không nên vì lợi ích trước mắt mà làm cho thiên nhiên nghèo đi,
môi trường sống của cả cộng đồng bị đe dọa.


BIỆN PHÁP CỦA NHÓM
Chống xói mòn là một nhiệm vụ rất to lớn có quan hệ đến nhiều mặt công tác, là trách
nhiệm của toàn dân. Để đảm bảo thực hiện tốt chỉ thị này:
Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chống xói mòn trong quần chúng, đặc
biệt là nhân dân ở vùng đồi núi. Các ngành, các Ủy ban hành chính các cấp, các đoàn
thể từ trung ưng đến địa phương phải thấy thật rõ tầm quan trọng của công tác chống
xói mòn, có chuyển biến mạnh về tư tưởng, giáo dục cho cán bộ và nhân dân thấy rõ
tác hại của xói mòn để có những biện pháp và hành động thiết thực chống xói mòn.
Cần đề phòng hai khuynh hướng lệch lạc: Một là không thấy tác hại, chỉ biết lợi ích
trước mắt không thấy lợi ích lâu dài; hai là vì sợ xói mòn một cách máy móc mà hạn
chế khai hoang, đòi hỏi với những điều không phù hợp với trình độ và khả năng hiện
tại của ta. Phải chiếu cố đến trình độ, tập quán của đồng bào ở từng nơi. Ngoài các
hình thức tuyên truyền, giáo dục thông thường cần đưa vấn đề chống xói mòn vào
chương trình giáo dục ở các trường học.
Các biện pháp chống xói mòn là rất cần thiết để nâng cao lượng chất hữu cơ trong đất
và để củng cố cấu trúc đất, ví dụ kết hợp canh tác với cây che phủ đất, không đốt tàn
dư thực vật,trồng cây phòng hộ, cải tạo các hệ thống chắn nước, thoát nước,... . Tại
những nơi dễ bị xói mòn (khu vực phía chân dốc) không nên trồng cây hằng năm mà
thay vào đó là các cây trồng lâu năm để đảm bảo đất được che phủ thường xuyên.



×