Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao dân ca việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.15 KB, 21 trang )

Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao dân ca Việt Nam
Trần Minh Thương
Thế nào là "chơi chữ"?
Chơi chữ là một nghệ thuật độc đáo trong ngôn ngữ nói chung và trong Tiếng Việt
nói riêng. Có nhiều định nghĩa, khái niệm, … giải thích vấn đề này, xin được nêu
một số ý kiến như sau:
Tự điển Tiếng Việt giải thích: "Chơi chữ là lợi dụng hiện tượng đồng âm, đa nghĩa,
v.v, … trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như bóng gió, châm
biếm, hài hước, …) trong lời nói. (Hoàng Phê (chủ biên) – Từ điển Tiếng Việt –
Nhà xuất bản Giáo Dục. H. 1994).
Từ điển thuật ngữ văn học gọi chơi chữ là "lộng ngữ" và giải thích là một biện
pháp tu từ có đặc điểm: người sáng tác sử dụng những chỗ giống nhau về ngữ âm,
ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo ra sự bất ngờ thú vị trong cách hiểu, trong dòng
liên tưởng của người, người nghe". Các hình thức của lộng ngữ rất phong phú,
trong đó có: nói lái, dùng từ đồng âm hoặc gần âm, dùng từ gần nghĩa, tách một từ
thành các từ khác nhau. (có thể xem đây là hình thức của nghệ thuật chơi chữ người viết chú thêm). Các tác giả trong quyển "từ điển" này cho rằng: nhìn chung
các lộng ngữ đều mang tính hài hước, thường được sử dụng trong văn thơ trào
phúng (có thể xem đây là tác dụng của nghệ thuật chơi chữ - người viết chú thêm).
(Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học – Nhà
xuất bản Giáo Dục . H. 2007
Tác giả Hữu Đạt thì xem chơi chữ là một đặc điểm độc đáo của ngôn ngữ thơ Việt
Nam và nêu định nghĩa: "Chơi chữ là một biện pháp tu từ nghệ thuật dựa vào
những khả năng tiềm tàng của ngôn ngữ, vận dụng linh hoạt đơn vị cơ bản của tu
từ học (là chữ hoặc tiếng) đặt nó trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều phía với các
đơn vị cùng bậc và khác bậc, nhằm khai thác tính chất nước đôi của các đơn vị
ngôn ngữ dựa vào sự hiện diện của văn cảnh". (Hữu Đạt – Ngôn ngữ thơ Việt Nam
– Nxb Giáo dục. H. 1996).
Từ những cách lý giải trên soi rọi vào ca dao chúng ta dễ dàng thấy được nghệ
thuật độc đáo mà ngày xưa cha ông ta đã vận dụng.



Từ những từ láy lại đơn giản:
Trong chúng ta ai đó đã từng nghe câu hát của những người làm "nghề " nói thơ
dạo của những năm cuối thế kỷ trước:
Vân Tiền, Vân Tiễn, Vân Tiên
Ai cho đồng tiền tôi kể Vân Tiên.
Vân Tiên là tên nhân vật chính trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ đồ Nguyễn
Đình Chiểu. Tác giả dân gian khi hát đã láy lại thành câu lục "Vân Tiền, Vân Tiễn,
Vân Tiên" trong cặp lục bát dẫn trên cho đủ lượng chữ cần thiết của một dòng thơ.
Giá trị của việc chơi chữ ở đây chỉ có vậy.
Cũng tương tự như thế ta có thể dẫn chứng một trường hợp khác: chơi chữ bằng
việc sử dụng từ láy kiểu như trên:
Con mèo, con mẻo, con meo
Ai dạy mày trèo, mà chẳng dạy tao?
Từ "con mèo" được láy lại hai lần nhằm tạo âm hưởng cho câu thơ!
Với cách chơi chữ lặp đi lặp lại như thế, nhiều câu ca dao đã gợi nên cuộc sống
quẩn quanh bế tắc không lối thoát của phận cái kiến, con ong ở xã hội ngày trước:
Con kiến mà leo canh đa
Leo phải cành cụt leo ra, leo vào
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cảnh cụt leo vào, leo ra.
Hoặc như trong một tình cảnh khác, chơi chữ kiểu láy này để thể hiện nét nghĩa
gắn lết không muốn xa rời nhau của đôi nam nữ "đá trót dan díu"…
Rau má là lá lan dây,
Đã trót dan díu, ở đây đừng về.
Rau má là lá lan thề


Đã trót dan díu đừng về ở đây.
Đó là cách chơi chữ bình thường vốn dĩ quen thuộc trong lời ăn tiếng nói hằng
ngày của ng dân quanh năm "một nắng hai sương" bên cánh đồng thửa ruộng.

Trong thơ ca bình dân còn có nhiều kiểu "chơi chữ" khác mà dụng ý của nó cũng
rất uyên thâm.
Chơi chữ bằng cách dùng hiện tượng từ đồng âm khác nghĩa giữa từ đơn tiết với
tiếng trong từ đa tiết:
Xin dẫn bài ca dao quen thuộc sau đây để làm ví dụ:
Một trăm thứ dầu, dầu chi là dầu không thắp?
Một trăm thứ bắp, bắp chi là bắp không rang?
Một trăm thứ than, than chi là than không quạt?
Một trăm thứ bạc, bạc chi là chẳng ai mua?
Trai nam nhi anh đối đặng thì gái bốn mùa xin theo.
Muốn biết nghĩa của các từ "dầu"; "bắp"; "than"; "bạc" trong các câu hát đố trên,
ta xem tiếp phần đáp lại thì hiểu được sự điêu luyện của nghệ thuật này.
Một trăm thứ dầu, dầu xoa không ai thắp. (Một dị bản khác: Một trăm thứ dầu, dãi
dầu thì không ai thắp)
Một trăm thứ bắp, bắp chuối thì chẳng ai rang. (Một dị bản khác: Một trăm thứ bắp
lắp bắp mồm, lắp bắp miệng thì chẳng ai rang)
Một trăm thứ than, than thân là than không ai quạt.
Một trăm thứ bạc, bạc tình bán chẳng ai mua
Chơi chữ là cách dùng các từ đơn tiết đồng âm nhưng khác nghĩa:
Trời mưa, trời gió vác đó(1) ra đơm
Chạy vô ăn cơm chạy ra mất đó(2).
Kể từ ngày mất đó(3) đó(4) ơi


Răng đó(5) không phân qua nói lại đôi lời cho đây hay?
Từ đó mà tác giả dân gian sử dụng trong bài ca dao trên vừa là danh từ chỉ một
dụng cụ đánh bắt, vừa là đại từ chỉ nơi chốn được "mượn" làm đại từ nhân xưng
chỉ người. Từ đó(2), đó(3), đó(4) là thú vị và đa tầng nghĩa nhất vậy.

Gợi lên một ý nghĩa khác "tục" mà thanh bởi từ "đẩy" đa nghĩa (cả nghĩa trong

khẩu ngữ) của câu ca dao sau đây:

Em ơi nên lấy thợ bào

Khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng êm

Xét từ ngữ nghĩa tường minh của văn bản thì không có gì hết, nó chỉ miêu tả một
hành động bình thường của anh thợ mộc làm động tác bào cây, gỗ, nhưng xét về
nghĩa hàm ẩn của nó thì thật là "độc", mà cái "độc" ấy là do nghệ thuật "chơi chữ'
tạo ra.

Công dụng của nét chơi chữ ấy dùng để phê phán. Phê phán thầy đồ đạo cao đức
trọng, cố ý "thanh cao" nhưng không tránh khỏi cái bản năng bình thường của con


người, tác giả dân gian chơi chữ "đồ" để mỉa mai hết sức thâm thuý trong bài ca
dao sau đây:

Nhân lúc đồ ngồi nhàn hạ

Ra hồ sen xem ả hái hoa

Ả hớ hênh ả để đồ ra

Đồ trông thấy ngắm ngay tức khắc

Đêm năm canh đồ nằm khôn nhắp

Những mơ màng đồ nọ tưởng đồ kia


"Đồ nọ" tưởng "đồ kia" là hai từ đồng âm nhưng một từ với nghĩa là thầy đồ - một
hạng người trong xã hội, và một từ "đồ" cũng là danh từ nhưng để chỉ sinh thực khí
của phụ nữ!


Nhiều khi cách chơi chữ đồng âm này tránh được cái tục, một sự nói tránh hết sức
tinh tế:

Sáng trăng em nghĩ tối trời

Em ngồi em để sự đời em ra

Sự đời em bằng lá đa

Đen như mõm chó chém cha sự đời.

Cái sự đời mà câu ca dao đề cập bằng việc dùng nghĩa lấp lửng nước đôi như trên
chắc chắn rằng ai cũng biết đó là cái gì rồi!

Phê phán "bà già" còn muốn chồng được tác giả dân gian mỉa mai bằng cách chơi
chữ "lợi" trong một bài ca dao quen thuộc:

Bà già đi chợ Cầu Đông


Xem bói một quẻ lấy chồng lợi chăng

Thầy bói gieo quẻ nói rằng

Lợi thì có lợi nhưng răng không còn


Lợi vừa là tính từ chỉ việc có ích, vừa chỉ một bộ phận trong vòm họng con người:
cái " nướu răng"!

Đôi khi kín đáo hơn, nhẹ nhàng, để nói đến thân phận bấp bênh về thân phận của
người phụ nữ trong xã hội ngày trước dân gian có câu:

Thân em như cá rô mề

Lao xao giữa chợ biết về tay ai.


Ví "thân em" với cá rô mề, quả là khó còn từ ngữ nào đắc hơn trong văn cảnh vừa
dẫn, bởi nói vừa chỉ được nhiều điểu mà người sáng tạo ra nó muốn nói.

Trái lại hiện tượng trên, là việc dùng từ đồng nghĩa để chơi chữ với dụng ý phê
phán rõ ràng:

Có cứt thì lúa mới xanh

Quần hồ áo cánh bởi anh cứt này

Thực ra những từ không được sạch sẽ trên đây có từ "phân" đồng nghĩa với nó,
nhưng dân gian không dùng "phân" mà thay "phân" bằng …(!) để nhắc nhở những
người gần bùn mà vội "quên đi mùi bùn"(!)

Xong có lẽ hiện tượng dùng từ cùng trường nghĩa, gần nghĩa để tạo nét liên tưởng
thú vị là phổ biến nhất trong ca dao:

Con quạ nó ăn tầm bậy tầm bạ nó chết,



Con diều xúc nếp làm chay,

Tu hú đánh trống bảy ngày,

Con bịp nó dậy, nó bày mâm ra.

Con cuốc nó khóc u oa,

Mẹ nó đi chợ đàng xa chưa về.

Bài ca dao tập hợp những con chim sống trọng bụi quạ, diều, tu hú, bìm bịp, cuốc,
cho mỗi con đóng vai trò thích hợp với đặc điểm của chúng: diều với quạ cùng loại
nên đóng vai trò chính; tu hu đầu mùa hè hay kêu; bìm bịp thường hay ở trong bụi
rậm, ít bay đi đêm, như người nội trợ; cuốc lủi trong bụi như tìm ai, tiếng kêu của
nó sầu não như khóc như than. Đây là cách chơi chữ dùng các từ cùng trường
nghĩa để khắc hoạ lên những bức tranh dân gian về một đám ma nghèo nhưng đầy
đủ lễ thức. Vừa phản ảnh một phong tục ngày trước với nhiều màu sắc độc đáo
nhưng cũng không giấu tính châm biếm sắc sảo.

Cùng kiểu như vậy ta còn có thể gặp trong các bài ca dao tương tự:


Con cò chết rủ trên cây,

Cò con mở lịch xem ngày làm ma

Cà cuống uống rượu la đà


Chim ri ríu rít bò ra chia phần

Chào mào thì đánh trống quân,

Chim chích cỡi trần vác mõ đi rao.

Hoặc:

Con cò mắc giò mà chết

Con quạ ở nhà mua nếp làm chay


Con cu đánh trống bằng tay

Chào mào đội mũ làm thầy tế văn

Chiền chiện vừa khóc vừa lăn

Một bầy chim sẻ bịt khăn khóc cò

Chọn những con vật cùng trường nghĩa khác, bài ca sau đây cũng dùng cách chơi
chữ ấy:

Cóc chết bỏ nhái mồ côi,

Chẫu ngồi chẫu khóc :" Chàng ơi là chàng"

Ễnh ương đánh lệnh đã vang,


Tiền đâu mà trả nợ làng ngoé ơi!


Tác giả dân gian tập hợp trong bài ca dao này các con vật cùng loài với cóc: nhái,
chẫu chuộc, chầu chàng (chẫu chàng thân và chi mảnh, dài; chẫu chuộc cũng giống
như chẫu chàng nhưng lớn hơn); ễnh ương, ngoé là giống nhái bén. "Chàng" trong
câu câu ca trên vừa là con vật (chẫu chàng) vừa là đại từ chỉ người trong cặp đại từ
nhân xưng cổ: chàng – nàng. Như vậy, bài ca dao vừa chơi chữ bằng cách dùng từ
đồng âm, vừa chơi chữ bằng cách dùng các từ cùng trường nghĩa.

Đôi lúc ghép những từ cùng trường nghĩa để chơi chữ với tính chất "trào lộng":

Chị Xuân đi chợ mùa hè

Mua cá thu về chợ hãy còn đông

Những từ đồng âm khác nghĩa (Xuân, thu, đông) và các kết hợp các từ cùng trường
nghĩa với nhau tạo nên nét độc đáo: hoá ra đó là bốn mùa trong năm!

Một bài khác:


Anh Hươu đi chợ Đồng Nai

Bước qua Bến Nghé ngôi nhai thịt bò

Vui đùa với chữ là dụng ý chính của những câu ca dao này!

Hoặc để chỉ một cảnh sinh hoạt bình thường của một gia đình làm nghề chài lưới:


Cha chài mẹ lưới con câu

Chàng rễ đóng đáy con dâu ngồi nò.

Hay như để chỉ các sản vật là lương thực mà con người đổ không biết bao nhiêu
giọt mồ hôi để tạo ra, tác giả dân gian gửi gắm:

Thấy nếp thì lại thèm xôi


Ngồi bên thúng gạo nhớ nồi cơm thơm

Hai tay xới xới đơm đơm

Công ai cày cấy sớm hôm đó mà.

Chiết tự ra từ một từ láy, hoặc một từ ghép để "chơi chữ":

Cô giỏi cô giang, cô đang xúc tép

Cô thấy anh đẹp cô đổ tép đi

Từ "giỏi giang" được chiết tự ra làm hai thành tố để rồi kết hợp lại nhằm nhấn
mạnh tính cách của chủ thể "cô" trong câu ca trên. Đó cũng là một dạng của nghệ
thuật chơi chữ!

Việc dùng từ trái nghĩa trong cùng một câu thơ, cũng là một hiện tượng chơi chữ
của dân gian:



Bánh cả thúng sao gọi là bánh ít

Trầu cả khay sao dám gọi trầu không.

Hoặc như:

Lươn ngắn mà chê trạch dài

Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm.

Chạch là loại cá trông giống lươn cỡ nhỏ, thân ngắn. Thờn bơn là loại cá thân dẹt,
miệng và mắt lệch lên phía trên đầu. Trai là loại động vật thân mềm, vỏ cứng, gồm
hai mảnh, thường há ra như cái miệng. Với nghệ thuật chơi chữ để giễu nhại giống
như kiểu: "Chuột chù chê khỉ rằng hôi/ Khỉ mới trả lời cả họ mày thơm" tác giả
dân gian muốn châm biếm những người đem chủ quan của mình gán ghép cho
người khác mà không thấy được mình cũng có khuyết điểm tương tự như thế, chả
ai hơn ai, chả biết mèo nào cắn mỉu nào!

Trong nhiều lời hát đối đáp cũng có hiện tượng như vậy:


Giàn hoa bể cạn nước đầy

Cá vàng hoá bạc chàng rày đối chi?

Chơi chữ là dùng cách nói lái, tức là đảo vị trí phần vần và thanh điệu của hai từ
liền kề nhau:

Con cá đâu anh ngôi câu đó


Biết có không mà công khó anh ơi

Và:

Con cá đối nằm trong cối đá

Con mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo,…

Chơi chữ bàng cách dùng các từ thuần Việt đồng nghĩa với nhau:


Đi tu Phật bắt ăn chay

Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không.

"Chó với cầy là những từ cùng nghĩa, gần nghĩa được sử dụng "chơi" để phê phán
một hiện tượng "ngược đời"

Hay:

Bạn vàng chơi với bạn vàng

Chớ chơi với Vện ra đàng cắn nhau.


Từ "bạn vàng" của "những con chó" làm cho người nghe liên tưởng đến "bạn vàng
của con người" cũng là một dụng ý thật đắc mà nghệ thuật chơi chữ tạo ra.

Hoặc đôi lúc dùng một tiếng Việt đồng nghĩa với một từ Hán Việt để chơi chữ:


Có răng nói thật đi nha

Lúc trăng đang tỏ thì hoa đang thì.

"Nha" là từ Hán Việt tương đương với từ thuần Việt "răng"!

Hay như:

Rắn hổ đất leo cây thục địa

Ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên.


Rồi thì:

Cha con thầy thuốc về quê

Hồi hương phụ tử thì chàng đối chăng?

Cái độc đáo ở nghệ thuật chơi chữ trong câu thơ này là vừa có hai từ tương đương
nghĩa "cha con" (thuần Việt) với "phụ tử" (Hán Việt); "về quê" (thuần Việt) với
"hồi hương" (Hán Việt). Rồi "thầy thuốc" để chỉ nghề nghiệp của hai "cha con" mà
"hồi hương", "rồi phụ tử" là những vị thuốc nổi tiếng trong đông y!

Cuối cùng hết của các dạng chơi chữ trong ca dao mà chúng tôi khảo sát được là
việc đảo trật tự từ ngữ để tạo ra nghĩa ngược với thực tế:

Bao giờ cho đến tháng ba

Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng


Hùm nằm cho lợn liếm lông

Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi


Nắm xôi nuốt bé lên mười,

Con gà mâm rượu nuốt người lao đao

Lươn nằm cho trúm bò vào

Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô

Lúa mạ nhảy lên ăn bò,

Cỏ năn, có lác rình mò bắt trâu

Gà con đuổi bắt diều hâu,

Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông.

Tất cả các sự việc, các hành động và chủ thể tạo nên hành động trong bài ca dao
trên đều ngược nghĩa so với hiện thực cuộc sống. Đều mà tác giả dân gian muốn
gửi gắm ở đây có lẽ với hai dụng ý rõ rệt: vừa mua vui với chữ nghĩa, vừa muốn
nói lên một sự bất công ngang trái trong xã hội ngày trước!


Như vậy, tuy khác nhau về lời lẽ song có thể thấy mấy điểm chung trong các cách
hiểu trên về chơi chữ.


- Chơi chữ là một biện pháp tu từ được dùng trong ngôn ngữ nghệ thuật (ngôn ngữ
văn thơ)

- Biện pháp chơi chữ được thực hiện dựa trên các tiềm năng về chất liệu ngôn ngữ
dân tộc. Các tiềm năng về âm thanh, chữ viết, từ đồng âm, đồng nghĩa, v.v, ...càng
phong phú thì càng tạo điều kiện cho chơi chữ phát triển.

- Chơi chữ tạo nên những liên tưởng bất ngờ, thú vị về nhận thức, đồng thời có tác
dụng châm biếm, hài hước, thư giãn bằng chữ nghĩa, v.v…

Riêng trong ca dao chơi chữ đã thể hiện nét phong phú độc đáo trong tâm hồn của
người nông dân "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"./.

*Trong bài viết có tham khảo tài liệu chép tay (chuyên đề dành cho thạc sĩ Ngữ
văn): "Truyền thống ngữ văn của người Việt" của T.S Trần Văn Minh, Trường Đại
học Vinh.

Trần Minh Thương



×