Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.59 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
Xây dựng nền kinh tế là một bước phát triển để sánh vai với các cường quốc
nhưng lại đem lại muôn vàn khó khăn cho đất nước Việt Nam ta. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói đất nước ta đã trải qua hàng nghìn năm phong kiến lạc hậu, sau
đó lại phải đấu tranh với kẻ thù xâm lược. Khi đất nước còn quá non trẻ, ta đã vội
vàng áp dụng nền kinh tế bao cấp làm cho nền kinh tế càng chậm phát triển.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã lựa chọn mô hình kinh tế cho thời kì đổi mới ( bắt
đầu từ năm 1986) là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mô hình này vừa mang
tính chất chung của nền kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù và được quyết
định bởi các nguyên tắc, bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Đến nay, sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta
đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng hàng năm đều ở mức khá
ao so với (thời kỳ bao cấp) trước kia, đời sống nhân dân ngày được cải thiện rõ
rệt. Tất cả đã chứng minh sự lựa chọn của Đảng là vô cùng đúng đắn. Tuy nhiên,
chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng, trình độ phát triển nền kinh tế nước ta ở mức
khá thấp so với các nước trên thế giới, đòi hỏi ta không ngừng học hỏi, tiếp thu
kinh nghiệm từ các nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhằm “đi tắt, đón
đầu”, để sớm bắt kịp họ. Thế nhưng, trong quá trình học hỏi đó, chúng ta cũng
phải có sự cân nhắc, lựa chọn phù hợp vơi hoàn cảnh thực tiễn trong nước. Và
chủ nghĩa Mác – Lê Nin luôn là ngọn đèn soi tỏ cho mọi hoạt động nhận thức,
Page 1


đặc biệt là quan niệm về cặp phạm trù “cái chung, cái riêng” được áp dụng vào
hoạt động cụ thể.
Do vậy, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vai trò của triết học Mác nói
chung và vai trò cặp phạm trù “cái riêng, cái chung” trong cuộc xây dựng kinh tế
thị trường nước ta hiện nay, từ đó có những hành động cụ thể hơn, thiết thực hơn
nhằm góp phần xây dựng đất nước ngày phát triển giàu mạnh, tôi đã quyết định


chọn nghiên cứu vấn đề: “Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng
vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta”.

I.

PHẦN NỘI DUNG
KHÁI NIỆM VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG.
Thế giới vật chất tồn tại xung quanh con người chúng ta với muôn vàn sự vật
hiện tượng khác nhau về màu sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng và kích thước,
…. Nhưng đồng thời giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm, thuộc tính
chung giống nhau.
1. Khái

niệm về cái riêng.
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá

trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
Ví dụ: ngôi nhà, cái bàn, quá trình nghiên cứu thị trường của một công ty,
một thành viên trong đại gia đình trường đại học Ngoại Thương,…
Sự tồn tại cá thể của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong các cấu trúc sự
vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn chất. Cái đơn nhất
là một phạm trù triết học chỉ những mặt, những thuộc tính,… chỉ có ở một sự vật
mà không lặp lại ở sự vật khác. Như vậy, tính cách của một người, văn hóa của
một dân tộc,… là những cái đơn nhất.
2. Khái niệm về cái chung.
Page 2


Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung không
những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự

vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Cái chung thường chứa đựng ở trong nó cái tính quy luật, sự lặp lại.
Ví dụ: Cái chung của một tập thể công ty là ý thức chấp hành tốt nội quy của
tất cả các thành viên; cái chung của người dân Việt Nam là một lòng nồng nàn
yêu nước;…
3. Quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
Phái duy thực và duy danh:
Những nhà nghiên cứu triết học Mác-Lenin đề cập dến có hai quan điểm trái
chiều nhau về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, đó là phái duy thực và
duy danh.
Phái duy thực
-Phái duy thực là trường phái triết
học có ý kiến về mối quan hệ giữa "cái
chung" và "cái riêng", theo phái này thì
+ "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời,
thoáng qua, không phải là cái tồn tại
vĩnh viễn, chỉ có "cái chung" mới tồn
tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức
của con người.
+ "cái chung" không phụ thuộc
vào "cái riêng", mà còn sinh ra "cái
riêng". Cái chung là những ý niệm tồn
tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng
chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do
cái chung sinh ra.
-Ví dụ: Con người là một khái
niệm chung và chỉ có khái niệm con
người mới tồn tại mãi mãi, còn những
con người cụ thể là khái niệm tạm thời
vì những con người cụ thể (cá nhân)

này có thể mất đi (chết đi)

Phái duy danh
-Phái duy danh cho rằng, chỉ có
cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung
là những tên gọi trống rỗng, do con
người đặt ra, không phản ánh cái gì
trong hiện thực. Quan điểm này không
thừa nhận nội dung khách quan của các
khái niệm. Những khái niệm cụ thể đôi
khi không có ý nghĩa gì trong cuộc
sống của con người, chỉ là những từ
trống rỗng, không cần thiết phải bận
tâm tìm hiểu. Ranh giới giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa
nhòa và con người không cần phải
quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các
quan điểm triết học nữa.
-Ví dụ: Không thể nhận thấy, nắm
bắt một "con người" chung chung mà
"con người" chỉ có thể được nhận thấy,
nắm bắt qua những con người thực thể
cụ thể, thông qua các cá nhân cụ thể.

Page 3


Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhòa
và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm
triết học.

Theo triết học của Mác-Lenin, cả hai quan điểm của phái duy thực và phái
duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hóa
cái riêng, phủ nhận cái chung hoặc ngược lại. Họ không thấy được sự tồn tại
khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng.
Phép biện chứng duy vật của Triết học Mac-Lenin:
Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lênin đã viết rằng:
“Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ tồn
tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái chung.
Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất] của
cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật
riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”
_Lê-nin_
Cụ thể:
-

Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại.
Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng.
Ví dụ: Quy luật bóc lột giá trị thặng dư của nhà tư bản là một cái chung,
không thế thì không phải là nhà tư bản, nhưng qui luật đó được thể hiện ra ngoài

-

dưới những biểu hiện khác nhau của các nhà tư bản (cái riêng).
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung: Nghĩa là không có cái riêng
nào tồn tại tuyệt đối độc lập.

Page 4


Ví dụ: Nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung-cầu,quy luật quan

hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đó là cái
-

chung. Như vậy sự vật hiện tượng nào cũng bao hàm cái chung.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung, vì
ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn
cái riêng, vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất
nhiên, lặp lại nhiều cái riêng cùng loại.
Do vậy, cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng
tồn tại và phát triển của cái riêng. Cái riêng là sự kết hợp giữa cái chung và cái
đơn nhất. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật,
còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là tập thể sống động, trong mỗi cái riêng luôn
tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất.
Nhờ thế, giữa những cái riêng luôn có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua
lại lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, sự “va chạm” giữa những cái riêng vừa làm
cho những sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa bởi
cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có
thể được phát hiện… .Ta rút ra được công thức sau:
Cái riêng = Cái chung + Cái đơn nhất

Ví dụ: Những người nông dân Việt Nam, do chịu ảnh hưởng phong tục thôn
quê chân chất, học luôn phấn đấu cố gắng, nhưng nếu những người cần cù siêng
năng hơn, họ làm ra được nhiều của cải vật chất hơn.
4. Ý

nghĩa phương pháp luận.

Page 5



-

Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại
của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ
những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của

-

con người bên ngoài cái riêng.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng nên nhận thức phải nhằm
tìm ra cái chung và trong các hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải
tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những lý luận chung,
sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mù quáng. Mặt khác,
cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tùy
theo cái riêng cụ thể để vận dụng cho thích hợp.
Ví dụ: Khi áp dụng những nguyên lí cơ baen của chủ nghĩa Mác-Lenin, phải
căn cứ vào tình hình cụ thể của từng thời kì lịch sử ở mỗi nước để vận dụng
nguyên lí đó cho thích hợp, có vậy ta mới đưa lại kết quả trong hoạt động thực
tiễn.
Như vậy, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
nhằm phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam một cách vững chắc, đuổi kịp
theo tốc độ phát triển của các quốc gia khác cùng khu vực và trên thế giới, đồng
thời cung cấp cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

II.

VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRUỜNG
1. Khái quát lịch sử phát triển nền kinh tế thị truờng nuớc ta.
Xét về hoàn cảnh lịch sử xuất phát điểm của nền kinh tế nuớc ta là kinh tế

phong kiến. Ngoài ra, đất nuớc ta đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nuớc
khốc liệt, mà ở đó cơ sở vật chất đã ít ỏi mà còn bị tàn phá nặng nề.
Sau chiến tranh ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá tập
trung dựa vào hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong thoìư gian
đầu sau chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nuớc
trong hệ thống xã hội chũ nghĩa mà mô hình kế hoạch hoá đã phát huy đuợc tính

Page 6


ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá
nhà nuớc đã tập trung vào tay mình một luợng vật chất quan trọng về đất đai, tài
sản và tiền bạc để ổn định phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời
kì này tỏ ra phù hợp, đã huy động sức người, sức của cho tiền tuyến một cách tối
ưu.
Sau ngày giải phóng miền Nam, bức tranh nền kinh tế nuớc ta tồn tại một
bức tranh với ba gam màu: kinh tế tự cấp, tự túc; kinh tế kế hoạch hoá tập trung
và kinh tế hàng hoá. Do sự không hài hoà giữa các nền kinh tế và sự chủ quan
cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lí mà chúng ta đã
không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn gây lãng phí
nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi truờng,.. Lúc này, nước ta đồng thời cắt giảm
nguồn viện trợ từ các nuớc xã hội chủ nghĩa. Tất cả những nguyên nhân đó khiến
cho nền kinh tế của nuớc ta trong những thập niên 80 rơi vào khủng hoảng trầm
trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số nơi còn bị nạn đói đe doạ.
Đảng ta đã xác định đổi mới cơ chế kinh tế ở nuớc ta là một yếu tố khách
quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ kinh tế kế hoạc hoá tập
trung sang kinh tế thị truờng có sự quản lí của nhà nuớc theo định huớng xã hội
chủ nghĩa. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong
thực tế cũng như trong lý luận.
Thực trạng nền kinh tế thị truờng định huớng xã hội chủ nghĩa:

Kinh tế thị truờng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nuớc, theo định
huớng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế
hàng hoá. Hay nói cách khác, kinh tế thị trưòng là kinh tế hàng hoá vận động theo
cơ chế thị trường, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất
đều thông ra thị truờng. Điều kiện ra đời và tồn tại của nền kinh tế hnàg hoá cũng

Page 7


như sự phát triển của nó do sự phát triển của lực luợng sản xuất tạo ra. Kinh tế
-

hàng hoá phát triển ở 2 trình độ khác nhau:
Giai đoạn 1 (thấp): Kinh tế hàng hoá giản đơn, dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư
liệu sản xuất, kết hợp với sức lao động cá nhân, trình độ lao đông thấp, năng suất

-

lao động không cao.
Giai đoạn 2 (cao): Kinh tế hàng hoá phát triển với quy mô lớn dựa trên cơ sở sản
xuất bằng máy móc, năng suất lao động cao, bao gồm kinh tế hàng hoá tư bản chủ
nghĩa và kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hàng hoá quy mô lớn vận
động theo yêu cầu các quy luật kinh tế khách quan trên thị trường nguời ta gọi là
nền kinh tế thị truờng.
Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị truờng về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc
và bản chất nhưng không đồng nhất với nhau. Chúng khác nhau về trình độ phát
triển.
Cơ sở của thị truờng là sự phân công lao động xã hội, trình độ và quy mô thị
trường gắn liền với trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất và

sức mua của xã hội. Theo Mác, “thị truờng nghĩa là lĩnh vực trao đổi”. Le-nin cho
rằng “khái niệm thị truờng hoàn toàn không thể tách rời khái niệm phân công lao
động xã hội… Hễ ở đâu và khi nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hoá thì
ở đó và khi ấy có thị trường. Quy mô của thị truờng gắn liền với thị trường

chuyên môn hoá”.
2. Sự vận dụng cặp phạm trù cái chung và cái riêng của phép biện chứng duy
2.1.

vật vào mô hình kinh tế thị trường ở nuớc ta hiện nay
Cái chung đuợc vận dụng vào nền kinh tế thị trường nuớc ta hiện nay
Quá trình phát triển mô hình kinh tế thị trường ở mỗi quốc gia đều đi theo
một hướng riêng với những điều kiện đặc thù về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội. Nhưng bên cạnh đó chúng cùng có đặc điểm chung mang tính quy luật mà
khi theo mô hình kinh tế này đất nuớc chúng ta buộc phải trải qua.

Page 8


-

Chúng ta chịu sự phân công lao động theo nhiều ngành nghề, có sự khác biệt về sở
hữu tài sản và đặc biệt lợi nhuận là động lực cho sự phát triển. Nền kinh tế nuớc
ta cũng vận động theo quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường đó là quy luật
cung cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ và phát triển các loại thị
trường tài chính, thị trưòng chứng khoán, thị truờng lao động… đây là những đặc
điểm tốt mà kinh tế thị truờng đem lại. Kinh tế thị trường định hướng xã hội do
nguời lao động làm chủ. Điều này có thể trên cơ sở, nhà nuớc thực sự của dân, do
dân và chế độ công hữu. Trong đó, nguời lao động đóng vai trò sở hữu tư liệu sản


-

xuất
Những vấn đề tiêu cực mà kinh tế thị trưòng đem lại: sự phân hoá giàu nghèo sâu
sắc, sử dụng cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm, nạn thất nghiệp
gây khó khăn cho cuộc sống của nhiều người, các tệ nạn xã hội cũng gây áp lực
lớn cho nền kinh tế nước ta làm cho nền kinh tế nuớc ta phát triển mất cân đối.
2.2.
Cái riêng được vận dụng vào nền kinh tế thị trưòng của nước ta
hiện nay.
Nền kinh tế thị truờng của nuớc ta còn có những buớc đi riêng bên cạnh
những khuôn mẫu của các nước. Nuớc ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu
mà chỉ là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật cho chủ nghĩa xã hội và thiết lập mối quan hệ sản xuất mới. Mục đích của
chúng ta là xây dựng nước ta là một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng dân
chủ văn minh. Trong kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của nước ta, sự tăng
trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội trong mỗi
bước phát triển. Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với việc đẩy mạnh văn
hoá , giáo dục để nâng cao dân trí, đảm bảo nguồn nhân lực và xây dựng nền văn

-

hoá đậm đà bản săc dân tộc.
Nhà nước với chức năng quản lí, điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh tế như đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội, thiết
Page 9


lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quá để tạo môi
trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh hoạt động hiệu quả. Xây dựng

kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đảm bảo yêu cầu của phát triển kinh tế. Nhà nước
quản lí tài sản côn và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội. Thực
hiện đúng chức năng quản lí nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản
công của Nhà nước. Nhà nước chỉ với chức năng điều tiết và quản lí vĩ mô, không
can thiệp quá sâu vào chức năng quản trị kinh doanh cũng như quyền tự chủ của
-

doanh nghiệp.
Nền kinh tế ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới
sự dẫn dắt và lãnh đạo của Đảng. Chính nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đảm bảo cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi tổ chức của dân cư, mỗi
gia đình, mỗi người dân bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội. Trong đường lối
của Đảng mà ta đã đề ra, Đảng chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường phải

-

dựa trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu, đa dạng hóa hình thức kinh tế.
Ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mặc dù phân bố
các nguồn lực cho các nhu cầu sử dụng khác nhau là khác nhau, được quyết định
chủ yếu bởi thị trường, nhưng nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò trong việc

-

điều tiết vĩ mô, bảo đảm giữ vững các cân đôi khách quan.
Kinh tế phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự tìm tòi thể hiện cả
về lí luận lẫn thực tiễn của chủ nghĩa xã hội trong thời đại hiện nay. Đại hội Đảng
IX, Đảng ta đã xác định những nội dung lớn trong xây dựng nền kinh tế thị
trường ở nước ta trong những năm tới là tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lí kinh tế của Nhà nước.
Theo lí luận của Mac – Lenin, chúng ta đã biết cái riêng phong phú hơn cái

chung, cái riêng bao hàm cái chung. Ở đây, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là cái riêng trong nền kinh tế thị trường, nó vận hành theo những quy

Page 10


luật chung của kinh tế thị trường mà ngoài ra còn có những nét riêng đặc trưng
mà chúng ta đã nói.
2.3. Những thành tựu và hạn chế nền kinh tế thị trường định h ướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.3.1.Thành tựu
-

Ý thức dân chủ, sự tự ý thức về bản thân sẽ có điều kiện và cơ hội để phát triển
Đề cao trách nhiệm cá nhân, nâng cao ý thức tư duy lí tính, lành mạnh.
Mỗi người phải học tập, rèn luyện tay nghề.
Ý thức lao động, bản lĩnh, năng động, thích nghi và sáng tạo.
Các hoạt động văn hóa tiềm ẩn được phát triển đa dạng, phong phú.
2.3.2.Hạn chế

-

Quá trình xây dựng, hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn

-

chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu

-


hiệu quả. Tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan lieu vẫn còn quan trọng.
Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất.
Hệ thống an ninh xã hội còn sơ khai. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội và bảo vệ

-

môi trường chưa được giải quyết tốt.
Phân bố nguồn lực quốc gia chưa hợp lí.
Thị trường đất đai còn chưa hợp lí.
PHẦN KẾT LUẬN
Giữa cái chung và cái riêng luôn có một sợi dây liên kết gắn bó với nhau.
Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn tại
của mình; cái riêng tồn tại mối liên hệ dẫn đến cái chung. Với ý nghĩa là một “cái
riêng”, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng tuân
theo những quy luật chung mang tính bản chất của nền kinh tế thị trường, đồng

Page 11


thời cũng mang những bản sắc đặc trưng, vốn có của Việt Nam cần được nghiên
cứu và khai thác một cách hữu hiệu nhất.
Xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là sự phát triển lâu dài với đầy
những khí khăn thử thách. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới,
những biến động nhiều mặt của đất nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã
hội đòi hỏi ta phải kiên định, khắc phục khó khăn đồng thời phải sáng suốt, nhạy
bén để thích ứng với tình hình thực tế. Quán triệt phương pháp luận cả chủ nghĩa
Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng thành thạo vào việc nghiên cứu
và quản lí kinh tế nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của
chúng ta chắc chắn sẽ được cất cánh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-Lenin-NXB Chính trị quốc gia
2. />
Page 12


3. />4. />
Page 13



×