Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Lý luận chung về không gian nghệ thuật trong văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.31 KB, 18 trang )

Lý luận chung về không gian nghệ thuật trong văn học (Vũ Minh Đức)
“Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời gian, không gian
chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và con người” (Trần Đình Sử).
Mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ tọa độ không – thời gian xác định, nên
những cảm nhận của con người về thế giới đều bắt đầu từ sự đổi thay của không
gian, thời gian. Và từ sự đổi thay của không gian – thời gian, con người nhận ra sự
đổi thay trong chính mình.
Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Thi pháp ca dao thì: “thời gian và
không gian là những mặt của hiện thực khách quan được phản ánh trong tác phẩm
tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ
thuật một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể hiện nguyên tắc cơ bản của
việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng hệ thống nghệ thuật”
[6.tr.287].
.
1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm không gian
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê đã cắt nghĩa, lí giải về không gian như
sau: “Không gian là khoảng không bao la trùm lên tất cả sự vật hiện tượng xung
quanh đời sống con người” [16.tr.633].
Trước khi có định nghĩa hoàn chỉnh về không gian như trên, trong tư tưởng của
người phương Đông xưa đã quan niệm cấu trúc không gian vũ trụ với mô hình tam
tài và ngũ hành:
“Tam tài” là một khái niệm bộ ba, “ba phép”: Thiên – Địa – Nhân. Nó thể hiện
quan niệm của người xưa về cấu trúc không gian dưới dạng mô hình ba yếu tố.
Còn “Ngũ hành” là khái niệm dùng để mô phỏng cấu trúc không gian vũ trụ bởi
năm yếu tố (năm hành) theo thứ tự: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.
Và xét về bản chất của những từ “thế giới”, “vũ trụ” thì đó đều là những khái niệm
để chỉ tổng thể không – thời gian.


“Thế giới” gồm có thế – đời (thời gian) và giới – cõi (không gian). Như vậy, thế


giới được hiểu là cõi đời. Nghĩa là nó bao hàm cả không gian và thời gian.
Về “vũ trụ” lại có câu :
Tứ phương thương thượng hạ chi vũ
Vãng cổ lai kim vị chi trụ
(Hoài Nam Tử – Tề tục huấn)
(Bốn phương, trên dưới gọi là vũ
Xưa qua, nay lại gọi là trụ)
Theo cách hiểu đó thì vũ trụ cũng có nghĩa là một tổng thể không – thời gian. Mà
con người cũng là một tổng thể của không – thời gian, nghĩa là nó là một tiểu vũ
trụ trong đại vũ trụ, môt tiểu thế giới trong đại thế giới. Nhà thơ Trần Tử Ngang
cũng đã có những vần thơ rất hay viết về sự cô độc của con người khi đối diện
không gian rộng lớn và thời gian không cùng:
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ
(Đăng U Châu đài ca – Trần Tử Ngang)
Như vậy, không gian chính là môi trường chúng ta đang sống với sự tồn tại của các
sự vật. Không gian chính là hình thức tồn tại của vật chất với những thuộc tính như
cùng tồn tại và tách biệt, có chiều kích và kết cấu.
1.1.2. Khái niệm không gian nghệ thuật
Để hiểu được khái niệm không gian nghệ thuật một cách cơ bản và khái quát nhất,
tôi xin được viện dẫn cách hiểu của Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn
học: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó” [4.tr.162].


Trần Đình Sử lí giải thêm: “không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại cùng thế giới
nghệ thuật” [21.tr.88].Ông còn khẳng định một cách hết sức chắc chắn: “không có
hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào không

nào không có một nền cảnh nào đó”, và “không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng
tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về
cuộc sống” [21.tr.88 – 89]. Như vậy, không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại
và triển khai của thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện
chiếm lĩnh đời sống, “mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”. Và sự miêu tả, trần
thuật bên trong tác phẩm văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, ta xác
định được vị trí của chủ thể trong không – thời gian, thể hiện ở phương hướng
nhìn, diễn ra trong một trường nhìn nhất định. Căn cứ vào điểm nhìn mà xác định
được vị trí của chủ thể trong không – thời gian, thể hiện ở phương hướng nhìn,
khoảng cách nhìn, ở đặc điểm của khách thể được nhìn. Điểm nhìn không gian
được thể hiện qua các từ chỉ phương vị (phương hướng, vị trí), để tạo thành “viễn
cảnh nghệ thuật”.
Tóm lại, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật.
Không gian nghệ không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các
ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu
cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để
khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ
thuật. Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.
1.2. Đặc điểm của không gian nghệ thuật
1.2.1. Không gian nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với không gian
khách thể. Bản thân không gian vật chất tồn tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại của
nó không phụ thuộc vào ý thức của con người, mà không gian vật chất chỉ trở
thành không gian nghệ thuật khi được tác giả cảm nhận về nó và qua đó thể hiện
cách cảm cách nghĩ của nhà văn về thế giới, là một quan niệm nhân sinh, một thái
độ sống trước cuộc đời:
Em đi để lại tiếng cười
Tim tôi vỡ một khoảng trời pha lê
Trăng vàng đêm ấy bờ đê



Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may
(Lời thề Cỏ may- Phạm Công Trứ)
Thật vậy, đêm trăng chỉ là đêm trăng sáng vằng vặc hay hao khuyết như bản thân
nó tồn tại không một chút cảm xúc, tâm trạng nếu không được “thẩm thấu” qua
tâm hồn tác giả, không mang suy nghĩ chủ quan của người nghệ sĩ. Nhà thơ Phạm
Công Trứ hồi tưởng lại không gian đêm trăng ở bờ đê mà nuối tiếc cho tình yêu
không thành.
1.2.2. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có một ranh giới phân biệt
với không gian vật chất bên ngoài, nhưng không dễ thấy như cái khung của một
bức tranh, cái sân khấu của một vở diễn. Mà có lẽ ranh giới ấy chỉ mờ nhạt mong
manh như “sợi tóc” (chữ của Thạch Lam), một làn khói mơ hồ, giống như cái sân
khấu của chèo sân đình không gian chiếu chèo và thế giới bên ngoài dường như
không có khoảng cách mà đôi khi lại hoà làm một. Như không gian đồng quê và
không gian phố thị đan quyện vào nhau qua nỗi nhớ của Hồ Huy Sơn trong bài thơ
Ở Hà Nội nghe hát dân ca:
Tháng Ba Hà Nội
Những nàng Bân không còn cặm cụi đan áo
Tôi lúi húi nơi góc giường tự sưởi ấm mình bằng nỗi nhớ quê
Bắt gặp cánh cò kiếm ăn về mệt mỏi
Mùa hanh – bàn chân mẹ nẻ toác…
Kí ức trải dài khiến lòng tôi thăn thắt
Nỗi nhớ không thể ngồi yên một chỗ
Tôi với tay lấy chiếc phone và gắn vào tai
Điệu dân ca loang chảy
Tôi chuếnh choáng
Giật mình
Những bản nhạc Pop, Rock không thể che đậy tôi.


(Ngày lạ – Hồ Huy Sơn) [17.tr.23]

Không gian ấy có thể được mở rộng bao la hay thu hẹp chật chội tuỳ theo cái nhìn
nghệ thuật của tác giả :
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
(Tràng giang- Huy Cận)
Từ một không gian điểm, nơi mà nhân vật trữ tình đang đứng giữa bao la vũ trụ
được mở rộng ra thành không gian ba chiều. Đối lập với cái tôi nhỏ bé thì không
gian lại càng trở nên rộng lớn đến không cùng:
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
(Ngôn hoài- Không Lộ thiền sư)
Không gian nghệ thuật là một hình tượng nghệ thuật sinh động chứ không khô
cứng. Nó không đơn giản chỉ là cảm nhận bằng tư duy tỉnh táo mà nó còn được
cảm nhận bằng óc chủ quan, bằng cảm xúc, bằng tâm trạng của nhà văn:
Anh là tháp Bay-on bốn mặt
Giấu đi ba còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn mình
(Tháp Bay-on- Chế Lan Viên)
Có người nhìn tháp Bay- on chỉ thấy đó là ngọn tháp, một công trình kiến trúc
nhưng bằng giác quan căng mở với sự cảm nhận vi tế của thi sĩ, Chế Lan Viên đã
thấy ở đó là cả một không gian mang tâm trạng buồn đau, bế tắc. Tác giả thấy ở đất


nước Chiêm Thành, hình ảnh của những tháp Chàm đổ nát, mỗi một mặt lại mang
những tâm trạng, cảm xúc khác nhau và nhà thơ thấy mình trong đó. Nhà văn là
người thư kí trung thành của thời đại, trái đất nứt làm đôi vết nứt đi qua trái tim
người nghệ sĩ và khi đến với bạn đọc thì đã dính máu. Do cảm nhận bằng tâm trạng

nên không gian trong thơ có cách biểu hiện riêng không giống với không gian vật
chất bên ngoài. Trong tác phẩm văn học có nhiều không gian được tổ chức như
vậy:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
hay :
Trong cánh cửa đã đành phận thiếp
Ngoài chân mây há kiếp chàng vay
(Chinh phụ ngâm- Đoàn Thị Điểm)
Không gian trong văn học chia thành những ranh giới giá trị thể hiện quan niệm về
trật tự thế giới và sự lựa chọn của con người. Đó là sự tách biệt về ranh giới của
không gian, giữa không gian bên trong và không gian bên ngoài, giữa ranh giới bất
biến và khả biến:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt
(Lời kĩ nữ – Xuân Diệu)
Nó có thể là sự phân chia giữa cuộc sống bên ngoài theo đúng nghĩa của nó và “địa
ngục trần gian” như trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Hình ảnh lỗ
vuông ô cửa sổ trong tác phẩm chính là ranh giới phân biệt thành hai không gian
đối lập nhau hoàn toàn. Trong cảm nhận của Mị: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có
một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng” [10.tr.92], là hình ảnh của ngục thất tinh
thần, địa ngục chốn trần gian đã cầm cố tuổi xuân của cuộc đời người con gái bản
cao. Chúng ta cũng dễ dàng nhận diện được kiểu không gian này trong các truyện
ngắn của M.Gorki. Đó là không gian tầng hầm, là không gian của những con người


chân đất, nó luôn là không gian chật chội, tù túng và ẩm thấp như chính cuộc sống
của những con người “khốn nạn” này nằm trong sự đối lập với không gian rộng
lớn, bao la ngoài xã hội, như các truyện: Vợ chồng Ốrlov, Hai mươi sáu và một…

1.2.3. Không gian nghệ thuật mang tính ước lệ, mang ý nghĩa cảm xúc:
Thảo nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
(Cung oán ngâm khúc- Nguyễn Gia Thiều)
Không gian của “bãi bể nương dâu” luôn gợi tới sự trôi chảy của thời gian, sự đổi
thay của không gian của kiếp người:
Thương hải biến vi tang hải
Tang điền biến vi thương hải
Nghĩa là: chỗ kia, xưa là biển khơi nay đã thành nương dâu xanh tốt hay chỗ là
nương dâu ngày trước thì nay đã biến thành biển cả. Vì thế, không gian bãi bể,
nương dâu luôn được chọn làm nền cảnh cho các cuộc chia li, nó dự báo trước sự
biến đổi lớn lao trong đời người. Chẳng thế mà :
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai
(Chinh phụ ngâm- Đoàn Thị Điểm)
Không gian trong văn học được biểu hiện bằng không gian điểm mang tính ước lệ
tượng trưng: Ôlimpơ, Tây Trúc, Thiên đình, thượng giới, làng quê, trong nhà,
ngoài vườn, bến sông, tha hương, thành phố, biển khơi… Ví thử mỗi khi nhắc đến


nỗi nhớ quê hương của khách lữ thứ, người ta lại mượn không gian sông nước
mênh mông với làn khói lam chiều:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

( Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu)
Cũng như cứ nhắc đến quê hương là người ta lại nhắc tới hai từ “hương quan”.
Nghĩa ban đầu của hai từ này là để chỉ cánh cửa và chiếc then cài, bởi ngày xưa
mỗi làng thường có cổng làng, nó như là biểu tượng của làng quê.
Không gian biểu thị bằng các từ chỉ không gian vốn đã mã hoá sẵn trong đời sống,
như: trên cao, dưới thấp, nghiêng. Về tính chất thì có thể là: rộng – hẹp, dài – ngắn,
phóng khoáng…:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
(Tràng giang – Huy Cận)
Không gian nghệ thuật trong văn học mang tính tượng trưng và mang tính quan
niệm. Tính quan niệm này xuất phát từ nguyên tắc mô phỏng thiên nhiên trong hội
hoạ, đó là luật thấu thị – nhìn sự vật theo tỉ lệ xa gần, sáng tối trong hội hoạ
phương Tây. Vì thế trong văn học cổ, con người nhìn không gian theo cách hiểu
chứ không theo cái nhìn thấy. Ví dụ như trong tranh đời Đường, nhân vật quan
trọng thì vẽ to, nhân vật phụ thì vẽ nhỏ.
Chính khoảng cách xa – gần trong cách nhìn cũng góp phần thể hiện quan niệm, tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn. Hình tượng chiếc thuyền ngoài xa trong truyện ngắn
cùng tên của nhà văn Nguyễn Minh Châu được khám phá dần cũng theo khoảng
cách xa gần. Ban đầu khi chiếc thuyền ở ngoài xa thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng nhìn thấy đó là cảnh tượng đẹp, thơ mộng giống như một bức tranh cổ, một
“cảnh đắt”. Nhưng Nguyễn Minh Châu đã thật sâu sắc, ông kéo con thuyền nghệ


thuật lại gần hơn để tìm hiểu. Cảnh tượng diễn ra khi chiếc thuyền không còn ở
ngoài xa nữa thật đối lập với cảnh tượng ban đầu, thì ra đằng sau vẻ đẹp ấy lại là
hiện thực cuộc sống đầy cay đắng của con người, là những “vết xước trong tâm
hồn con người”.
Tất cả các cặp đối lập không gian trong thế giới đều hàm chứa nội dung tư tưởngđạo đức. Ví dụ: cao – thấp, khép kín – mở ra, trái – phải, trước – sau, thẳng – cong,
chật – rộng… Những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng thường hay sử dụng trong

văn học, như: con đường, ngã ba, ga tàu, rừng quan san, bến sông… là những hình
ảnh gợi lên sự chia li:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
hay:

(Tống biệt hành – Thâm Tâm)

Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
(Tryện Kiều – Nguyễn Du)
Thiên nhiên trong thơ cổ điển rõ ràng có một ý nghĩa biểu trưng cho môi trường
thanh sạch, nhàn nhã, lánh xa bụi trần:
Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai ben bảng gần
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan
(Cuối xuân tức sự – Nguyễn Trãi)
Không gian nghệ thuật thể hiện tập trung vào cái nhìn, điểm nhìn, điểm quan sát.
Điểm nhìn là vị trí của chủ thể trong không thời gian, thể hiện ở phương hướng
nhìn, khoảng cách nhìn, ở đặc điểm của khách thể được nhìn. Nhà thơ Tô Đông
Pha đời Tống đã có câu thơ rất hay:
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng


Nếu như chỉ đọc thoáng qua thì câu thơ dường như là một sự vô lí. Tùng là loài cây
sống ở trên núi cao, ở những vách đá cheo leo, mà lại có sóng vỗ nơi ngọn tùng ?
Tuy nhiên, nếu xét ở điểm nhìn, điểm quan sát thì ta thấy câu thơ đã thể hiện sự
quan sát tinh tế của tác giả. Nhà thơ đứng ở vị trí là một dãy núi cao hơn, từ phía
xa, vì thế điểm nhìn có vai trò quyết định đến cái nhìn của nhà văn, nó chi phối tư

duy nghệ thuật. Trong nguyên tác thi phẩm Tân xuất ngục học đăng sơn, Hồ Chí
Minh viết:
Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Thế nhưng bản dịch thơ đã dịch là:
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Nếu hiểu rõ về điểm nhìn ta có thể thấy sự khác biệt về ý nghĩa giữa bản dịch thơ
với nguyên tác. Hiểu theo bản dịch thơ thì nhà thơ đứng ở vị trí dưới thấp mà nhìn
lên cao hơn mới thấy núi trước rồi thấy mây sau. Bởi thế trình tự mây đến núi
không phải là sự sắp xếp ngẫu nhiên mà nó chịu sự chi phối bởi điểm nhìn của chủ
thể, nhà thơ đứng ở vị trí cao hơn nhìn xuống thấy mây tầng tầng lớp lớp bao phủ
lấy núi.
1.3. Các hình thức không gian nghệ thuật trong văn học
Như ở trên đã trình bày, bao phủ lên không gian nghệ thuật là quan niệm của nhà
văn. Điều đó mới làm không gian vật chất trở thành không gian nghệ thuật. Mà
quan điểm của nhà văn lại luôn biến đổi theo thời đại, giống như nước triều dâng
nó mang đi những gì là cũ, và sau mỗi lần trở về lại làm cho bờ cát thêm mới. Vì
vậy mà việc tổ chức không gian nghệ thuật trong tác phẩm luôn chịu sự chi phối và
tác động trực tiếp từ quan niệm thời đại và yếu tố thể loại.
1.3.1 Không gian nghệ thuật trong văn học dân gian
Những tác phẩm văn học dân gian là những suy nghĩ hồn nhiên, là tình cảm chân
thật của những con người lao động hàng ngày. Bởi thế cái nhìn mang tính quan
niệm của họ cũng rất đơn giản, ít phức tạp hơn so với các giai đoạn sau – khi tư
duy con người đã phát triển ở mức cao. Đặc điểm chung của không gian văn học
trong những sáng tác dân gian là mô hình ba giới, ba tầng, ba cõi: Thượng giới,
trần gian và địa ngục với thần linh, người, ma quỷ. Ở đó, con người có thể tự do đi


lại trong ba cõi mà ít gặp sự trở ngại nào (nếu như không muốn nói là không hề có
sự trở ngại). Đó chính là tính chất tôn giáo của không gian nghệ thuật trong văn
học dân gian.

Tuy nhiên ở mỗi thể loại khác nhau, thì không gian nghệ thuật lại có những nét
khác biệt so vớí thể loại khác. Cụ thể:
Không gian thần thoại: Không gian có tính chất đặc thù là tính nguyên sơ, hoang
dã của nơi xuất phát đầu tiên của sự kiện (như trời đất chưa phân, trời sụp phía
Đông Nam…). Điều này có thể lí giải bởi: thần thoại là một trong những thể loại
văn học sớm nhất của loài người, “nó ra đời vào thời kì thơ ấu của con người và
một đi không trở lại” (K.Mark). Lúc đó, vũ trụ chỉ là cõi hồng hoang, âm u, lạnh
lẽo vắng bóng dáng con người: “Ban đầu vũ trụ là một cõi hỗn độn, mờ mịt, tối
tăm, lạnh lẽo. Từ cõi hỗn độn ấy, Thần Trụ Trời xuất hiện, ông lấy đầu đội trời lên
cao và dùng chân đạp đất thấp xuống” [26.tr.14] (Thần trụ trời).
Không gian sử thi: Nền tảng của không gian sử thi là không gian thần thoại có tính
chất hư ảo, kì diệu, không gian thay đổi theo ý thức của thần linh. Song không gian
sử thi lại mang tính địa vực. Trong Iliat và Ôđixê của Homer, nổi bật lên không
gian vùng biển với các hòn đảo, không gian của chiến trường rộng lớn, trời đất bao
la, nghề hàng hải phát triển. Bài ca cuộc hành quân của binh đoàn Igor mang không
gian nước Nga cổ xưa với từng đoàn kị binh, xe ngựa với những cỗ xe tam mã, tứ
mã. Đến không gian hùng vĩ của bạt ngàn núi rừng cùng những tiếng thét gào của
những dòng thác trong sử thi Tây Nguyên, mà tiêu biểu là sử thi Đam San, mỗi
không gian đặc trưng của từng vùng miền đã thể hiện tình yêu quê hương và lòng
tự hào xứ sở.
Không gian truyện cổ tích: Đắm mình trong thế giới truyện cổ tích là sự say đắm
trong những giấc mơ ngọt ngào của người xưa, là ước mơ về một cuộc sống ấm no,
hạnh phúc không còn những áp bức bất công. Bởi thế, không gian truyện cổ tích có
đặc tính là ít tính chống đối (cản trở) của môi trường vật chất – tính siêu dẫn của
không gian. Ở đó, con người có thể tự do hoạt động, tự do di chuyển mà không gặp
trở ngại, và luôn có sự giúp đỡ của lực lượng thần kì, siêu nhiên. Chính vì thế mà
đã có những phương tiện đi lại kì diệu như: chiếc thảm bay, đôi hài bảy dặm, nồi
cơm ăn mãi không hết, viên ngọc quý giúp nghe được tiếng nói của muôn loài và
có thể rẽ nước đi xuống biển…



Không gian ca dao: Ca dao là tiếng nói chân thật của tình cảm những người dân lao
động, là cây đàn muôn điệu, là dòng sữa trong lành đã nuôi ta khôn lớn. Là người
Việt Nam, ai chẳng từng lớn lên bên vành nôi cánh võng với lời ru của bà của mẹ.
Trong lời ru, ta bắt gặp hình ảnh của con cò, của dòng sông, của “thời gian đằng
đẵng, không gian mênh mông” (Nguyễn Khoa Điềm). Không gian trong ca dao
không còn yếu tố hư ảo như các thể loại trước đó, mà thay vào đó là không gian
sinh hoạt, không gian lao động của con người:
Bao giờ cho đến tháng hai
Con gái làm cỏ, con trai be bờ
Qua những bài ca dao đó, chúng ta thấy được những sắc thái, những cung bậc tình
cảm khác nhau của người lao động.
1.3.2. Không gian nghệ thuật trong văn học viết trung đại
Trung đại là một phạm trù văn học lớn, sự đa dạng của không gian nghệ thuật trong
các thể loại với các tác giả khác nhau. Song về mặt tư tưởng – thế giới quan của
các tác gia trung đại lại tương đối thống nhất. Cho nên, không gian nghệ thuật cũng
có tính thống nhất. Nền văn học Trung Quốc và Việt Nam do chịu ảnh hưởng từ
những học thuyết Nho, Phật, Đạo nên có chung một mô hình vũ trụ. Vì vậy, nét
chung của không gian nghệ thuật là không gian vũ trụ, gắn liền với tính bất biến
của không gian. Không gian vũ trụ được tạo thành bởi nhật, nguyệt, mây, sao,
sông, núi, chim, muông, cây cỏ. Mỗi khi “con người bất đắc chí thì tìm về thiên
nhiên, vũ trụ như tìm về nguồn cội. Khi ngắm cảnh trời mây, giang hồ họ cũng như
mơ màng về nguồn cội” (Trần Đình Sử). Bởi quan niệm của con người thời kì này
xem vũ trụ là căn bản tồn tại của cá thể. Há chẳng phải Nguyễn Trãi, một đại thần
của triều Lê, cũng đã từng về núi Côn Sơn để ở ẩn những mong thoát khỏi vòng lợi
danh chốn quan trường với những bon chen đố kị, ghen ghét. Ở đây, ông sống chan
hoà với thiên nhiên cảnh vật với tâm trạng thoải mái, thanh thản. Thông qua đó ông
cũng chiêm nghiệm về lẽ sống ở đời: Dù các hạng hạng người “hiền”, “ngu” với
những sở dục khác nhau thì sau khi chết đi đều trở về với cỏ cây:
Trăm năm trong cuộc nhân sinh

Người như cây cỏ thân hình nát tan


… Núi gò đài các đó đây
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh
(Côn Sơn ca – Nguyễn Trãi)
Vì thế, con người hãy biết vui với những gì mà mình đang có. Qua cách biểu hiện
thông qua vũ trụ, con người muốn khẳng định vị trí của mình. Không gian vũ trụ
mang tính đối ứng với con người ở vị trí trung tâm, khiến cho con người càng cảm
thấy bé nhỏ, cô độc giữa vũ trụ vô cùng vô tận. Chính vì cảm giác ấy mà trong con
người luôn “dấy lên khát vọng hoà nhập vào vũ trụ, khát vọng chiếm lĩnh không
gian”. Vì thế, ta luôn thấy con người ở tư thế “đăng cao”, “đăng u châu đài”,
“thướng sơn”, “tân xuất ngục học đăng sơn”. Con người lên cao chiếm lĩnh không
gian trong cái nhìn xa xăm, bao quát, đăng cao để viễn vọng, để “thu vào tầm mắt
mụôn trùng nước non” :
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
(Ngôn hoài- Không Lộ thiền sư)
Không gian mang tính nhàn tản thoát tục, gợi lên cuộc sống bình dị thanh nhàn của
con người trong thế giới tự nhiên như bài thơ Nhàncủa Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao



Không gian nghệ thuật mang tính ước lệ, tượng trưng cho thế giới, nó có tính gợi
nhiều hơn là tả. Và nó có sự đối lập giữa không gian cố hương với tha hương,
mang ý vị đồng quê ngọt ngào với xa lạ, lạnh lùng:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Hoàng Hạc lâu- Thôi Hiệu)
Theo dòng chảy của thời gian, không gian vũ trụ trong văn học trung đại đã dần
được “trần tục hoá”, “thế tục hoá” gắn với không gian sinh hoạt đời thường. Có thể
nói, khi trước, con người ta phóng tầm mắt vào vũ trụ bao la rộng lớn để chinh
phục vũ trụ thì khi xã hội với những biến động mạnh mẽ, cuộc sống của con người
đang rên siết trong những cảnh đói khổ, chết chóc đã kéo các nhà thơ trở về với
cuộc sống hiện thực, yêu cầu họ phải là những người sáng tác ra những tác phẩm
văn chương bám rễ vào cuộc đời. Trong trường hợp này có thể thấy rõ nhất ở nhà
thơ Đỗ Phủ, người được coi là chiếc gạch nối của hai thời kì thịnh Đường và suy
Đường, là nhà thơ hiện thực sớm nhất của Trung Quốc, thơ của ông nóng bỏng tính
thời sự. Nói như tác giả Tiêu Điều Phi, “máu và nước mắt của nhân dân đã tưới
đẫm cho vườn thơ của Đỗ Phủ” [3.tr.21].
Không gian “trần tục hoá” trong thơ Hồ Xuân Hương đã được thể hiện thông qua
việc miêu tả những địa danh trong cảm quan “văn hoá phồn thực”, như đèo Ba
Dội, hang Cắc Cớ, hang Thánh Hoá… Và không gian “thế tục hoá” trong thơ của
Nguyễn Khuyến, Tú Xương với không gian làng quê yên tĩnh cùng những cảnh
phố xá, cao lâu, nơi buôn bán sinh hoạt chợ búa:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công



Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
(Thương vợ – Tú Xương)
Có thể nói, Tú Xương với những vần thơ của ông đã “đánh dấu sự phai nhạt của
không gian nghệ thuật truyền thống, mở ra không gian sinh hoạt đời thường, đô
thị” [20.tr.224].
1.3.3. Không gian trong văn học hiện đại
Do sự đổi thay trong quan niệm về xã hội, cá nhân, hoạt động của con người mà
không gian nghệ thuật trong văn học đã thay đổi. Bên cạnh việc kế thừa các kiểu
không gian nghệ thuật trên, ở giai đoạn này, không gian nghệ thuật đa dạng và
phong phú hơn.
Với đại biểu cuối cùng của thời kì văn học trung đại, ông đã kéo không gian nghệ
thuật lại gần với cuộc sống của con người hơn. Và đến các tác giả văn học hiện đại,
không gian nghệ thuật mang tính khái quát cao, phạm vi phản ánh rộng lớn. Đó là
toàn bộ đời sống xã hội – không gian của con người phải vật lộn với cuộc sống đầy
sóng gió.
Trong Tấn trò đời của Banzắc, ông đã xem xã hội như một cái biển lớn, rộng vô
cùng, một vực sâu đầy bí ẩn với giông bão bên trong của xã hội Pháp lúc bấy giờ.
Mà trong đó không gian con đường là ý nghĩa khái quát hơn cả, nó trải dài theo
mọi miền đất nước và nó còn là hình ảnh của đường đời. Iu.Lốtman đã nhận xét:
“muốn trở thành cao cả thì không gian không chỉ cần bao la ( hoặc vô bờ bến) mà
phải có phương hưóng và con người ở trong đó cũng phải vận động về một mục
đích. Không gian ấy phải trở thành con đường” [21.tr.101]. Song song với hình ảnh
của con đường là người đi, không gian được mở rộng theo từng bước chân của
khách bộ hành, đó là không gian mang tính xã hội:
Đường qua mấy phố Quy Nhơn
Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần

Đường lên xứ lạ Kon Tum



Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao

Đường lên Đắc Sút, Đắc Pao
Đèo leo ngon thác, cầu treo mặt ghềnh

Đường lên đỉnh núi Đắc Lay
Heo heo gió lạnh, sương dày vắng chim
(Tiếng hát đi đày – Tố Hữu)
Không gian nghệ thuật mang tính cá nhân, văn học trong thời đại này đã đi sâu
phản ánh cuộc sống, số phận của từng cá nhân, trong mối quan hệ hữu cơ với cuộc
sống nhân dân. Vì vậy không gian văn học mang đậm dấu ấn cá nhân. Đến với các
tác giả Thơ mới, chúng ta được đắm chìm trong những không gian cá nhân nhỏ
hẹp, quẩn quanh bế tắc. Với Xuân Diệu thì không gian luôn gắn với tình yêu và nỗi
buồn, với Chế Lan Viên lại là không gian nghệ thuật đầy hư ảo mộng mị, ma quái,
kinh dị với những máu, tuỷ, sọ dừa cùng những tiếng rỉ rên than…, hay lạc vào
không gian của những cơn say trong thơ Vũ Hoàng Chương, về lại chốn quê bình
yên thơ mộng trong thơ Nguyễn Bính với hoa cỏ may, giậu mồng tơi, những đàn
bướm lượn vòng, những ngày mưa xuân cùng nụ cười mong mùa xuân của tình
yêu:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Khi tình yêu lỡ dở không thành, không gian mưa xuân ấy lại mang một nỗi buồn
đến tái tê:
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
(Mưa xuân – Nguyễn Bính)


Không gian nghệ thuật trở về gần hơn với cuộc sống của con người, phản ánh cuộc

sống khổ cực của những con người lao động, những số phận kém may mắn. Hình
ảnh con người hiện lên với vai trò là nhân vật trung tâm của bức tranh cuộc sống
xã hội. Nhà văn đã bám sâu vào hiện thực cuộc sống để phản ánh chân thật những
nỗi nhọc nhằn vất vả của cuộc sống con người trên hành trình mưu sinh và kiếm
tìm hạnh phúc đầy nhọc nhằn. Tác giả Nguyễn Minh Châu, trong truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa, ông đã khám phá về cuộc sống của con người ẩn sau những
vỏ bọc của cuộc sống, đồng thời là sự khám phá, phát hiện và chiếm lĩnh không
gian cuộc sống, không gian nghệ thuật theo khoảng cách gần – xa. Khi chiếc
thuyền ở ngoài xa, cuộc sống hiện lên thật đẹp giống như một bức tranh đẹp lãng
mạn và thơ mộng nhưng khi nhà văn kéo con thuyền nghệ thuật lại gần bờ để nhìn
ngắm kĩ hơn, thì lại hiện lên một bức tranh hoàn toàn đối lập với ban đầu. Nguyễn
Minh Châu nhận ra rằng, cuộc sống của con người còn rất nhiều những khó khăn,
thiếu thốn, những vết xước trong tâm hồn để từ đó với tư cách là nhà văn, người
cầm bút đứng giữa cuộc đời, ông gióng lên những hồi chuông thức tỉnh: hãy cứu
lấy nhân tính của con người.
Văn học không chỉ phản ánh đơn lẻ, rời rạc, mà nó luôn hướng tới tầm khái quát.
Từ những không gian mang đậm tính cá nhân đã được mở rộng, khái quát thành
không gian xã hội vô cùng rộng lớn. Khi nói đến không gian xã hội rộng lớn, nó
gắn liền với đặc trưng thể loại tiểu thuyết, mà thời kì văn học hiện đại tiểu thuyết
phát triển rất mạnh mẽ. Tiểu thuyết Chiến tranh và hoà bình của Leptonxtoi, với số
lượng nhân vật đồ sộ (khoảng 558 nhân vật) cùng với nó là rất nhiều mối quan hệ
khác nhau mà không gian được mở rộng, đa dạng. Có khi là không gian của những
căn phòng nhỏ hay những toà nhà rộng lớn, có khi là không gian của một khu rừng
và rộng lớn hơn là không gian của chiến trường, tất cả những không gian đó chính
là không gian của nước Nga đương thời.
Tiểu kết: Tóm lại, không gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật có vai trò
quan trọng trong việc thể hiện tính cách nhân vật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Không gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng của thi pháp học, là phương tiện
chiếm lĩnh đời sống, là mô hình nghệ thuật về cuộc sống. Không gian nghệ thuật
góp phần thể hiện quan điểm nghệ thuật của mỗi nhà văn.

Không gian nghệ thuật luôn có sự biến đổi theo dòng chảy văn học. Ở mỗi thời kì,
giai đoạn văn học, không gian nghệ thuật mang những đặc trưng riêng làm nên dấu


ấn thời đại trong không gian nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trong văn học dân
gian mang đậm màu sắc tôn giáo huyền bí với mô hình không gian ba giới, ba tầng,
ba cõi. Đến văn học Trung đại, không gian nghệ thuật mang tính rộng lớn bất biến
của kiểu không gian vũ trụ, sau đó không gian được trở về gần hơn với cuộc sống
của con người, đó là kiểu không gian trần tục hóa, không gian thế tục hóa. Chỉ đến
văn học hiện đại, không gian nghệ thuật mới thực sự gần gũi với cuộc sống của cá
nhân con người, đi sâu phản ánh hiện thực cuộc sống đầy nhọc nhằn vất vả, không
gian nghệ thuật được cá thể hóa.
Bài được đăng bởi biên tập viên Phạm Ngọc Hiền vào lúc 04:25 – 16/09/2014



×