Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.56 KB, 9 trang )

Đề bài: Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia - dân tộc văn hiến có truyền thống yêu nước nồng nàn và
kiên cường, bất khuất. Cuối thế kỷ XIX, dân tộc Việt Nam bị rơi vào ách đô hộ của
thực dân Pháp. Sau bình định bằng vũ lực, thực dân Pháp đã tiến hành các cuộc khai
thác thuộc địa và thi hành một chính sách cai trị cực kỳ thâm độc, hà khắc. Xã hội
Việt Nam phân hoá một cách sâu sắc, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân
Pháp và tay sai trở t hành mâu thuẫn chủ yếu và ngày càng gay gắt. Nhân dân taliên
tiếp nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc, theo nhiều xu hướng, con đường chính
trị khác nhau, song đều thất bại, do thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn và một
giai cấp tiên tiến lãnh đạo, giai cấp địa chủ phong kiến đã suy tàn và phản động, giai
cấp tư sản quá nhỏ bé không đảm đương được ngọn cờ dân tộc. Cách mạng Việt Nam
“đen tối như không có đường ra”.
Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, mang trên mình lòng yêu nước, thương
dân sâu sắc, đã ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua một cuộc hành trình qua nhiều
châu lục, tắm mình trong nhịp sống thời đại, khảo sát phong trào đấu tranh cách mạng
của nhân dân nhiều nước trên thế giới, từ các cuộc cách mạng tư sản điển hình ở Âu Mỹ đến cách mạng vô sản Nga, với thiên tài trí tuệ và nhận thức sắc bén, Người đã
đến với Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định
con đường giải phóng dân tộc. Nhận thức sâu sắc vai trò của tổ chức và lý luận cách
mạng, sau khi trở thành một người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực nghiên
cứu, phát triển lý luận giải phóng dân tộc theo cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác Lênin để truyền bá vào Việt Nam, xúc tiến chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho việc thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam. Và sau đó, Nguyễn Ái Quốc
với tư cách là phải viên Quốc tế Cộng sản đã trở thành người sáng lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn nghiên cứu đề tài “Nguyễn Ái
Quốc là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam” cho bài tập lớn của mình.
NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử
1.

Hoàn cảnh lịch sử thế giới


Chủ nghĩa tư bản có sự chuyển biến lớn đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và tiến hành chiến tranh xâm lược và áp bức các dân tộc
thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và CNĐQ ngày càng gay gắt, do đó


vấn đề chống ĐQ giải phóng dân tộc là một vấn đề cấp thiết và chỉ có Đảng của gia
cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử này.
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã đánh tan một bộ phận lực
lượng của chủ nghĩa tư bản và mở đường giải phóng cho giai cấp công nhân và các
dân tộc bị áp bức toàn thế giới, mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là một nhân tố rất quan trọng
tác động đến Nguyễn Ái Quốc trong việc xác định con đường cách mạng của dân tộc
Việt Nam theo quỹ đạo cách mạng vô sản. ` `
Năm 1929, do tác động của chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân phát triển
mạnh, ý thức giai cấp, ý thức chính trị ngày càng rõ rệt. Cùng với các phong trào đấu
tranh khác, kết thành một làn sóng cách mạng dân tộc, dân chủ mạnh mẽ, trong đó
giai cấp công nhân đã thực sự trở thành lực lượng tiên phong. Thực tiễn đó đòi hỏi
cấp thiết sự lãnh đạo thống nhất, chặt chẽ của một chính đảng giai cấp vô sản.
Bên cạnh đó, tháng 3 năm 1919 Quốc tế cộng sản được thành lập với nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, các quốc gia bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới và giai cấp vô sản là
nòng cốt. Có thể nói, sự ra đời và phát triển của lý luận Mác – Lênin là nhân tố thúc
đẩy sự ra đời của các Đảng Cộng sản và sự thành lập Quốc tế Cộng sản. Điều đó
khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong việc quyết định sự phát triển
của xã hội.
2.
Hoàn cảnh lịch sử trong nước
Vào thế kỉ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đến cuối thế kỷ XIX, sau khi
cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lư ợc, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành kế
hoạch bóc lột sức người, sức của ở Việt Nam. Chúng thi hành một chính sách cai trị
cực kỳ thâm độc nhằm đầu độc về văn hóa, ngu dân về giáo dục hòng buộc nhân dân

ta phải mãi mãi trong vòng nô lệ. Dưới ách t hống trị của thực dân Pháp, xã hội Việt
Nam phân hoá một cách sâu sắc, các giai cấp cũ phân hoá, các giai cấp mới ra đời,
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp và tay sai trở thành mâu thuẫn
chủ yếu và ngày càng gay gắt.
Từ khi bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta trên cả nước đã liên tục đấu
tranh, nổi dậy ở nhiều nơi. Các phong trào yêu nước phát triển theo nhiều khuynh
hướng chính trị khác nhau. Đầu thế kỉ XX và đặc biệt là từ sau chiến tranh thế giới
thứ nhất, phong trào yêu nước theo khunh hướng chính trị tư sản và tiểu tư sản thành
thị diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ. Tuy vậy, các phong trào yêu nước đều lần lượt thất bại
vì đã không đáp ứng được những yêu cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Tính chất thời đại đã thay đổi. Con đường giải quyết mâu thuẫn xã hội, sự sắp


xếp lực lượng, phương pháp cách mạng, giai cấp lãnh đạo phải thay đổi. Vai trò lịch
sử thuộc về giai cấp vô sản. Ở Việt Nam, giai cấp vô sản đang hình thành và chưa có
đảng tiên phong của mình. Cách mạng Việt Nam đứng trước cuộc khủng hoảng trầm
trọng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Vì vậy, cần phải có một lãnh tụ
chính trị và con đường cứu nước mới, đáp yêu cầu bức xúc của cộng sản.
Cuối năm 1929 ở Việt Nam có sự tồn tại và hoạt động của 3 tổ chức cách mạng:
Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng
8/1929), Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tháng 9/1929). Sự ra đời của 3 tổ chức
này có ảnh hưởng lớn tới phong trào cách mạng nước ta; gây nguy cơ chia rẽ lớn,
tranh giành ảnh hưởng của nhau, công kích nhau.
Trước tình hình những biến đổi nhanh chóng của cách mạng thế giới và trong
nước và việc nhận được tài liệu của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc - Ủy viên Bộ
Phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, với tư cách đặc phái viên của Quốc tế
cộng sản đã rời Xiêm sang Trung Quốc để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức
Đảng. Hội nghị diễn ra từ ngày 6/1/1930 tại Cửu Long, Hương Cảng, Trung Quốc
II. Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam
1.

Nguyễn Ái Quốc tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin – con đường
cứu nước đúng đắn
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước mới - sang phương Tây với
bến đỗ đầu tiên trong hành trình là nước Pháp. Trong quá trình tìm đường cứu nước,
Người đã kiên trì chịu đựng gian khổ, ra sức học tập, tham gia các hoạt động chính
trị, xã hội, tìm hiểu các cuộc cách mạng trên thế giới, tự giác đến với chủ nghĩa Mác
– Lênin. Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người
của cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như cuộc Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng
Pháp (1789)… nhưng cũng nhận rõ những hạn chế của cuộc cách mạng tư sản. Từ đó
Nuyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và
hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Người rút ra kết luận: Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mệnh Nga là đã thành công,
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật”.
Tháng 7 nǎm 1920, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. Bản sơ thảo như luồng ánh sáng mặt trời


chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc, đem đến cho Người một nhãn
quan chính trị mới. Người tìm thấy trong Luận cương của Lênin lời giải đáp về con
đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam.
Sự kiện này, cùng với những hoạt động sát cánh với các tầng lớp công nhân, trí thức
Pháp và các đại biểu thuộc địa, cùng đồng bào mình trên đất Pháp trước đó, là tiền đề
có tính quyết định việc Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế
III) và thành lập Đảng Cộng sản Pháp, tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp lần thứ
XVIII tháng 12/1920. Người đã trở thành một trong những người sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp và cũng trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này
đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người - từ người yêu
nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn “Muốn cứu

nước phải giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.Từ đó, chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây đã có một phương hướng
mới. Người đã rút ra một luận điểm hết sức khoa học và cách mạng triệt để: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”.
2.
Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt
Nam, chuẩn bị những điều kiện cho thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã xúc
tiến hoạt động lý luận và thực tiễn nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin về nước
nhằm chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên
phong ở VIệt Nam. Việc truyền bá của Người diễn ra liên tục từ năm 1921 đến năm
1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu sự chiến thắng bước đầu của tư
tưởng cộng sản chủ nghĩa trong lịch sử tư tưởng nước ta.
- Về tư tưởng:
Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin thông qua báo chí. Người viết rất nhiều sách
báo, vừa làm chủ biên, chủ bút cho các tờ báo vạch trần tội ác dã man của thực dân
pháp bị che đậy bởi bộ mặt khai hóa văn minh. Những tác phẩm đăng trên báo như:
“Người cùng khổ”, “Đời sống nhân dân”, “Nhân đạo”, tạp chí Cộng sản. Thư tín quốc
tế, đặc biệt là năm 1925, Người viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã gây
tiếng vang và ảnh hưởng lớn đến các phong trào ở trong nước và các thuộc địa,…


Nội dung của các bài báo, các tác phẩm này đều tập trung lên án chủ nghĩa thực
dân, vạch trần bản chất xâm lược, phản động bóc lột, đàn áp tàn bạo của chúng. Nhất
là trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã vạch trần âm mưu, thủ đoạn của
chủ nghĩa đế quốc che dấu tội ác dưới cái vỏ “khai hóa văn minh”. Thực dân Pháp đã
bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho chính quốc... để "phơi thây trên chiến
trường châu Âu"; "đày đoạ" phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các thống sứ, quan lại thực dân

"độc ác như một bầy thú dữ" v.v.... Từ đó khơi dậy sự căm thù, nỗi căm hờn và tinh
thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần dân tộc trong lòng mỗi nhân dân thuộc địa nói
chung, người dân Việt Na nói riêng để đứng lên tiêu diệt “hai cái vòi của con đỉa đế
quốc” – một "vòi" bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một "vòi" bám vào nhân
dân thuộc địa.
- Về chính trị:
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra, phân tích chỉ rõ và chuẩn bị đồng thời vận dụng lý luận
chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn để giải phóng cách mạng dân tộc Việt Nam mà thế
hiện tập trung nhất trong tác phẩm “ Đường Kách Mệnh”. Người đã hình thành một
hệ thống luận điểm chính trị, sau này phát triển thành những nội dung cơ bản trong
cương lĩnh chính trị của Đảng.
Thứ nhất, Người khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là: Chỉ
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc.
Thứ hai, Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách
mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau nhưng không phụ
thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng
chính quốc góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc. Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc nhận
rõ, trong nước nền nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế
quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn được
nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm động lực cách mạng. Thứ tư, cách
mạng muốn dành được thắng lợi trước hết phải có Đảng cách mạng nắm vai trò lãnh
đạo. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa Mác – Lênin. Thứ năm, cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ
chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao. Những tư tưởng và quan điểm trên của
Nguyễn Ái Quốc được truyền bá qua Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên truyền bá
trong nước(qua phong trào vô sản hóa từ 1928 – 1929) làm cho phong trào công nhân
và các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ.
- Về tổ chức:



Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô tới Quảng Châu (Trung
Quốc). Người đã cùng những nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn
Độ, Thái Lan, Inđônêxia,… thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông.
Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng. Sau khi thành lập, Hội đã mở các lớp đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin cho những người trong tổ chức Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Ngoài ra hội còn cử người đi học trường đại học
Cộng sản Phương Đông (Liên Xô), trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc). Để
tuyên truyền Hội còn xuất bản tờ báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ.
Tháng 7/1925 tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông.
Năm 1928 Hội thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào các nhà máy,
hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân và truyền
bá chủ nghĩa Mác Lênin và lý luận giải phóng dân tộc vào Việt Nam.
3.

Nguyễn Ái Quốc trực tiếp thành lập Đảng cộng sản Việt Nam

* Trực tiếp tổ chức và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và tác phẩm Đường Kách Mệnh đã trực tiếp
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt
Nam, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng
(6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (7/1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
(1/1930). Ba tổ chức cộng sản đã thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, song cả
ba tổ chức đều hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau, làm phong trào
cách mạng trong nước có nguy cơ bị chia rẽ lớn. Được nghe báo cáo về tình hình
không thống nhất giữa các tổ chức cộng sản ở trong nước và Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên bị tan rã, Nguyễn Ái Quốc- Ủy viên Bộ Phương Đông, phụ trách
Cục phương Nam, với tư cách đặc phái viên của Quốc tế cộng sản đã rời Xiêm sang
Trung Quốc vào ngày 23-12-1929. Người triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng
sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp tại Hồng Công ngày 6-1-1930 để thành lập

Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị kéo dài đến tuần đầu tháng 2-1930. Ngày 8-21930, các đại biểu về nước.
* Phê phán hoạt động riêng rẽ của các tổ chức cộng sản, chỉ ra sai lầm của các
tổ chức cộng sản lúc bấy giờ


Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo xác định rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tự phê bình
và phê bình về những thành kiến giữa các tổ chức cộng sản, dẫn đến tình trạng xung
đột, công kích lẫn nhau, phải xóa bỏ những khuyết điểm đó và thành thật hợp tác để
thống nhất các tổ chức cộng sản. Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã phê bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của họ. Những khuyết điểm chủ yếu của An
Nam Cộng sản Đảng là: điều kiện công nhận đảng viên chính thức quá khắt khe, điều
kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng quá khắt khe. Đông Dương
Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: điều kiện công nhận đảng viên
chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ chức, đảng có
tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt. Kết
quả phê bình và tự phê bình đó dẫn tới sự thống nhất thành lập một Đảng Cộng sản.
* Chủ trì Hội Nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để đi đến thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam
Hội nghị bàn về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thảo luận thông qua
Chính cương, Điều lệ, kế hoạch thực hiện việc thống nhất các tổ chức cộng sản trong
nước, cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Những ý kiến chỉ đạo đó của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị tán thành và thực hiện.
Sau hội nghị hợp nhất đảng, ngày 24/02/1930 Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn xin gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam và đã được Ban chấp hành Trung
Ương lâm thời đồng ý. Như vậy trên thực tế đến ngày 24/02/1930 thì ba tổ chức cộng
sản ở nước ta đã được thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc là người đã đứng ra triệu tập Hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam và có
thể nói rằng công lao của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam là rất lớn.

Người cho thấy được tinh thần và trách nhiệm cao độ của Người đã trở thành uy tín,
sự tín nhiệm đối với người khác, sự chính trực và thẳng thắn nêu thẳng những yếu
điểm trong hội nghị giúp cho những người tham dự hội nghị có nhận thức đúng đắn
và cuối cùng đã đi đến đồng nhất ý kiến là hợp nhất các tổ chức cộng sản vào thành
một.
 Viết và thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
Hội nghị thành lập Đảng cũng đã thảo luận và thông qua “Chánh cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt” của Đảng do N guyễn Ái Quốc soạn thảo. Đây là cương lĩnh cách


mạng đầu tiên vạch ra con đường đi cho cách mạng Việt Nam. Chánh cương, Sách
lược vắn tắt có giá trị vô cùng to lớn - là một trong những nền tảng quan trọng xây
dựng nên đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta.
Chánh cương vắn tắt của Đảng chủ trương làm “tư sản dân quyền
c.m2 và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ của cuộc
cách mạng ấy, về phương diện xã hội thì làm sao cho dân chúng
được tự do, nam nữ bình quyền và phổ thông giáo dục theo công
nông hóa; về phương diện chính trị: đánh đổ chủ nghĩa đế quốc
Pháp và phong kiến tay sai, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc
lập, tổ chức ra chính phủ công nông binh và quân đội công nông; về
phương diện kinh tế thì phải thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thu hết
sản nghiệp lớn của đế quốc Pháp giao cho Chính phủ công nông
binh quản lý, thu hết ruộng đất chia cho dân nghèo, bỏ sưu thuế
cho dân cày mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật
ngày làm tám giờ.
Sách lược vắn tắt của Đảng ghi rõ: Đảng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân. Đảng phải tập hợp được đại bộ phận giai cấp và làm
cho giai cấp lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải đoàn kết được đại
đa số nông dân, phải dựa vững vào nông dân nghèo, phải hết sức
lãnh đạo nông dân nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ đại địa

chủ và phong kiến, Đảng phải "hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí
thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô
sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản
An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm
cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập
hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.
 Đề ra kế hoạch để các tổ chức cộng sản về nước xúc tiến việc hợp nhất, rồi
đi đến thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Hội nghị quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội, Hội phản
đế. Theo đó, Công hội và Nông hội sẽ thu hút những công nhân và nông dân không
thể kết nạp vào Đảng. Các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản vào Hội Phản đế. Hội nghị
xác định rõ thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên là cử cán bộ vào Nam Kỳ để lãnh đạo và đưa tổ chức này vào Hội Phản
đế, đối với Tân Việt thì không giải tán và cũng đưa vào Hội Phản đế, kết nạp những
người ưu tú trong tổ chức đó vào Đảng. Đảng chủ trương tranh thủ Quốc dân Đảng,
thu nạp đảng viên của Đảng này vào Hội Phản đế. Để thực hiện chủ trương đoàn kết
các tố chức cách mạng trong Mặt trận phản đế, "Đảng chỉ định một đồng chí chịu
trách nhiệm họp đại biểu tất cả các đảng phái như Tân Việt, Thanh niên, Quốc dân


Đảng, Đảng Nguyễn An Ninh, v.v. để thành lập Mặt trận phản đế và về sau cá nhân
hoặc tổ chức đều có thể gia nhập".
Đảng sẽ thành lập Hội Cứu tế làm nhiệm vụ đấu tranh chính trị bảo vệ những chiến sĩ
cách mạng, giúp đỡ họ và gia đình họ về vật chất khi họ bị chính quyền thực dân bắt
bớ, kết án và tù đày…
Về báo chí của Đảng, Hội nghị thành lập Đảng quyết định bỏ những tờ báo của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng xuất bản trước đây. Xuất bản một
tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền.
KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10 - 1930) lấy tên là Đảng Cộng sản Đông

Dương) ra đời năm 1930 là một sản phẩm của cách mạng nước ta, là kết quả của một
quá trình chuẩn bị lâu dài và gian khổ của Nguyễn Ái Quốc. Sau 10 năm chuẩn bị đầy
đủ về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảng cộng sản của ta đã ra đời trong
hoàn cảnh chính muồi.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện chính
là đội tiên phong cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn thể dân tộc, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, hiện thân cho trí tuệ, danh dự của dân tộc. Việc thành lập Đảng là
một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử Cách mạng Việt Nam, nó chứng tỏ
rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Có thể nói, sự
ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam gắn liền với vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Người không chỉ chuẩn bị về mặt tổ chức, chính trị, tư tưởng cho sự ra đời của Đảng,
mà còn là người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng..
Lịch sử vẻ vang của Đảng trong 80 năm qua là lịch sử đấu tranh kiên cường vì lợi
ích tối cao của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Những thành tựu vĩ đại mà nhân
dân ta đã giành được trong tám thập kỷ qua là những minh chứng hùng hồn khẳng
định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với tiến trình cách mạng Việt Nam.



×