Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Thương mại điện tử Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.41 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày nay, chúng ta đang sống trong kỷ nguyên công nghệ thông tin, trong đó, công
nghệ thông tin đã làm thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng phương thức tiến hành hoạt động
kinh doanh. Vơi sự ra đời của Internet, sự thay đổi này ngày càng diễn ra nhanh chóng và
mạnh mẽ, làm thay đổi cơ bản chiến lược và tổ chức của các công ty. Internet đã tác động
mạnh mẽ đến mọi hoạt động của nền kinh tế, các ngành kinh doanh và các loại hình DN.
Chẳng hạn nó đã góp phần tạo dựng môi trường kinh doanh mới, hình thành kênh thông
tin, cung cấp phân phối mới trên các thị trường điện tử,… Ngày nay, các hoạt động
TMĐT như mua bán hành hóa, dịch vụ, thông tin… đang tăng trưởng với tốc độ chóng
mặt, với doanh số tăng trưởng hàng năm rất lớn. TMĐT ngày càng trở nên cần thiết, do
nhu cầu kinh doanh, giao dịch thông qua mạng ngày càng tăng lên, góp phần hoàn thiện
thương mại truyền thống, làm giảm rủi ro, chi phí, nâng cao hiêu quả thương maijnois
chung và buôn bán quốc tế nói riêng. Với mong muốn nước ta bước vào nền kinh tế tri
thức một các thành công, theo kịp sự phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới, em xin
chọn đề tài “TMĐT - Thực trạng và giải pháp tại Việt Nam” để tìm hiểu và nghiên cứu.

NỘI DUNG
I.

Cơ sở lý luận về TMĐT
1. Khái niệm TMĐT
1.1. Định nghĩa TMĐT
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về TMĐT, tuy nhiên, mọi người đều
thống nhất đó là quá trình mua bán hàng hóa hay dịch vụ thông qua mạng điện tử, sử dụng
phổ biến hiện nay là mạng Internet. Tuy nhiên có thể hiểu khái niệm TMĐT theo hai cách.
Thứ nhất theo nghĩa hẹp, TMĐT được hiểu là việc tiến hành giao dịch kinh doanh
dẫn đến việc chuyển giao giá trị, thông qua mạng Internet. Theo Ủy ban TMĐT của Tổ
chức hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), “ TMĐT là công việc kinh
doanh được tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học ký thuật số”.
Sau là, theo nghĩa rộng, TMĐT là toàn bộ chu trình và các hoạt động kinh doanh liên
quan đến các tổ chức hay cá nhân, được thực hiện thông qua phương tiện điện tử. Nói


khác hơn, TMĐT là việc tiến hành hoạt động thương mịa, sử dụng các phương tiện điện
tử và công nghệ xử lý thông tin số hóa. Theo tổ chức Thương mại thế giới (WTO):
“TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua
bán và thanh toán trên mạng internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các
sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet”.
1.2. Các đặc trưng của TMĐT
- Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi
hỏi phải biết nhau từ trước
- Trong khi các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại cảu khái
niệm biên giới quốc gia, còn TMĐT được thực hiện trong một thị trường không có biên
giới (thị trường thống nhất toàn cầu).


- Có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là ngươi
cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chức năng
- Đối với phương tiện truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi
dữ liệu, còn đối với TMĐT thì mạng lưới thông tin chính là thị trường.
Tóm lại, trong quá trình kinh doanh TMĐT, bản chất của thông tin và các đối tượng
không thay đổi. TMĐT chỉ biến đổi cách khởi tạo, trao đổi, bảo quản và xử lý thông tin,
hoàn toàn không thay đổi những chức năng cơ bản của thông tin đối với bên tham gia
truyền thống của hợp đồng thương mại.
2. Lợi ích và hạn chế của TMĐT
Lợi ích
- Quảng bá thông tin và tiếp thị trong thị trường toàn cầu với chi phí thấp: DN có thể lập
website một cách dễ dàng bằng một số tiền rất nhỏ (có nhiều giá để lựa chọn phổ biến là
khoảng 400 000 đồng cho việc thuê tên miền/1 năm, và khoảng 3,5-4,5 triệu đồng cho
việc thuê chỗ đặt máy chủ /1 năm). Nếu DN không thể tự thiết kế website thì có thể nhờ
các dịch vụ thiết kế dùm nhiều gái cả để lựa chọn, trung bình chỉ khoảng 800.000VNĐ.
Như vậy, với số tiền không lớn, DN có thể hiện diện trên siêu xa lộ thông tin, nơi mà mọi
người trên thế giới đều có thể truy cập và đọc được các thông tin trên website của DN.

Mức độ phủ sóng rộng hơn nhiều so với việc chỉ phân bổ các chi nhánh ở nhiều nơi. Tuy
nhiên DN cũng cần dầu tư công sức cho việc quảng bá, giới thiệu, đăng ký website với
các công cụ tìm kiếm như SEO để khách hàng dễ tìm thấy website của DN trong hàng tỷ
trang web hiện có.
- Cung cấp dịch vụ tốt hơn cho khách hàng: TMĐT tạo cho DN cơ hội tiếp xúc trực tiếp
với khách hàng, trực tiếp ghi nhận những phản ánh, thắc mắc của họ một cách chân thực
nhất, từ đó nắm bắt tốt hơn nhu cầu và nguyện vọng của họ, giúp cải tiến chất lượng sản
phẩm, dịch vụ,… làm tăng sự hài lòng của khách hàng. Đồng thời khách hàng cũng sẽ có
nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn
- Tăng doanh thu và giảm chi phí: TMĐT giúp DN tiếp cận được với thị trường thế giới,
tăng lượng khách hàng. Hơn nữa, việc tự động hóa tiến trình kinh doanh, giúp tăng hiệu
quả hoạt động, giảm thời gian xử lý đơn hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng, cải
tiến dây chuyền cung ứng,… Không những thế với chi phí đầu tư khá tiết kiệm so với các
loại hình thương mại truyền thống khác như trên đã trình bày, đồng thời là giảm chi phí ở
rất nhiều khâu như: giảm chi phí giấy tờ, giảm chi phí in ấn, gửi văn bản truyền thống,…
Tất cả đã làm cho doanh thu DN tăng và giảm chi phí hoạt động. Từ đó ía thành của sản
phẩm cũn giảm, dễ dàng đánh vào tâm lí khách hàng.
- Vượt giới hạn về thời gian và không gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web
và Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không mất thêm nhiều
chi phí biến đổi. Khách hàng có thể truy cập vào website của công ty vào bất cứ lúc nào
và bất cứ đâu để tìm hiểu thông tin sản phẩm.


-

-

-

-


-

-

- Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong phân phối
hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các
showroom trên mạng, ví dụ ngành sản xuất ô tô (Ví dụ như Ford Motor) tiết kiệm được
chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưu kho.
Tăng tốc độ tung ra sản phẩm trên thị tường: với lợi thế về thông tin và khả năng phân
phối giữa các DN làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian tung sản phẩm ra thi
trường, cũng như khả năng khách hàng nắm bắt thông tin về sản phẩm mới kịp thời nhanh
chóng nhờ chiến dịch quảng bá trên internet.
Tạo lợi thế cạnh tranh: trong thời đại công nghệ và internet, các DN nắm bắt kịp thời sự
phát triển của công nghệ và ứng dụng vào hoạt động kinh doanh sẽ tạo được lợi thế cạnh
tranh trước các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, ta nhận thấy khi 1 doanh nhiệp áp dụng
TMĐT thì các DN khác cũng áp dụng, vì vậy DN phải tạo sự khác biệt cho mình dựa ào
công nghệ mới, thể hiện ở sự tiện lợi, nhanh chóng, mỹ thuật và hiệu quả của website
TMĐT và phương thức kinh doanh.
Hạn chế
Vấn đề bảo mật thông tin và an toàn cơ sở dữ liệu: Hiện nay chưa có tiêu chuẩn quốc tế
về chất lượng, an toàn và độ tin cậy. Khi kinh donah trên mạng, DN phải quan tâm nhiều
đến đến vấn đề an toàn mạng, chẳng hạn như: sự lây lan virut tin học, sâu internet, hacker
tấn công vào website,… Các hiểm họa này nhẹ nhất là dây tê liệt và ngứng hoạt động của
một hệ thống trong một thời gian, cho đến làm sai lạc dữ liệu, xóa cơ sở dữ liệu làm hỏng
máy chủ web không thể khắc phục được, lộ thông tin bí mật kinh doanh,… tất cả đều gây
thiệt hại cho các DN trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Vấn đề này đòi hỏi các DN phải
lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ hosting an toàn, có giải pháp bảo mật tốt, thường xuyên
sao lưu cơ sở dữ liệu và phối hợp với nhà cung cấp để khắc phục sự cố kịp thời.
Về lòng tin của khách hàng: Nhất là đối với những DN ới, chưa tạo được uy tín rộng rãi,

để tạo lòng tin cho khách hàng là một điều vô cùng khó. Các khách hàng thường lo lắng
về nguy cơ có thể nhận được hàng kém chất lượng và các chính sách trả lại hàng.
Rủi ro trong thanh toán qua mạng: các website TMĐT cũng có thể gặp phải rắc rối với
vấn đề thanh toán qua mạng. Chẳng hạn khi DN bán hàng cho khách hàng với một số tài
khoản hợp lệ nào đó. Nếu như đây là tài khoản bị đánh cắp, thì DN có nguy cơ mất trắng
số tiền này khi phát sinh kiện tụng. Hay những rắc rối khi gặp phải khách hàng đặt hàng
giả,…
Sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ: ngày nay, các công nghệ phần cứng và phần
mềm thay đổi rất nhanh chóng, nếu DN không nắm bắt và ứng dụng kịp các công nghệ
mới sẽ có thể bị tụt hậu và đánh mất lợi thế cạnh tranh. Vì vậy các DN cần phải có bộ máy
chuyên trách về quản lý và theo dõi hoạt động website TMĐT, nắm bắt tnfh hình công
nghệ và cập nhật, nâng cấp website thường xuyên cho phù hợp với tình hình phát triển
chung.


- Thiếu cơ chế pháp lý hoàn thiện để gải quyết tranh chấp qua mạng: Ở nước ta, luật
TMĐT vẫn chưa thực sự hoàn thiện, khó khăn khi xử lý các vấn đề tranh chấp xảy ra
trong thực tế, nhưng chưa có trong luật. Hơn nữa các hoạt động lừa đảo trên mạng thì
không ít và ngày càng tinh vi hơn, nếu có phát sinh các tranh chấp, kiện tụng thì phần
thiệt thòi thường thuộc về phía các DN. Đòi hỏi các DN pahir tự đòi hỏi mình bằng các
biện pháp kinh donah kết hợp với công nghệ
3. Các hình thức kinh doanh TMĐT
-Thư điện tử: Các đối tác (người tiêu thụ, DN, các cơ quan chính phủ) sử dụng hòm
thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng,đây là một thứ
thông tin dưới dạng “phi cấu trúc”,gọi là thư tín điện tử (e-mail),
- Thanh toán điện tử: là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử thay cho
việc trao tay tiền mặt, việc trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền
mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng,... đã quen thuộc lâu nay thực chất đều là các
dạng thanh toán điện tử.
- Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI): là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc”

từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thoả
thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp
của con người. TMĐT có đặc tính phi biên giới, nghĩa là trao đổi EDI giữa các DN ở các
quốc gia khác nhau, công việc trao đổi EDI thường là các nội dung sau: giao dịch kết nối,
đặt hàng, giao dịch gửi hàng, thanh toán.
- Truyền dung liệu: Dung liệu là nội dung của hàng hóa, mà không phải bản thân vât
mang nội dung đó; ví dụ như: Tin tức, nhạc phim, các chương trình phát thanh, truyền
hình, các chương trình phần mềm, các ý kiến tư vấn,.. Trước đây dung liệu cũng được trao
đổi dưới dạng hiện vật. Ngày nay, dung liệu được số hoá và truyền gửi theo mạng, gọi là
“giao gửi số hoá”.
- Bán lẻ hàng hóa hữu hình: Ngày nay, các hàng hóa bán lẻ qua mạng đã mở rộng, tử
hoa tới quần áo, ô tô, đồ gia dụng, ,..và xuất hiện một loại hình hoạt động gọi là “mua
hàng điện tử”, ở nhiều nước , Internet bắt đầu trở thành công cụ để cạnh tranh bán lẻ hàng
hữu hình. Tận dụng tính năng đa phương tiện của môi trường Web và Java, người bán xây
dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” vì cửa hàng có thật nhưng ta chỉ xem toàn bộ quang
cảnh cửa hàng và các hàng hóa chứa trong đó trên từng trang màn hình một. Để có thể
mua – bán hàng, khách hàng tìm trang web của hàng, xem hàng hóa hiển thị trên màn
hình , thêm vào xe hay giỏ hàng, xác nhận mua và trả tiền bằng thanh toán điện tử.
II.
Thực trạng về TMĐT ở Việt Nam
1. Tình hình hạ tầng cơ sở cho TMĐT ở Việt Nam.
1.1 Hạ tầng công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin gồm hai nhánh: tính toán (nhánh máy tính) và truyền thông , là
nền tảng của “Kinh tế số hóa” nói chung và “TMĐT” nói riêng. Về công nghệ tính toán,
người Việt Nam đã biết đến máy tính điện tử từ năm 1968 khi chiếc máy tính đầu tiên do


Liên Xô viện trợ được lắp đặt tại Hà Nội. Ngày nay đông đảo nhân dân đều biết sử dụng
máy tính, không chỉ giới hạn trong chiếc máy tính mà phải kể đến sự phát triển của
Internet, 3G và các thiết bị di động, đặc biệt là smartphone cùng hàng ngàn thẻ ngân hàng

phát hành mỗi ngày đã làm cho TMĐT cơ hội phát triển to lớn. Về ngành gia công phần
mềm ở Việt Nam, có thể nói là nó đang len lỏi trong từng ngõ ngách của cá DN và hoặc
cá nhân. Ngành gia công phần mềm của nước ta hiện nay không chỉ phát triển trong phạm
vi trong nước mà còn để lại dấu ấn trên thị trường quốc tế như: Có khoảng một triệu
những sản phẩm phần mềm của nước ta đang được sử dụng ở các bệnh viện trên thế giới
nhằm khắc phục các lỗi về y tế và tăng được chất lượng dịch vụ; hàng trăm triệu người sử
dụng phần mềm gắn thẻ (tag) của Việt Nam khi tìm kiếm google;… (Theo CEO của
Harvey Nash một người nắm rất rõ về ngành gia công phần mềm ở Việt Nam đã tìm hiểu
tháng 9 năm 2016). Theo Cục TMĐT và Công nghệ thông tin, (Bộ Công Thương), TMĐT
đang có bước phát triển rất nhanh nhờ hệ thống viễn thông phát triển vượt bậc với khoảng
1/3 dân số Việt Nam truy cập Internet. Tỷ lệ website có tính năng đặt hàng trực tuyến là
58%, trong đó tỷ lệ website có tính năng thanh toán trực tuyến là 15%. Tuy nhiên để phục
vụ cho sự phát triển rộng rãi của ngành TMĐT thì cơ sở hạ tâng công nghệ hiện nay vẫn
chưa thể đáp ứng được như là tình trạng đứt cáp quang, chậm kết nối,…
1.2 Cơ sở hạ tầng nhân lực
Thứ nhất, về lực lượng chuyên gia công nghệ thông tin ở Việt Nam có thể chia thành
các nhóm: Thứ nhất, các chuyên gia tri thức cao hiện nay ở Việt Nam vẫn còn ít so với số
lượng cần. Thứ hai, các cán bộ đào tạo từ khoa học tin học của các trường đại học cũng
không đủ đáp ứng, Theo dữ liệu được Công ty tuyển dụng trực tuyến VietnamWorks công
bố (tổng hợp xuyên suốt năm 2015), số lượng việc làm nhóm ngành công nghệ thông tin
(CNTT) tăng 47% mỗi năm nhưng lượng nhân lực của ngành chỉ tăng trưởng ở mức
8%. Một lực lượng đông đảo thanh niên đã qua đâò tạo tin học trong ki học phổ thông và
đại học, trường nghề nhưng chỉ đáp ứng được ở những nghiệp vụ cơ bản.
Thứ hai, về dân chúng: Đào tạo tin học và thông tin tin học rộng rãi đã làm cho tin
học phổ thông không còn xa lạ với đại bộ phận người dân Việt Nam. Không chỉ vậy sự
bùng nổ về số người sử dụng mạng Internet tại Việt Nam trong những năm qua là một con
số đáng nể. Ông Hải - Cục trưởng Cục An toàn thông tin cũng cho biết, hiện nay Việt
Nam có gần 50 triệu người sử dụng Internet, đạt tỷ lệ trên 53% dân số, cao hơn mức trung
bình thế giới là 46,64%. Số lượng người dấn sở hữu điện thoại thông minh cũng rất cao
(hơn 70% dân chúng, thậm chí ở vùng nông thôn cũng lên đến trên 50% - số liệu 2017).

Thời gian online trên thiết bị di động cũng chiếm tới 1/3 ngày của người tiêu dùng Việt
Nam. Từ đây, tạo điều kiện cho sự phát triển TMĐT ở Việt Nam, vì không ai khác mà
chính họ là khách hàng của các DN
1.3 Hạ tầng cơ sở kinh tế


Kinh tế nước ta sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế đã phát triển hơn rất nhiều,
mặc dù có những lúc khững lại nhưng nhìn chung vẫn đang trong đà phát triển không
ngừng. Mức sống hiện nay cho phép đông đảo quần chúng nhân dân và đông đảo doanh
ngiệp tiếp cận dễ dầng với các phương tiện của “kinh tế số hóa”, điều kiện tiên quyết để
phát triển TMĐT. Tuy nhiên, hệ thống thanh toán tài chính tuy chưa hoàn hảo nhưng
tương đối đáp ứng yêu cầu của TMĐT. Một bộ phận lớn người dân hiện nay vẫn có thói
quen dùng tiền mặt, do đó họ không có tài khoản hoặc rất ngại giao dịch bằng hình thức
thanh toán điện tử.
1.4 Hạ tầng pháp lý
Nhà nước cũng đã quan tâm khá nhiều về hệ thống pháp luật về TMĐT. Năm 2005,
Quốc hội thông qua ba luật có tính chất đặt nền tảng pháp lý cho TMĐT, đó là Luật
Thương mại, Bộ luật Dân sự và Luật Giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, hoạt động TMĐT và
việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực TMĐT còn chịu sự điều chỉnh của một số
luật như; Luật Công nghệ thông tin năm 2006; Luật Viễn thông năm 2009; Bộ luật Hình
sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010; Luật
Quảng cáo năm 2012; Luật Đầu tư 2014; Luật DN năm 2014. Ngoài ra, để hướng dẫn,
quản lý hoạt động giao dịch và các hoạt động liên quan đến TMĐT, Chính phủ đã ban
hành rất nhiều nghị định liên quan. Nhìn chung, Nhà nước đã ban hành tưởng đối đầy đủ
về các nội dung của các quy định về TMĐT. Tuy nhiên còn nhiều điểm bất cập, không
hợp lý, kìm hãm sự phát triển của TMĐT.
2. Tình hình phát triển TMĐT ở Việt Nam trong những năm gần đây.
2.1. Những kết quả đạt được
Xét theo nghĩa TMĐT là việc tiến hành giao dịch kinh doanh dẫn đến việc chuyển
giao giá trị, thông qua mạng Internet thì sự tham gia của Việt Nam chỉ mới bắt đầu từ cuối

năm 1997. Đến năm 2006 TMĐT chính thức được công nhận tại việt nam và đồng thời
gia nhập WTO là sự đánh dấu vai trò quan trọng của TMĐT. Từ đây, Việt Nam đã tích cực
hợp tác đa phương về TMĐT với các tổ chức khu vực và quốc tế, như ASEAN, APEC,
UNCITRAL (Ủy ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế)… Việt Nam cũng đã chủ
động hợp tác song phương trong lĩnh vực này với Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài
Loan, Nhật Bản… Bộ Công Thương cũng đã hỗ trợ các DN, các hiệp hội của nước ta
tham gia các tổ chức quốc tế về TMĐT, như Liên minh TMĐT châu Á - Thái Bình Dương
(PAA), Liên minh các tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín châu Á - Thái Bình
Dương (ATA). Năm 2008, Trung tâm phát triển TMĐT Vietnam (EcomViet) đã trở thành
thành viên chính thức của ATA Từ đó đến nay, TMĐT tuy cũng có những khoảng thời
gian khó khăn, biến động nhưng hiện nay đang là một thị trường tiềm năng màu mỡ,
không ngừng phát triển, cải thiện.
Thứ nhất, các hoạt động ứng dụng TMĐT trong kinh doanh tại Việt Nam hiện nay
diễn ra hết sức sôi động. Theo thông tin từ Cục TMĐT và Công nghệ thông tin thì đầu


năm 2017 ngành TMĐT Việt Nam đang có mức tăng trưởng vào khoảng 25% và lượng
DN đầu tư và lĩnh vực này ngày càng nhiều. Hàng loạt website TMĐT được mọc ra. Các
quỹ đầu tư và tập đoàn TMĐT nước ngoài cũng tích cực mua cổ phần, bỏ tiền đầu tư cho
các sàn và các trang web TMĐT trong nước. Google đã trở thành thành viên của Hiệp hội
TMĐT Việt Nam và không giấu diếm kỳ vọng thu được 30 triệu USD mỗi năm từ thị
trường này. Alibaba và eBay cũng đã nhanh chân tìm được đại diện chính thức, trong khi
Amazon và Rakuten đang tiến tới việc thiết lập quan hệ đối tác hoặc mua cổ phần tại các
hãng TMĐT Việt Nam. Một số DN Thái Lan, Hàn Quốc cũng đang tìm đường đầu tư, có
thể thông qua một DN khác hoặc tự thực hiện. Thị trường TMĐT càng trở nên sôi động
hơn khi nhiều tân binh mới như Adayroi, SIdeal.vn,v.v… bắt bắt đầu tham gia cuộc đua
cạnh tranh với các sàn TMĐT lớn như Lazada, Tiki, Sendo, Zalora…, Cạnh tranh ngày
càng khốc liệt vì thế các trang web TMĐT kinh doanh lâu năm như Hotdeal.vn,
muabannhanh.com, chotot.vn… cũng tăng cường mở rộng ngành hàng, dịch vụ giao –
nhận, thanh toán.

Thứ hai, TMĐT đang đạt được những thành tựu to lớn. Theo một báo cáo gần đây, tỷ
lệ người Việt mua sắm trực tuyến đang có mức tăng cao thứ 2 so với Đông Nam Á. Với
những lợi thế về mua sắm tiện lợi, giao hàng tận nơi và thanh toán tiện lợi, nhiều khách
hàng dễ dàng tiếp cận TMĐT với mọi thiết bị công nghệ. Tại Diễn đàn bán lẻ 2016, cho
biết, năm 2015 TMĐT bán lẻ của Việt Nam đạt trên 4,07 tỷ USD, (tăng gấp 5 lần so với
năm 2012), trung bình tốc độ tăng trưởng của TMĐT là hơn 20%/năm. Theo số liệu của
Bộ Công thương, doanh thu bán lẻ TMĐT B2C năm 2016 đã đạt 5 tỷ USD, chiếm trên 3%
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước. Theo nhận định của
các chuyên gia trong ngành, với tốc độ phát triển hiện nay, đến năm 2020, TMĐT Việt
Nam có thể sẽ đạt doanh thu 10 tỷ USD, chiếm 50% tổng mức bán lẻ hàng hóa của cả
nước. Thứ trưởng Bộ Công Thương Hồ Thị Kim Thoa nhấn mạnh “Con số này là mục
tiêu tương đối cao nhưng chúng ta hoàn toàn có thể đạt được. Đặc biệt, điểm sáng nhất
của TMĐT là tiếp thị trực tuyến, dự kiến đến năm 2020 sẽ đạt được 1,8 tỷ USD”. Đánh
giá về vấn đề này, ông Nguyễn Thanh Hưng, Chủ tịch Hiệp hội TMĐT Việt Nam (Vecom)
dẫn chứng thêm, trên thế giới hiện nay, doanh thu TMĐT trong toàn ngành bán lẻ tại các
thị trường phát triển (Mỹ, Đức…) chiếm khoảng 5%, còn Việt Nam hiện đạt khoảng 3%.
Nước ta có tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6%/năm, tốc độ phát triển Internet trên 50%,
doanh thu tiếp thị trực tuyến tăng từ 26 – gần 330 triệu USD trong giai đoạn 2010 –
2015…Có thể thấy tiềm năng TMĐT của Việt Nam là rất lớn và dự báo sẽ lọt top 20 thị
trường TMĐT lớn nhất thế giới vào năm 2020.
Thứ ba, các DN Việt rất nhanh nhạy về TMĐT và đã có sự nắm bắt nhanh chóng xu
hướng phát triển của thế giới, đồng thời có tầm nhìn tốt, chiến lược kinh doanh hoàn hảo,
nhất là những DN có quy mô lớn. Nước ta có 600.000 DN có pháp nhân nhưng thực tế có
2,4 triệu đơn vị đang kinh doanh bán lẻ dịch vụ, có 400.000 đơn vị đã kinh doanh qua


hình thức online.Trong đó phải kể đến những gương mặt dẫn đầu là Lazada (công ty con
của Alibaba), Thế Giới Di Động và Sendo (trực thuộc FPT). Lazada cũng là ứng dụng
mua sắm trực tuyến có nhiều lượt tải nhất với 50 triệu lượt tải. Trong top 10 DN TMĐT
có lượng truy cập lớn nhất thì 8 trong số đó là DN nội địa, với nhiều tên tuổi quen thuộc

như Thế Giới Di Động, Sendo, Tiki, Vật Giá, FPT Shop, Điện Máy Xanh, A Đây Rồi,
Nguyễn Kim. Hai DN nước ngoài nằm trong top này là Lazada và Shopee, vốn có chi
nhánh tại nhiều quốc gia khác trên toàn Đông Nam Á.
+ Nhiều DN đã có chiến thuật marketing tốt trên mạng xã hội. Những thương hiệu
có kênh YouTube hiệu quả nhất là CellphoneS, Thế Giới Di Động và Điện Máy
Xanh. Các đoạn clip về review sản phẩm, giới thiệu sản phẩm công nghệ thu hút được
lượt view cực lớn từ người tiêu dùng Việt. Với đà tăng trưởng của YouTube lên tới 120%
vào năm 2016, các DN công nghệ này đang nắm bắt đúng xu hướng người tiêu dùng.
Trước đó, vào đầu năm nay, video quảng cáo của Điện Máy Xanh cũng lọt top video được
xem nhiều nhất tại Châu Á do tổ chức Campaign Asia bầu chọn. Hay trên mạng xã hội
Instagram, vốn là sân chơi của các DN thời trang, ứng dụng đăng bán Lozi thu hút được
đến 220 ngàn lượt theo dõi. Đối thủ Shopee đứng vị trí thứ 2 với 46 ngàn lượt theo dõi.
Thương hiệu thời trang Robins của Central Group đứng ở vị trí thứ 3 với 39 ngàn lượt
theo dõi.
+ Doanh thu của các DN TMĐT trong thời gian gần đây tăng mạnh nhờ các chương
trình khuyến mãi mua sắm trực tuyến “ăn theo” mùa vụ như Black Friday, CyberMonday,
CES (Triển lãm hàng điện tử tiêu dùng ở Mỹ)… Bộ Công Thương và Sở Công Thương
TPHCM cũng đã có những định hướng tổ chức các hoạt động mua sắm trực tuyến theo
định kỳ như OnlineFriday, Vui là mua-Tin là sắm. Nhờ sự mở rộng kinh doanh mà các
DN lớn mang về lượng doanh thu tăng vọt, nhiều chương trình khuyến mãi đồng loạt ra
đời và ăn theo nhau nhằm mục đích thu hút khách hàng. Một số chiến dịch khuyến mãi
cạnh tranh với quy mô lớn của các DN như Lazada, Zalora, Tiki… cũng siêng được triển
khai như “Cách mạng mua sắm trực tuyến” (Lazada), “Online Fever” (Zalora)…Và khi
thực hiện chiến dịch khuyến mãi càng lớn thì doanh thu thu về lại càng cao có khi gấp 1020 lần so với ngày thường.
+ Ngoài ra, một số DN TMĐT cũng bắt đầu hợp tác với nhau để mở rộng ngành
hàng, đa dạng hóa danh mục mặt hàng. Gần đây nhất là việc Lazada chính thức hợp tác
với trang web bán phiếu mua hàng theo nhóm (groupon) Nhommua.com để mở ngành
hàng bán phiếu mua hàng ưu đãi (voucher). Trước đó, các sản phẩm công nghệ đang được
bán trong hệ thống bán lẻ FPT Shop cũng đã xuất hiện trên sàn TMĐT Lazada.vn, một
mối quan hệ giúp cho cả hai DN tăng thêm doanh thu, mở rộng kênh bán hàng…

Thứ tư, về phát triển hệ sinh thái: Từ năm 2015 các DN TMĐT trong nước đã tập
trung đầu tư phát triển hệ sinh thái nhằm kết nối các hoạt động bán lẻ trực tuyến, giao –
nhận, kho hàng… Các DN TMĐT như Công ty cổ phần Vật giá (vatgia.com), Công ty cổ


phần VCCorp (muachung.vn, rongbay.com, enbac.com…), Công ty cổ phần giải pháp
phần mềm Hòa Bình-Peacesoft (chodientu.vn, nganluong.vn, shipchung.vn)… đã tích cực
mở rộng các dịch vụ liên quan đến hoạt động kinh doanh trực tuyến. Đây sẽ là một hướng
phát triển, tạo điều kiện cho các DN phát triển một cách bền vững. Điển hình như
Peacesoft, đơn vị đang sở hữu khá nhiều trang web kinh doanh, cung cấp dịch vụ TMĐT
như chodientu.vn và ebay.vn (sàn TMĐT), nganluong.vn (phương tiện thanh toán), dịch
vụ giao – nhận (shipchung.vn)…, gần đây đã cho ra mắt dịch vụ hoàn tất đơn hàng
(Fulfillment) giúp các DN hoàn chỉnh các khâu đóng gói, kiểm tra đơn hàng, giao –
nhận…Hay như Công ty cổ phần VCCorp với hàng loạt trang web TMĐT cũng tiếp tục
tăng cường chất lượng dịch vụ, mở rộng hệ sinh thái. Các trang web của VCCorp đã được
tập trung vào khối kinh doanh TMĐT mang thương hiệu chung Zamba sở hữu một hệ sinh
thái đa dạng với nhiều trang web TMĐT, đáp ứng nhiều loại nhu cầu tiêu dùng như mua
hàng theo nhóm, rao vặt trực tuyến, đặt thức ăn trực tuyến…
Thứ năm, về dịch vụ hậu cần thương TMĐT, hiện nay cũng đang bắt đầu phát triển,
tập trung ở một vài các DN lớn. Thứ nhất, DHL eCommerce - một trong 4 mảng kinh
doanh của tập đoàn Deutsche Post DHL, hiện đang nâng cao vai trò của mình trong cuộc
chiến hậu cần TMĐT. DHL đã thành công trong việc cung cấp dịch vụ giao hàng tận nơi
cho các công ty TMĐT tại Thái Lan, mở đường cho kế hoạch đầy tham vọng nhằm tăng
gấp đôi đội tàu và số kho vào năm 2017 cho các thị trường lân cận. Thứ hai, công ty Cổ
phần Vận tải và Giao thông Indo Tran (ITL Corp) là một thành viên mới trong lĩnh vực
chuyển phát nhanh tại Việt Nam với thương hiệu SpeedLink. Từ năm 2016, hệ thống văn
phòng của SpeedLink đã có mặt tại 50 tỉnh, thành phố trên cả nước. Thứ ba, Giao Hàng
Nhanh, một DN kinh doanh dịch vụ giao nhận và hậu cần TMĐT, hiện đang phục vụ hơn
800 người bán hàng qua mạng, 20 trong số đó là các trang TMĐT B2C quy mô lớn hơn
như Tiki.vn, và Project Lana. Không chỉ vậy, lĩnh vực này còn có sự tham chiến của “ông

lớn” chính là DN TMĐT. Lazada là DN TMĐT đầu tiên có công ty phân phối riêng được
gọi là LEX, xây dựng trên quy mô độc quyền cho hãng bán lẻ này. Tuy nhiên, khi nhận ra
nhu cầu ngày càng tăng về TMĐT trên thế giới và Việt Nam, Lazada quyết định tách LEX
thành một công ty riêng biệt. Đầu năm 2017, Lazada đầu tư vào 3 kho lớn ở Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng và Hà Nội với tổng diện tích 22.000 m2 và mạng lưới 34 trung tâm phân phối
trên toàn quốc nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu. Các hãng gọi xe cũng nhanh chóng
tham gia để lấp khoảng trống hiện có trong mạng lưới logistics Việt Nam, ví dụ Grab vừa
ra mắt tính năng giao hàng (GrabExpress). Được biết đến vì khả năng định hướng trong
thị trường Việt Nam, rất có thể mô hình hậu cần này sẽ đạt đà trong những năm tới. Nhìn
chung, có thể nhận thấy, nhiều DN đã nhận thấy miếng mồi béo bở này.
Thứ sáu, thương mại di động đang được quan tam và phát triển đúng hướng. Xu thế
chuyển qua kinh doanh trên nền tảng di động, thiết bị di động… đang ngày càng trở
nên phát triển và rõ rệt. Cùng với sự thay đổi thuật toán của Google, ưu tiên cho những


2.2.

website thân thiện với thiết bị di động. Số lượng người dùng sử dụng các thiết bị di động
ngày càng nhiều vì thế các DN như Lazada.vn, Sendo.vn, Zalora.vn, Tiki.vn… đã nắm bắt
được xu hướng và tập trung phát triển kinh doanh trên nền tảng di động với các ứng dụng
di động, thiết kế web có giao diện thân thiện với điện thoại thông minh, máy tính bảng.. sẽ
thu hút được số đông người tiêu dùng có thói quen lướt web bằng thiết bị di động.
Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
Thứ nhất, thị trường TMĐT Việt Nam được nhiều chuyên gia nhận định là rất hấp
dẫn trong mắt các nhà đầu tư, tuy nhiên đối với những nhà đầu tư mới và yếu vốn thì lại là
một tiến trình đầy khó khăn, biến động. TMĐT ở Việt Nam hiện nay chỉ đang tập trung
vào hai DN lớn nhất đó là Lazada Việt Nam và Tiki.vn (trong đó, hiện tại Lazada vẫn
đang giữ ngôi vị quán quân). Có thể thấy dù theo 2 trường phái, 2 nhóm DN khác nhau
nhưng Lazada.vn và Tiki.vn đều tập trung vào việc hỗ trợ các DN bán hàng và củng cố
niềm tin từ phía khách hàng khi mua sắm trực tuyến. Đây là một rào cản quá lớn cho các

DN khác. Nhiều DN bỏ cuộc chơi trong thời gian qua. Bởi vì, nhóm này không có tiềm
lực tài chính đủ mạnh để đạt được tổng giá trị giao dịch hấp dẫn như Lazada.vn, trong khi
việc xây dựng nền tảng vững chắc thì đã chậm chân so với Tiki.vn. Rõ ràng, cả Lazada
Việt Nam và Tiki.vn đang tạo ra rào cản cho các DN mới tham gia. Không những vậy, cả
2 còn tạo ra áp lực cho nhóm C2C như Chotot, Sendo, Zalo hay Shopee trong việc giải bài
toán niềm tin và nhu cầu của khách hàng.
Thứ hai, thị trường TMĐT bán lẻ tại Việt Nam cũng được giới chuyên gia đánh giá
rằng thị trường này chỉ mới phát triển về chiều rộng chứ chưa có chiều sâu. Trước hết, cho
đến nay dịch vụ bán lẻ trực tuyến của nước ta vẫn duy trì với hình thức “nửa vời”, tức là
mua trực tuyến nhưng lại thanh toán bằng tiền mặt. Theo thống kê, có đến 80% người
mua sắm trực tuyến Việt Nam vẫn có thói quen đặt hàng qua mạng và trả tiền mặt khi
nhận hàng. Bản thân hình thức thanh toán này là cản trở đối với việc hoàn thiện hoạt động
kinh doanh TMĐT ở nước ta. Chúng ta chưa có sự song hành về việc mua hàng trực tuyến
và thanh toán trực tuyến nên hoạt động TMĐT chưa hoàn thiện. Bên cạnh đó, điều đáng
nói ở đây là những chuyển biến tích cực về TMĐT trong vài năm qua lại chỉ đến từ DN có
quy mô lớn, còn đại đa số DN nhỏ và vừa chưa thực sự tham gia vào lĩnh vực này. Ngoài
ra, hiện nay thị trường TMĐT chỉ mới phát triển rầm rộ tại các đô thị, các thành phố, còn
khu vực nông thôn với tiềm năng không kém thì dường như vẫn còn bị bỏ ngỏ. Theo phân
tích của các chuyên gia, khu vực nông thôn với hơn 65 triệu người sinh sống, hiện có 1,3
triệu cửa hàng truyền thống, chiếm 85% doanh thu của ngành bán lẻ và đóng góp 54%
tổng doanh số ngành bán lẻ…là một phân khúc rất màu mỡ cần được hướng đến khai thác
trong tương lai gần. Bởi lẽ, vươn được đến thị trường nông thôn, ngành bán lẻ cũng như
TMĐT sẽ “nắm trong lòng bàn tay” những mục tiêu phát triển đến năm 2020.
Thứ ba, dịch vụ hậu cần TMĐT: Các DN thương mại điên tử trong nước đang có nhu
cầu lớn về dịch vụ hoàn tất đơn hàng để hoàn thiện quy trình kinh doanh nhưng hiện tại


vẫn chưa có nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ này. Hiện tại, thách thức lớn nhất là các công
ty tham gia vào TMĐT không thể tự quản lý được logistics. Do vậy, việc thuê ngoài dịch
vụ từ các nhà cung cấp hậu cần bên thứ 3 là một xu hướng ngày càng quan trọng. Chỉ có

một số sàn TMĐT lớn và một vài DN đã sớm triển khai dịch vụ này nhằm tăng cường
chất lượng dịch vụ, khép kín quy trình làm hài lòng khách hàng, nhưng nhìn chung vẫn là
con số khiêm tốn so với nhu cầu.
Bên cạnh đó, trở ngại lớn nhất cho hậu cần TMĐT là chi phí vẫn còn rất cao. Con số
ở Việt Nam hiện nay rất cao, với một số ước tính chỉ ra rằng 30% doanh thu được sử dụng
để trang trải chi phí logistics. Tính đến năm 2017, các nhà bán lẻ TMĐT của Ấn Độ chi từ
5 đến 15% doanh thu cho logistics, trong khi ở Mỹ là 11,7% (2015). Theo báo cáo của
ngân hàng Thế giới (WB), chi phí logistics tại Việt Nam ước tính khoảng 25% GDP hàng
năm, cao hơn đáng kể so với Thái Lan (19%) và Singapore (8%).
Lý do chính là các công ty logistics Việt Nam có năng lực yếu kém cũng như thiếu
hệ thống thông tin hiện đại trong khi khung pháp lý và các quy định về logistics vẫn còn
khó khăn và phức tạp. Những vấn đề này càng trở nên rõ ràng hơn khi các công ty mở
rộng hoạt động kinh doanh ra ngoài các thành phố lớn.
Thứ tư, cơ sở hạ tâng công nghệ yếu kém như đề cập phần trước cũng là một trong
những thách thức lớn đối với các danh nghiệp TMĐT Việt. Chia sẻ của ông Phạm Thông,
Giám đốc tiếp thị Lazada tại VOBF 2017 cho thấy là trong dịp cáp quang AAG bị đứt vào
2,3 tuần vừa qua, doanh thu của Lazada đã mất tới 30% doanh thu trung bình trong một
ngày.Không chỉ Lazada mà nhiều DN TMĐT và cá nhân kinh doanh online cũng chật vật
trong thời điểm cáp quang bị đứt. Do đó, ông Thông cho rằng nếu có thể làm cho nền tảng
chắc chắn hơn, ổn định hơn, người dùng dễ tiếp cận hơn thì chắc chắn rảo cản cho TMĐT
sẽ càng được thu hẹp.
Thứ năm, những vướng mắc về mảng pháp lý:
Ở Việt Nam trong thời gian qua số lượng các vụ tranh chấp về TMĐT có xu hướng
ngày càng gia tăng, chủ yếu là các tranh chấp liên quan đến thông tin cá nhân; về hình
thức giao kết hợp đồng thương mại; liên quan tới tội phạm trên không gian mạng;… Khảo
sát về tình trạng lừa đảo TMĐT tại Việt Nam cho thấy, nguyên nhân chủ yếu của các
trường hợp tranh chấp là người bán không chuyển hàng hoặc hàng giao không đúng như
mô tả. Theo nhận định của VECOM, hiện nay các website đa phần vẫn chưa thực hiện
đúng quy định của pháp luật, nhiều trường hợp sau khi có được thông tin của khách hàng
đã bán lại hoặc để lộ, gây hậu quả nghiêm trọng như một số vụ mất cắp tài khoản ngân

hàng. Ngoài ra, khi cần giải quyết những vấn đề liên quan đến khiếu nại hàng hóa, người
mua hàng cũng không có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình.
Tóm lại, hệ thống pháp luật về TMĐT của ta còn nhiều bất cập, không phù hợp.
Thực tế cho thấy, Cơ quan chức năng cũng chưa có quy định rõ ràng đối với danh sách
các website TMĐT khuyến cáo người tiêu dùng thận trọng; thiếu hướng dẫn chi tiết về


1.
-

-

-

-

-

quy trình giao kết hợp đồng mua hàng trực tuyến cũng như những cảnh báo cần thiết đối
với người tham gia loại hình dịch vụ này. Tại Mục 2 của Nghị định 52/2013/NĐ- CP dành
8 điều để quy định về quy trình giao kết hợp đồng giữa người bán hàng trực tuyến với
người mua. Theo Điều 23 Nghị định 52/2013/NĐ-CP, quy định: “Bộ Công thương có
trách nhiệm quy định cụ thể về quy trình giao kết hợp đồng trực tuyến trên website TMĐT
do thương nhân, tổ chức, cá nhân lập ra để mua hàng hóa, dịch vụ.”, nhưng cho đến nay
vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết này. Hay như trường hợp sau: quy định hiện hành cho
phép Bộ Công thương công bố công khai trên cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT
danh sách các website TMĐT bị phản ánh về việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Câu hỏi
đặt ra, đây là điều kiện quản lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh hay là cơ sở
để cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện? Quy định hiện hành không giới hạn những
người có quyền phản ánh website có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cũng không quy định chi

tiết quy chế xác thực, dẫn tới rủi ro các đối thủ cạnh tranh lợi dụng phản ánh lẫn nhau.
III. Những giải pháp, kiến nghị về phát triển TMĐT vào hoạt động kinh doanh
ở nước ta.
Giải pháp: Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển TMĐT ở Việt Nam cần phải thực thi nhiều
giải pháp đồng bộ sau
Thứ nhất, xây dựng hệ thống thanh toán TMĐT quốc gia để sử dụng rộng rãi cho các mô
hình TMĐT, đặc biệt loại hình TMĐT DN - người tiêu dùng (B2C); thẻ thanh toán được
sử dụng rộng rãi để giảm tỷ lệ sử dụng tiền mặt; áp dụng phổ biến chứng thực chữ ký số
để đảm bảo an toàn, bảo mật cho các giao dịch TMĐT.
Thứ hai, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực: Các giao dịch trên một mặt, đòi hỏi phải có
một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên bắt kịp các thành tựu công nghệ
thông tin mới phát sinh để phục vụ cho TMĐT và có khả năng thiết kế các phần mềm đáp
ứng các nhu cầu của kinh tế số hóa. Mặt khác, đòi hỏi mỗi người tham gia TMĐT phải có
khả năng sử dụng máy tính, có thể trao đổi thông tin một cách thành thạo trên mạng. Bởi
vậy, phải đào tạo các chuyên gia tin học và phải phổ cập kiến thức về TMĐT
Thứ ba, hoàn thiện môi trường pháp lý. Để TMĐT phát triển lành mạnh cần phải hoàn
thiện môi trường pháp lý, thông qua việc ban hành và thực thi các đạo luật và các văn kiện
dưới luật điều chỉnh các hoạt động thương mại, thích ứng với pháp lý và tập quán quốc tế
về giao dịch TMĐT.
Thứ tư, đảm bảo an toàn cho các giao dịch TMĐT. TMĐT có nhiều tác động tích cực
nhưng cũng có mặt trái là dễ bị các tin tặc phát tán các virút, tấn công vào các website;
phát tán các thư điện tử, tin nhắn rác; đánh cắp tiền từ các thẻ ATM… Mặt khác, qua
internet cũng xuất hiện những giao dịch xấu như: mua bán dâm, ma túy, buôn lậu, bán
hàng giả, hướng dẫn làm bom thư, làm chất nổ phá hoại, tuyên truyền kích động bạo lực
…Chính vì vậy cần phải kiểm soát hết sức chặt chẽ.
Thứ năm, xây dựng thương hiệu trực tuyến. Phát triển các sản phẩm cũng là một giải pháp
quan trọng. Trong đó, xây dựng giải pháp bán hàng trực tuyến để hỗ trợ các DN vừa và


nhỏ triển khai ứng dụng TMĐT; xây dựng và duy trì sàn giao dịch TMĐT nhằm quảng bá

hình ảnh, thương hiệu của các DN Việt Nam. Bên cạnh đó, hỗ trợ, nâng cao năng lực cho
DN xuất khẩu tham gia các sàn giao dịch TMĐT uy tín trong nước và thế giới; xây dựng
các giải pháp để phát triển ứng dụng TMĐT trên nền thiết bị di động và phát triển nội
dung số cho TMĐT.
- Thứ sáu, phát triển các dịch vụ công phục vụ cho TMĐT. Nhà nước không những đóng
vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đào tạo nhân lực và phổ cập kiến thức về TMĐT; tạo
môi trường pháp lý; xây dựng kết cấu hạ tầng cho TMĐT và quản lý các giao dịch TMĐT
để bảo vệ lợi ích của người tham gia mà còn phải phát triển các dịch vụ công nhằm thúc
đẩy sự phát triển của TMĐT. Đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công như hải quan điện tử;
kê khai thuế và nộp thuế, làm các thủ tục xuất, nhập khẩu; đăng ký kinh doanh và các loại
giấy phép chuyên ngành liên quan đến thương mại, giải quyết tranh chấp… trên mạng là
những việc cần làm
- Thứ bảy, tăng cường hơn nữa sự hợp tác khu vực và quốc tế trong phát triển TMĐT.. Thời
gian tới, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác khu vực và quốc tế này để thực hiện
tốt các cam kết quốc tế về TMĐT nhằm xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn
về trao đổi dữ liệu điện tử trong nước hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế.
2. Một số kiến nghị
- Tăng cường uy tín, niềm tin cho khách hàng ngay từ khâu thiết kế nội dung trên
website, cho đến khâu thực hiện. Một website TMĐT uy tín phải hiện thị đầy đủ các
thông tin về người bán, thông tin sản phẩm, quy trình mua hàng rõ ràng, quy trình thanh
toán và vận chuyển hàng hóa. Đồng thời, phải có chính sách bảo mật thông tin và giải
quyết khiếu nại phát sinh hợp lý.
- Cần nhắn tin để thông báo cho khách hàng biết những dịch vụ được sử dụng trực
tiếp trên web như thanh toán cước của thuê bao trả sau
- Nâng cấp trang web thường xuyên để tránh tình trạng nghẽn mạng
- Khi đăng ký thành viên trên trang web nên hướng dẫn chi tiết hơn cho khách hàng
- Công ty nên liên kết với các ngân hàng để khách hàng dễ đăng ký và thanh toán
cước phí, không phải làm nhiều thủ tục phức tạp như hiện nay
- Về mảng pháp luật, để TMĐT phát huy thế mạnh của mình đồng thời tạo cơ chế
thuận lợi cho việc giải quyết các tranh chấp, cần bổ sung thêm các quy định về công nhận

giá trị pháp lý của chứng cứ điện tử; cách thức quản lý các mạng xã hội kinh
doanh TMĐT cũng như nền tảng di động; đưa ra các chế tài tương ứng với hành vi vi
phạm; xây dựng và thừa nhận tính pháp lý cho việc thu thập dữ liệu điện tử bởi cơ quan
có thẩm quyền để kịp thời giải quyết tranh chấp TMĐT. Bên cạnh đó cần phải quy định
pháp luật về vấn đề bảo mật quyền riêng tư, quyền sở hữu trí tuệ một cách chặt chẽ, hiệu
quả hơn nữa vì đây chính là rào cản xếp top đầu trong số 7 trở ngại lớn nhất của TMĐT ở
Việt Nam. Nhanh chóng bổ sung văn bản quy phạm pháp luật qui định về chính sách thuế
đối với các DN TMĐT.


KẾT LUẬN
Hiện tại, Việt Nam có dân số 91 triệu người. 45% dân số đã tiếp cận Internet. Con số
này tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM còn cao hơn rất nhiều. 28% người sử
dụng Internet đã tiếp cận TMĐT. Trung bình mỗi người Việt sử dụng Internet chi 160
USD cho TMĐT một năm. Theo ông Trần Trọng Tuyến, Tổng thư ký hiệp hội TMĐT Việt
Nam, tốc độ tăng trưởng của TMĐT tại Việt Nam có thể cao hơn nhiều con số mà các đơn
vị nghiên cứu đưa ra. Cũng theo ông, con số tăng trưởng có thể lên đến 30-50%/năm.
Trong 5 năm tới, quy mô thị trường TMĐT Việt Nam có thể đạt 10 tỷ USD. Có thể nhận
thấy TMĐT Việt Nam dù còn nhiều thách thức nhưng vẫn là một lĩnh vực tiềm năng màu
mỡ, rất đáng để đầu tư.
Không chỉ riêng gì với nước ta, công nghệ thông tin đã và đang thay đổi thế giới
(người ta nói nhiều đến thế giới “phẳng” hơn) cũng như tạo nên một cuộc cách mạng thực
sự trong mọi lĩnh vực của khoa học và đời sống. Việc ứng dụng CNTT trong hoạt động
sản xuất kinh doanh cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Khái niệm ứng dụng CNTT
trong hoạt động thương mại hay còn gọi là TMĐT ra đời và đang trở thành xu thế mới
thay thế dần phương thức kinh doanh cũ với rất nhiều ưu thế nổi bật như nhanh hơn, rẻ
hơn, tiện dụng hơn, hiệu quả hơn và không bị giới hạn bởi không gian và thời gian,…
Muốn nước ta không tụt hạu, cần phải qquan tâm hơn nữa, để TMĐT không chỉ phát triển
theo chiều rộng mà còn là chiều sâu.




×