Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống cảm nhận vợ nhặt của kim lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.33 KB, 5 trang )

Ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống cảm nhận Vợ nhặt của
Kim Lân - Ngữ Văn 12
Bình chọn:

Đó là những người cầm bút có biệt tài có thể chọn trong cái dòng xuôi chảy một khoảnh thời gian mà
ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất.



Giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân - Ngữ Văn 12



Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt - Ngữ Văn 12



Phân tích nhân vật người vợ nhặt, từ đó làm nổi bật lên số phận của người dân Việt...



Tóm tắt Vợ nhặt – Kim Lân - Ngữ Văn 12

Xem thêm: Vợ nhặt - Kim Lân Học trực tuyến Môn Văn học

BÀI LÀM
... “Đó là những người cầm bút có biệt tài có thể chọn trong cái dòng xuôi chảy một khoảnh
thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc
với một vài sự diễn biến sơ sài và cũng bình thường thôi, nhưng bắt buộc con người ở vào một
tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó
là khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại...”. Mỗi lần đọc và giảng truyện ngắn


Vợ nhặt, tôi lại nhớ tới ý kiến rất sâu sắc ấy của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu. Quả vậy,
cây bút truyện ngắn biệt tài Kim Lân đã chọn được một khoảnh khắc thời gian thật tiêu biểu để
dựng nên tác phẩm, ấy là buổi chiều “nhá nhem” không chỉ vẩn lên mùi ẩm thôi, đi vào một đêm
đen thỉnh thoảng vẳng ra tiếng hờ khóc tỉ tê, và tiến đến một buổi sớm mai mùa hè “sáng loá”.
Câu chuyện như một mảnh vẹn nguyên cuộc sống được xắn ra, vật lên trên trang giây - cuộc
sống của những lao động Việt Nam xanh xám, vật vờ, tối đen trong giờ phút lụi tàn của xã hội
thực dân phong kiến, chuẩn bị cho Cách mạng tháng tám năm 1945. Viết về xã hội cũ, song
nhà văn không miêu tả những bi kịch của kiếp người như những cây bút hiện thực thời kỳ ấy.
Chọn thời điểm giáp ranh Cách mạng, cho tác phẩm ra đời năm 1962 trong tập truyện nổi tiếng
Con chó xấu xí, tác giả Vợ nhặt cũng không dùng giọng văn ngắn mang âm hưởng sử thi ca
ngợi. Ngòi bút Kim Lân hướng vào chuyện duyên kiếp, tình nghĩa của con người, toả hơi ấm từ
tình người. Tình người - trước hết là ở những người lao động bé nhỏ, dưới đáy xã hội - đã
được nhen nhóm, thắp sáng giữa đêm đen của cuộc sống.
Chao ôi, cái đêm đen cuộc sống ở một xóm nghèo ven thành phố của những người ngụ cư
mới khủng khiếp làm sao! Cái đói, cái chết hiện hình thành những rìu sắc, đường nét rõ rệt,
ngay trước mắt con người: đường vào tối om, bóng người đói với những khuôn mặt xanh xám
đi lại dật dờ như những bóng ma - Cái đói, cái chết cất lên trong “tiếng quạ gào từng hồi thê
thiết trên mây cây gạo ngoài bãi chợ”, trong tiếng “hờ khóc tỉ tê” của những gia đình vừa chôn
cất người thân. Rồi nó “vẩn thành mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “mùi đốt
đống rấm - đốt những vật dụng của người vừa chết - bốc lên khét lẹt”. Trong tiến trình văn học


Việt Nam, nhiều nhà thơ đã viết về nạn đói: Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tuỳ bút kể chuyện
mùa màng thất bát, cả một vùng rộng lớn ở Thái Bình lúa ngô chết rục, chỉ thấy chồn, cáo chạy
nhông, đào bới…Nguyễn Du trong Sở kiến hành tả cảnh một gia đình đói rách đi xin ăn... Và
Thạch Lam, và Nguyễn Công Hoan, và Ngô Tất Tố... Song dường như chưa một ai đặc tả, cực
tả rõ nét cái nạn đói năm ất Dậu - 1945 - ở một thời gian cụ thể, một không gian đậm đặc như
Kim Lân đã làm. Trong truyện Đôi mắt, năm 1948 Nam Cao cũng từng dự cảm về “Cái hồi đói
khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, đọc Vợ nhặt của Kim Lân, chúng ta không chỉ nghe lời kể
của nhà văn mà như phải trực tiếp sống giữa cái thời điểm, cái nơi chôn đói nghèo ất Dậu ấy,

nhìn rõ cỏ cây, nhà cửa, bóng người, nghe rõ những tiếng quạ kêu, tiếng người khóc, ngửi thấy
mùi gây, mùi khét. Chúng ta không chỉ “rùng mình”, còn khiếp sợ, còn xót thương, ngột ngạt,
tưởng chừng không sống nổi. Văn chương hay chính đây đích thực cuộc đời đang hiện về?
Từng màu sắc, từng âm thanh, từng mùi vị... Một cảnh điêu tàn, rữa nát. Cái chết lan tràn, bao
phủ. Đêm đen buông xuống. Đời người, kiếp nhân sinh giống như một đống tro tàn, lạnh ngắt.
Vậy mà giữa bóng đen, giữa khí lạnh cuộc đời, hai kiếp người - anh con trai mệt mỏi bởi
những lo lắng chật vật hàng ngày và chị con gái tả tơi, gầy sọp, xám xịt - đã tình cờ gặp nhau,
cưới nhau, cùng nhau nhen nhóm ngọn lửa... Bắt đầu là Tràng, rồi cô vợ. Họ được cả làng xóm
dõi nhìn, cuối cùng được bà mẹ chấp nhận bằng một tấm lòng ngọt ngào, ấm áp. Họ sưởi ấm
cho nhau, cùng thắp sáng ngọn lửa sự sống, ngọn lửa tình người. Lần theo từng dòng chữ
từng đoạn văn trong Vợ nhặt, chúng la dễ dàng nhận ra ngòi bút tinh tế của nhà văn khi ông như có chủ đích - đan xen những âm thanh thê thảm, đau xót và những tiếng nói, giọng cười
vui vẻ tuế toá, đan xen những bóng đen, màu xám và những tia sáng, những ánh hồng. Câu
chuyện được kể thật nhẹ nhàng, thấm thía, theo một trình tự thời gian ngắn gọn từ chiều tà,
vào đêm tối, đến sáng hôm sau và cũng theo một trình tự của phép biện chứng tâm hồn, ánh
sáng của niềm vui, hơi ấm của hạnh phúc gia đình, ngọn lửa tình người được nhen nhóm rồi
thắp lên, để cuối cùng “sáng loá ” trong ánh nắng một rạng đông mùa hè ba kiếp người đói rách
ngồi bên nhau chuyện trò, nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật cứu đói, hướng lới Việt
Minh, tới những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ đỏ
bay phấp phới...
1. Nhen lửa
Có thể nói cuộc gặp gỡ của đôi trai gái - anh cu Tràng và cô vợ - những phút đầu đúng là một
câu chuyện tầm phào theo cách nghĩ của Tràng. Song, khi cả đôi anh chị cùng cất lời, đưa mắt
thì... dường như lửa và rơm đã bắt đầu bén Chỉ vừa nghe anh cái tiếng "Muôn ăn cơm trắng
với giò...”, chị đã “nhà : ơi”... rồi “liếc mắt cười tít". Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ,
chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế! Rồi hắn toét miệng cười và cũng biết
tình tứ lại chẳng kém gì cô em: “Này, hãy ngồi xuống ăn miếng giầu đã”. Ai dám chê cái anh
chàng đẩy xe bò đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu này không có duyên! Song, giữa cái
thời bên bờ vực chết đói này, duyên hay tình, hay gì gì đi nữa trước hết phải là miếng ăn, là sự
sống. Do đó sau khi biết đích xác chàng trai có tiền, rồi lại được ăn liền một lúc bốn bát bánh
đúc hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, rồi ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang

miệng, thở: Hà, ngon!... “Này, nói đùa chứ có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng
về...”. Nói thế, Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngỡ thị về thật. Câu chuyện ái tình của họ được
Kim Lân miêu tả bằng một giọng văn tưng tửng, như bỡn cợt, đùa vui, song hoàn toàn không


phải là bèo bọt trăng gió vu vơ. Nó nghiêm túc, càng về sau càng nghiêm túc. Giữa thời thóc
cao, gạo kém, mỗi người chưa chắc đã nuôi nổi cái thân mình, họ nhặt được nhau, rồi đưa
nhau về, sau cái chặc lưỡi liều lĩnh, song táo bạo như một lời thách đố đã diễn ra. Hai anh chị
đi bên nhau đàng hoàng cứ hệt như chú rể đưa cô dâu về nhà chồng. Anh: nét mặt phởn phơ
khác thường, tủm lỉm cười nụ và hai con mắt thì sáng lên lấp lánh. Chị: đầu hơi cúi, cái nón
rách tàng nghiêng nghiêng che khuất nửa mặt, rón rén e thẹn. Cả làng xóm như bừng dậy. Trẻ
con hò reo, có đứa gào lên: “chông vợ hài”, người lớn bàn tán, hỏi han, phán đoán. Những
khuôn mặt u tối hốc hác bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Tiếng cười, nói, tiếng mời gọi râm ran. Có
một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói tối tăm ấy của họ. Câu đố dường như dần
dần được giải đáp, mặc cho làng khen chê, đàm tiếu, Tràng vẫn cứ vênh mặt lên tự đắc, lấy
làm thích ý. Vì đến lúc này anh mới thực sự cảm nhận ý vị cuộc gặp gỡ tình cờ, cái ý định chớp
nhoáng, táo bạo mà đúng đắn của mình. Đi bên người đàn bà ngượng nghịu trước lời khen của
ai đó: ‘'khéo mà vợ anh cu Tràng thật, trông ta e thẹn hay đáo để”, Tràng như quên hết những
cảnh sống tăm tối hàng ngày. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người
đàn bà ... Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng.
Đó là tình yêu? Là hạnh phúc tuổi trẻ? Là ánh sáng đổi đời? Có lẽ là tất đốì với hai kiếp người
tối tăm, vờ vật, chắp nối lại cùng nhau để thành vợ, thành chồng. Cái giây phút quan trọng nhất
của lời thách đố là lúc Tràng đi sát bên người con gái, ngầm nghĩ một lúc, rồi giơ cao cái chai
con lên khoe: -Đầu tối thắp đây này... Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ,
chẳng nhẽ chưa tối đã rúc ngay vào, hì hì...”. Tràng đã nói ra được cái ý nghĩa thô mộc mà
thiêng liêng nhất: “Vợ mới, vợ miếc”. Cô gái cũng đáp lại được bằng " một lời nói suồng sã
nhất: “khỉ gió”, và một cử chỉ cởi mở nhất “phái đánh đét vào lưnghắn”, khiến cho "hắn thích chí
ngửa cổ cười khanh khách”. Vậy là, những e thẹn, những rụt rè, ngượng nghịu của ái tình trai
gái đã được bước qua để tới ngưỡng cửa của quan hệ vợ chồng rồi. Chuẩn bị cho ngày vui
đón vợ mới, anh chẳng có bạc vàng, rượu thịt cao sang gì, chỉ có cái chai con đựng ít dầu thắp

để... “cho nó sáng sủa một tí chứ”! vậy mà em vẫn khen “sang nhỉ” rồi lại chuyên răn anh
“hoang nó vừa vừa chứ”. Thật xót xa, mà cảm động, một cuộc rước dâu chỉ có hai người rách
rưới, vêu vao đi bên nhau với một ít dầu thắp tối. Song cũng thật đàng hoàng, trịnh trọng, bởi vì
họ tự đến với nhau, tin cậy, hoà hợp. “Đôi ta như lửa mới nhen, như trăng mới mọc, như đèn
mới khêu”. Cái mối tình dân dã của anh Tràng và cô vợ nhặt ngẫm ra cũng có ánh sáng, có lửa
ấm đấy chứ!
2. Thắp lửa
Khi hai vợ chồng về tới nhà, giới thiệu vợ với mẹ, anh cu Tràng nói: “Nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số
cả...”. Giọng tuy ngập ngừng, song lời lẽ thật chững chạc. Mỗi chữ mỗi câu vừa ấm tình người
vừa sâu nghĩa lý. “Nhà tôi làm bạn .. duyên ... kiếp... cái số cả...”, ấy là những ngọn lửa Tràng
thắp lên ừa để sưởi ấm, vừa để soi sáng cái đầu óc chậm chạp già nua của bà cụ Tứ. Với
chính Tràng, ngọn lửa ấy cũng thắp sáng lên trong lòng một quyết tâm. Nói tới “duyên - kiếp” là
chạm vào vùng thiêng liêng nhất trong mảnh đất của đôi gái, trai. “Duyên” là sự hấp dẫn, lôi
cuốn gọi mời, là tình yêu giữa hai người. “Kiếp” là đời sống cơ cực cùng cảnh ngộ, cùng
thuyền, cùng hội mà tạo hoá đẩy, trôi đến gần nhau, cảm thông với nhau, rồi chia sẻ và thương
nhau. Từ câu chuyện “tầm phào” ở bên đường bữa nọ, rồi tới lúc đưa cô ả đi qua ngõ xóm lời


bỡn cợt “vợ mới, vợ miếc”, giờ đây giữa mái ấm của căn nhà, trước mặt mẹ Tràng đã thực sự
coi mối quan hệ giữa mình với người con gái như có tiền định có lương duyên do trời sắp xếp,
do đời run rủi, ràng buộc. Có thể khi nói, Tràng chưa nghĩ được những điều sâu xa như vậy,
song cái cách anh ta “tươi cười" mời mẹ “ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện” rồi nhắc mẹ:
“Nhà tôi nó chào u”, rồi bước lại gần... vừa giới thiệu cô gái trong tư cách “nhà tôi” vừa khẳng
định “duyên số” hai người trong giọng điệu rành rẽ, đứng đắn, ai nghe chẳng cảm động, đồng
tình. Vì vậy, bà cụ Tứ đã hiểu, hiểu việc con làm, hiểu ra, biết bao nhiêu cơ sự khác nữa. Bà
mẹ nghèo khổ ấy vừa ai oán vừa xót thương cho đời mình, đời con. Bà thâm thía, tủi hờn về
hoàn cảnh, về trách nhiệm mẹ trước việc trăm năm hạnh phúc của con cái., rồi bà cảm động
đăm đăm nhìn cô gái, như chấp nhận, như hàm ơn: Người ta gặp bước khó khăn , đói khổ này
người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ... Bà nhắc lại ý con để nói với “nàng

dâu mới”: ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Con tin yêu
mẹ. Mẹ già cũng tin yêu, tôn trọng dâu con. Mẹ chồng và nàng dâu mới trò chuyện thật cởi mở,
thân tình. Bà mẹ dạy con: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”, phác ra một tương
lai “rồi ra may mà ông giời cho khá...”. Rồi an ủi, động viên: “con ngồi xuống đây cho đỡ mỏi
chân... cốt chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...”.
Đọng lại ở câu chuyện giữa hai kiếp người tuy khi nhau về tuổi tác mà thật giống nhau trong
cảnh ngộ làm người là ở chỗ “thương”, ấy là tình người, lòng bao dung nhân hậu của những
người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Nói được những lời gan ruột ấy, hẳn bà cụ Tứ vợi đi biết
bao đau khổ, giải toả biết bao lo lắng, tủi nhục. Trái tim người mẹ như nghẹn lại. Nước mắt cứ
chảy xuống ròng ròng. Phải chăng lúc đó là nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc nhỏ nhoi,
hạnh phúc được chia sẻ giãi bày? Khi thấy con trai đánh diêm đối đèn, bà cụ vội vàng lau nước
mắt, ngửng lên nói như reo: "Có đèn đây à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa...”. Một câu nói của
nhân vật, một chi tiết thật đơn giản mà chứa đựng bao nhiêu ý nghĩa. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi
căn nhà lụp xụp rách rưới của hai mẹ con bà Tứ không có ánh đèn. Đêm buông xuống, bóng tối
cũng ùa vào, che phủ. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi, hai mẹ con sống lủi thủi, âm thầm, hết kiếm ăn
ban ngày ở đầu đường góc chợ, đêm về nhà vật mình xuống vì mệt nhọc, chẳng cần đèn đóm,
chuyện trò. Nay nhà có người mới:. con trai có vợ mới, mẹ già có nàng dâu mới, thắp đèn lên
cho sáng sủa! Ngọn đèn, hay chính là ngọn lửa của tình người mà ánh sáng đã được nhen từ
trong trái tim của mỗi con người? ở Tràng, đó là ánh áng từ sự ngẫu nhiên, tình cờ đến một
quyết tâm, một khát vọng, ở người vợ nhặt, đó là ánh sáng của duyên kiếp, của cảnh ngộ, ngẫu
nhiên mà như số trời ràng buộc, xe kết. Ở bà cụ đó là ánh sáng của tình thương, lòng bao
dung, nhân hậu. Họ nhắc nhau thắp lửa để... đêm tối “sáng lên một tí”, để căn nhà toả ra hơi
ấm, lòng người có thêm chút lửa để quyết sống, quyết vượt qua tao đoạn này - cái tao đoạn
tăm tối đau thương nhất của đất nước bấy giờ. Có thể nói. nhà văn Kim Lân thắp vào giữa căn
nhà bà cụ Tứ một ngọn lửa - dù chỉ là của ngọn đèn dầu, thứ của cải đắt đỏ bây giờ - đồng thời
thắp trong lòng mình, lòng người đọc một niềm vui, niềm tin yêu, trân trọng trước bản lĩnh sống
của con người - những con người trong tăm tối vẫn nhen nhóm và cố thắp sáng khát vọng hạnh
phúc, khát vọng sống cho ra con người, nên người.
3. Ánh sáng chan hoà
Nếu ở phần trước, các chi tiết, các sự việc của câu chuyện diễn biến trong sự lan xen bóng

tối và ánh sáng, thì đến phần sau, nhà văn dựng một không gian nghệ thuật cả bề mặt và chiều


sâu, đầy ... ánh sáng, cả khung cảnh và nhân vật đều tắm trong ánh sáng, chan hoà ánh sáng,
ánh sáng bừng lên như một chuyển động tự nhiên, vì nhà văn kể về buổi sáng hôm sau. Song
ánh sáng ấy cũng đâu phải ngẫu nhiên. Nó biểu hiện một cảm hứng lạc quan, nó soi tỏ một
ngày mới, một trang mới của tâm hồn, sự sống mỗi nhân vật, mỗi kiếp người. Nó cũng là kết
quả đẹp đẽ của ngọn lửa tình người.
Một buổi sớm mai đẹp đẽ xiết bao! Nắng mùa hè sáng loá. Nhà cửa, sân vườn được quét tước
thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đìa được đem ra hong nắng. Hai cái
ang nước vẫn để khô cong, nước đầy ăm ắp. Đống rác ngay lối đi đã được hót sạch... Ngoài
vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ Tràng đang quét sân, tiếng
chổi kêu sàn sạt trên mặt đất... Tất cà như đang đổi thay, mới mẻ. Một nguồn sống mới, vui
sướng, ngọt ngào của hạnh phúc gia đình trỗi dậy, tràn ngập trong lòng. Anh cảm thấy mình đã
“nên người”, thấy thương yêu, gắn bó với căn nhà, với những người thân, ý thức về sự “nên
người” khiến cho Tràng trưởng thành, đổi thay cả về tâm tính lẫn hành động. Anh thấy mình
phải có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Anh xăm xắn chạy ra giữa sân, muốn làm một
việc gì để góp phần tu sửa lại căn nhà. Người đàn bà - vợ nhặt của Tràng cũng đã đổi thay,
khác hẳn. Rõ là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn
như mấy lần Tràng gập ở ngoài tỉnh. Rõ là người vợ biết chăm sóc chồng lam làm vun vén cho
cái tổ ấm vừa xây dựng. Nhìn ở đâu cũng thấy có bàn tay chị. Nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, áo
quần giặt giũ, ang nước đầy, cái bếp ấm lửa. Nhà văn không miêu tả chi tiết mà chỉ phác qua
một nét nhẹ nhàng bằng cảm nhận của Tràng - người chồng

Xem thêm tại: />


×