Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Hình tượng tổ quốc trong thơ ca sau cách mạng tháng tám 1945 đến 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.93 KB, 6 trang )

Hình tượng Tổ Quốc trong thơ ca sau cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975 Ngữ Văn 12
Bình chọn:

Trước hết cần hiểu đúng khái niệm Tổ Quốc: “Đất nước, được bao đời xây dựng và để lại, trong quan
hệ với những người dân có tình cảm gắn bó với nó”



Phân tích ngôn từ nghệ thuật trong bài thơ Đàn ghi-ta của Lor-ca - Ngữ Văn 12



Cảm nhận của anh, chị về hình tượng Lor-ca - Ngữ Văn 12



Ý nghĩa ẩn dụ của hình tượng tiếng đàn trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca - Ngữ Văn...



Cảm nhận về đoạn thơ: "Không ai chôn cất tiếng đàn ...đáy giếng" - Ngữ Văn 12

Xem thêm: Nghị luận văn học lớp 12 Học trực tuyến Môn Văn học

YÊU CẦU
1. Trước hết cần hiểu đúng khái niệm Tổ Quốc: “Đất nước, được bao đời xây dựng và để lại,
trong quan hệ với những người dân có tình cảm gắn bó với nó” (Từ điển tiếng Việt, Hoàng
Phê). Nói cách khác, Tổ Quốc bao gồm đất nước (vị trí địa lí), con người và lịch sử dần tộc.
(Tuy trong bài làm không nhất thiết phi giải ihích cặn kẽ khái niệm “Tổ Quốc”, nhưng phải tỏ ra
hiểu chắc chắn khái niệm này; nếu hiểu không đầy đủ, bài làm sẽ khó tránh khỏi phiến diện).
2. Chọn được những bài thơ, ý thơ tiêu biểu viết về Tổ Quốc hoặc có phần viết về Tổ Quốc


trong thơ ca sau Cách mạng tháng Tám (tức là thơ ca được viết từ khi Cách mạng thành công
tới những năm 1983, mà trọng tâm là thơ ca trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mĩ) để làm nổi bật hình tượng Tổ Quốc Việt Nam trong những tác phẩm này.
Có thể trình bày ba ý chính sau đây:
- Tổ Quốc tươi đẹp.
- Tổ Quốc đau thương.
- Tổ Quốc kiên cường, bất khuất đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng.
3. Lí giải được vì sao hình tượng Tổ Quốc xuất hiện nhiều trong thơ ca sau Cách mạng và
nhất là cần lí giải vì sao hình tượng Tổ Quốc lại có những biểu hiện vừa nêu. Ở đây, phải biết
vận dụng kiến thức về lí luận văn học (văn học là tấm gương phản ánh đời sông) và kiến thức
lịch sử (đây là thời kì dân tộc Việt Nam liên tục phải chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc trước sự xâm
lăng của ngoại bang; văn nghệ sĩ nhiều người đồng thời là chiến sĩ) để lí giải vấn đề. Ngoài
cũng cần phải thấy được hình tượng Tổ Quốc đã có vị trí như thế nào trong và học, ý nghĩa của
nó ra sao đối với hai cuộc chiến dấu và đối với ngày nay (những năm 80 của thế kỉ XX).
Đề bài này trước hết đòi hỏi học sinh phải có trình độ khái quát, từ những bài thơ, ý thơ cụ
thể rút ra được những nhận xét bao trùm, rồi phân tích, chứng minh, lí giải những nhận xét ấy.


(Dĩ nhiên, có thể làm bài theo cách quy nạp hoặc diễn dịch)
BÀI LÀM
Tổ Quốc là Bà Mẹ lớn nhất của chúng ta. Tổ Quốc cũng là đề tài lớn nhất trong thơ ca nói
riêng và văn học nghệ thuật nói chung.
Thơ ca của chúng ta từ hàng ngàn năm đã viết về Tổ Quốc, và hình tượng Tổ Quốc trong thơ
ca từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay là sự kế thừa và phát triển có tính biện chứng của
thơ ca truyền thống.
Đất nước trong thơ ca sau Cách mạng tháng Tám đến nay là đất nước anh hung, anh hùng
trong chiến đấu và trong sản xuất, dũng cảm vô song nhưng vẫn nhân ái thiết tha; đất nước
tươi đẹp, hiên ngang đứng ở mũi nhọn của lịch sử.
Có thể nói, chưa hao giờ trong thơ ca của chúng ta, hình tượng Tổ Quốc lại có những phẩm
chất cao đẹp và mới mẻ như vậy.

Hình tượng Tổ Quốc là tượng đài cao đẹp nhất, hùng vĩ nhất trong thơ ca Việt Nam, nó có cả
chiều rộng của thời đại mới, của mấy chục năm đánh Pháp và đánh Mĩ, cả chiều sâu yêu nước
cùng với yêu thơ ca cùa dân tộc, cả chiều cao của một đất nước từ trong vũng bùn nô lệ đã
hiên ngang đứng dậy thắng quân thù, làm nên ngọn hải đăng cho các dân tộc bị áp bức trên
thế giới.
“Thơ ca là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Nói đến Tổ quốc trong thơ ca
tức là nói đến đất nước và con người. Đất nước đã sản sinh ra con người, là nơi “chôn rau cắt
rốn” của con người và chính những con người đó đã cầm súng, cầm cày để bảo vệ và xây
dựng đất nước. Hai yếu tố này trong thơ luôn hoà quyện vào nhau, tác động tới nhau, hành
động và suy nghĩ của con người làm nên sự trưởng thành của đất nước và tiếng gọi của đất
nước chắp cánh cho hành động và suy nghĩ của những con người yêu nước đó. Hai hình ảnh
này gắn bó hữu cơ với nhau và cấu thành một hình tượng chung: Tổ Quốc.
Tổ Quốc, đó là nơi mỗi chúng ta cất tiếng khóc chào đời, nơi những kỉ niệm ngọt ngào êm
đềm nhất in vào chúng ta qua những lời ru: Con cò bay lả bay la...Tổ Quốc, đó là mảnh đất cha
ta nằm xuống cùng với đồng đội của mình, là Tháp Rùa rêu phong cổ kính, là Trường Sơn mây
mù che phủ, ... Ôi! Ai trong chúng ta chẳng đã có những kỉ niệm gắn bó không thể nào quên
được đối với đất nước! Và Ai trong chúng ta chẳng đã từng lặng người đi khi đọc những câu
thơ mà hình ảnh, vóc dáng của Tổ Quốc hiện ra thân thuộc đến nao lòng....
“Thơ là đồng điệu”, “là liếng nói tri âm” (Tố Hữu). “Thơ là tiếng gọi đàn...” (Xuân Diệu). Phải
rồi, thơ là tiếng lòng, là ‘‘hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi” để con người tìm đến với con
người, con người tìm đến với đất nước thân yêu của mình.
Trong quá khứ, thơ ca của cha ông chúng ta buồn lắm, bởi vì cuộc đời, bởi vì Tổ Quốc Việt
Nam ngày xưa đau khổ lắm:
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi.


(Chế Lan Viên)
Cũng có những phút mà Tổ Quốc gạt được nỗi buồn đó sang bên, đó là khi quân thù tới xâm
lấn bờ cõi đất nước, hào hùng thay lúc Lí Thường Kiệt sang sảng đọc: Nam quốc sơn hà Nam

đế cư. Trần Hưng Đạo cùng nhân dân với hào khí viết Đại cáo Bình Ngô mà lòng tự hào Đại
Việt lan tới từng con chữ..... Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, những áng “thiên cổ hùng văn”
đó không làm ta quên được bao số phận đói nghèo sau luỹ tre xanh. Hình ảnh đất nước vất
vả vẫn cứ day dứt chúng ta sau từng câu ca dao:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
(Ca dao)
Đêm trước của Cách mạng tháng Tám, đất nước có hai triệu ngừơi chết đói Tám mươi năm
dài nô lệ đã gây cho đất nước bao đau khổ.
Cả dân tộc đang tìm đường, cả đất nước đang chuẩn bị vùng dậy. Cái gì sẽ tới đây, rồi tương
lai?
Rồi cờ sẽ ra sao?
Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao?
ơi độc lập!
(Người đi tìm hình của nước, Chê Lan Viên)
Cách mạng tháng Tám bùng nổ đã làm thay đổi từ bộ mặt đến tâm hồn Tổ quốc. Đất nước đã
độc lập tự do, hình ảnh nước Việt Nam hiện ra trong thơ Nguyễn Đình Thi mới oai hùng biết
nhường nào:
Súng nổ rung người giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
(Đất nước)
Thơ ca Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến nay đã tạo nên tượng đài tổ quốc với tất cả
những phẩm chất cao đẹp: anh hùng vô song trong chiến đấu và sản xuất, dũng cảm tuyệt với
mà nhân ái thiết tha, trải bao bão lửa mà vẫn xanh, hiên ngang đứng ở đỉnh cao của lịch sử mà
vẫn khiêm tốn, giản dị, chan hoà. Kháng chiến chống Pháp, cả dân tộc đứng đậy, cả đất nước
đánh giặc:
Những ruộng vườn mọc lên luỹ thép



Những xóm làng thành bể dầu sôi
Quân giặc kinh hoàng trên đất chết
Mỗi bước đi lạnh toát mồ hôi.
(Nguyễn Đình Thi)
Hình tượng đất nước được tập trung ca ngợi qua Việt Bắc, trung tâm của kháng chiến:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
(Việt Bắc, Tố Hữu)
Đất nước bị tàn phá được khắc hoạ qua những chi tiết nhỏ nhặt tưởng như dễ bị qua nhưng
lại đọng trong ta nhiều xúc động:
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau.
(Núi Đôi, Vũ Cao)
Cuộc sống kháng chiến, con người kháng chiến được ghi lại nhiều trong thơ. Đó là anh Vệ
quốc, bà bầm, bà bủ, chị con gái Bắc Giang, người dân quân... Và một hình ảnh rất đẹp nữa,
kết tinh những phẩm chất của dân tộc: đó là Bác Hồ vĩ đại. Đó còn là những cảnh Ngày xuân
mơ nở trắng rừng, Ve kêu rừng phách đổ vàng, những đồi cọ, những ngọn núi hết sức thân
thuộc với kháng chiến...
Nhìn chung, thơ ca trong kháng chiến chống Pháp phản ánh trung thực và khá xúc động hình
ảnh Tổ quốc. Nhưng các nhà thơ chưa có được cái nhìn cao, rộng về Tổ Quốc. Do nhiều
nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do sự thay đổi, chuyển mình quá đột ngột của đất nước, các
tác giả chưa đủ thời gian để nhìn nhận, chiêm ngưỡng đất nước một cách toàn diện, đầy đủ.
Trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hình ảnh Tổ quốc được thể hiện như
một con ngựa vừa chắc tay súng ở miền Nam, vừa cầm bứa, cầm cày xây dựng cuộc sống mới
ở miền Bắc.
Đất nước đã đổi thay, cảnh đổ nát của chiến tranh vẫn còn nhưng những tiếng ca vui, những

sắc hồng của cuộc đời đã có rồi:
Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy, những con đường ca hát


Qua công trường mới dựng mái nhà son!
(Mùa thu mới, Tố Hữu)
Cả miền Bắc như một công trường đang thi công rộn rã, ngói mới là một hinh ảnh độc đáo
của Xuân Diệu để diễn tả những đổi thay to lớn đó:
Ơi ngàn vạn ngói nói xôn xao
Như đất ta vui bỗng vọt trào
Ngói mới! ơi ngàn muôn sức lực
Trải ra thành rọng, dựng thành cao!
Nhưng quân thù đâu có để chúng ta yên, ta muốn viết những “dòng tươi xanh” nhưng cũng
hãy cứ viết “những dòng thơ lửa cháy”.
Giai đoạn chống Mĩ là thời kì mà hình ảnh Tổ quốc Việt Nam hiện lên đẹp nhất, cao quý nhất,
toàn diện nhất trong thơ ca của chúng ta. Các nhà thơ đều có những sáng tác trực tiếp hoặc
gián tiếp về đề tài Tổ quốc. Chế Lan Viên với Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?, Nam Hà với
Ta là Việt Nam,... và đặc biệt là Tô Hữu với những bài thơ xuân, những bài thơ ra đời vào
những thời điểm nóng bỏng của lịch sử đấu tranh.
Cảm hứng bao trùm về đất nước là sự ngợi ca, khâm phục. Không ngợi ca khâm phục làm
sao được khi một dân tộc bé nhỏ hơn nhiều lần đã dám đánh và đánh thắng kẻ thù? Tố Hữu
viết:
Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ
Đất anh hùng của thế kỉ hai mươi.
Chế Lan Viên đặt đất nước, đặt thời đại đang sống vào vị trí cao nhất trong lịch sử:
Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn!
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)

Lê Anh Xuân, qua hình tượng người chiến sĩ giải phóng quân hi sinh trên đường băng Tân
Sơn Nhất, khái quái lên hình tượng dáng đứng Việt Nam, cái dáng đứng tạc vào thế kỉ mà trải
qua hàng ngàn năm nay chúng ta mới có được.
Từ dáng đứng của Anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
Cái khí phách, cái anh hùng của người Việt Nam có khi còn được thể y qua những hình ảnh
rất đỗi nên thơ:
Ao trường vẫn nở hoa sen


Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu.
(Trần Đăng Khoa)
Sức mạnh Việt Nam được lí giải qua một em bé thôi, chiến tranh ác liệt là thế, chết chóc là
thế nhưng em vẫn có một con mất trong trẻo vô cùng. Người chiến sĩ nằm hầm bí mật thì phát
hiện ra sức mạnh Việt Nam qua hình ảnh người mẹ đào hầm và chăm sóc cho anh:
Nơi hầm tốì là nơi sáng nhất
Nơi con nhìn ra sức mạnh Việt Nam!
(Bùi Minh Quốc)
Tố Hữu khắc hoạ hình ảnh Tổ Quốc như một bà mẹ, bà mẹ rất đỗi thân thương của mỗi
chúng ta:
Việt Nam, ôi Tổ Quốc thương yêu!
Trong khổ đau, Người đẹp hơn nhiều
Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng
Nhẫn nại nuôi con, suối đời im lặng...
(Tố Hữu)
Trước kia, Nguyễn Trãi viết Đại cáo bình Ngô cũng mới chỉ thấy được tầm vóc của chiến
thắng qua việc non sông sạch bóng quân thù; nhưng giờ đây, các thơ của chúng ta đã thấy
được cái

Xem thêm tại: />



×