Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.89 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------*-------

BÀI TIỂU LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ GIỮ

GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC

HỌ VÀ TÊN:
MSSV:
LỚP:
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
GVHD:


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
I.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ GÌN GIỮ
VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC..................................2
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa..................................................................2
1.1.

Khái niệm về văn hóa theo quan điểm của Hồ Chí Minh..............................2

1.1.1. Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh...........................................................2
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa....................2
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa............4


1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc...................................................................................................................5

1.2.1. Khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc...........................................................5
1.2.2. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.........6
II.

TÌNH HÌNH THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN
HÓA DÂN TỘC HIỆN NAY......................................................................9
1. Thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân
tộc........................................................................................................................9
2. Các yêu tố tác động..........................................................................................15
2.1. Truyền thống giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá khứ.....................15
2.2. Lòng tự tôn dân tộc......................................................................................17
2.3. Toàn cầu hóa................................................................................................18
3. Giải pháp đề xuất.............................................................................................21
3.1. Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa
dạng..............................................................................................................22
3.2. Đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng và xây dựng lối sống văn hóa.........22
3.3. Không ngừng phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật..............................23
3.4. Phát triển hệ thống thông tin đại chúng.......................................................23
III.

Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
CÁC VẤN ĐỀ THỰC TIỄN.....................................................................24
TỔNG KẾT............................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................28


LỜI MỞ ĐẦU


Là một người con của nước Việt, ai hẳn cũng biết và tự hào về chủ tịch Hồ Chí
Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, vị cha gìa kính yêu với tấm lòng nhân hậu, độ
lượng, khoan dung, yêu thương đồng bào. Đất nước ta hòa bình, độc lập, từng bước đi
lên hội nhập với thế giới như ngày hôm nay là nhờ vào sự lãnh đạo của Người. Trong
tác phẩm “dưới lá cờ vàng”, đồng chí Lê Duẫn từng viết “Mỗi bước đi của nhân dân ta
và của Đảng ta trong 40 năm qua đều gắn liền với cuộc đời cách mạng vô cùng sôi nổi
đẹp đẽ của Hồ Chủ Tịch. Giờ đây, tuy Bác đã đi xa, nhưng Người đã đê lại cho dân
tộc Việt Nam một tài sản vô giá, đó là di sản văn hóa vô cùng phong phú và cao đẹp.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống
tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, vận
dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng
của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đầy đủ điều kiện phát triển
được, văn hóa cũng là động lực của xã hội và nền kinh tế nước nhà, văn hóa soi đường
cho quốc dân đi. Trên thực tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và
những giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và
cũng là mục đích cuộc sống của loài người. Văn hóa là nhân tố đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của một quốc gia. Với tầm quan trọng của nền văn hóa dân tộc, tôi xin
cung cấp thêm cho người đọc những giá trị thực sự của nền văn hóa trong hệ tư tưởng
Hồ Chí Minh cũng như vấn đề giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc trong thời đại
công nghệ phát triển hiện nay thông qua đề tài này.
I.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN
VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
1.1. Khái niệm văn hóa theo điểm của Hồ Chí Minh
1.1.1. Định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh
 “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
ăn mặc ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sang tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.” (Hồ Chí
Minh: Toàn tập, t.3, NXN Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2000).
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn nêu ra 5 điểm lớn định
hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
2. Xây dựng luân lý: biết hi sinh, làm lợi cho quần chúng
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế.”


(Hồ Chí Minh toàn tập, t.3)
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vân đề chung của văn hóa
1.1.2.1. Quan diểm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của văn hóa trong
đời sống xã hội
a. Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng
 Văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành 4 vấn đề chủ
yếu của đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau,
được coi trọng như nhau.
+ Trong quan hệ với chính trị - xã hội: Chính trị, xã hội được giải phóng thì

văn hóa mới được giải phóng. Chính trị mở đường cho văn hóa phát triển.
+ Trong quan hệ với kinh tế: Kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của
việc xây dựng văn hóa. Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ
tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa.
b. Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải
phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế
c. Văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực,
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị
 Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, nghĩa là:
+ Văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây
dựng và phát triển kinh tế. Quan điểm này định hướng cho việc xây dựng một
nền văn hóa mới ở Việt Nam, định hướng cho mọi hoạt động của văn hóa.
+ Kinh tế và chính trị cũng phải có văn hóa. Vận dụng sang tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng ta chủ trương gắn văn hóa với phát triển, chủ trương đưa các
giá trị văn hóa thâm sâu vào inh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.2.2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa
 Tính chất dân tộc: Cốt cách dân tộc, tinh túy bên trong, đặc trưng của văn
học.
 Tính khoa học: Thuận theo trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại: Hòa
bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội. Đấu tranh với những gì trái với khoa
học, phản tiến bộ, duy tâm, thần bí, mê tín dị đoạn, biết gạn đục khơi
trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại.
 Tính chất đại chúng: phục vụ nhân dân, hợp với nguyện vọng, đâm đà tính
nhân văn, là nền văn hóa do quần chúng xây dựng.
1.1.2.3. Quan điểm về chức năng của văn hóa
Gồm 3 chức năng chủ yếu:
 Bồi dưỡng lý tưởng, tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp: Lý tưởng lớn:
Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, Tình cảm lớn: Yêu nước thương

dân, yêu con người.
 Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí: Bắt đầu từ chỗ biết đọc biết viết để có
thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, để nhân dân có thể
tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
 Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh;
hướng con người tới chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân: Làm sao cho


văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được
những tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ; văn hóa phải soi đường cho
quốc dân đi.
1.1.3. Quan điểm của Hồ Chi1 Minh về một số lĩnh vực chính của văn hóa
1.1.3.1. Văn hóa giáo dục
 Phê phán nền văn hóa phong kiến (tầm chương, kinh viện, xa rời thực tế,
bất bình đẳng, trọng nam khinh nữ) và nền văn hóa thực dân (ngu muội,
đồi bại, xảo trá).
 Mục tiêu: Thực hiện 3 chức năng của văn hóa thông qua việc dạy và học.
Nội dung: Phù hợp với thực tiễn Việt Nam, giáo dục phải toàn diện, tức
là bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghề
nghiệp, lao động.
 Phương châm: Học đi đôi với hành, học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi người,
học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.
 Phương pháp: Phù hợp với trình độ, mục tiêu
 Về đội ngũ giáo viên: quan tâm xây dựng, bồi dưỡng có đức, có tài, yêu
nghề.
1.1.3.2. Văn hóa văn nghệ
 Văn hóa – văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ
là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới,
con người mới.
 Văn nghệ gắn liền với thực tiễn của đời sống nhân dân. Phải có những tác

phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc.
1.1.3.3. Văn hóa đời sống
 Đạo đức mới: Thực hành “cần, kiệm, liêm, chính”. Hồ Chí Minh nhiều lần
khẳng định: “Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên
hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”, “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm,
Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới” (Hồ Chí Minh toàn tập,
t.5).
 Lối sống mới: Sống có lý tưởng, đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài
hòa truyền thống dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Phải làm sao cho
mỗi hoạt động của con người đều mang tính văn hóa.
 Nếp sống mới: Nếp sống văn minh, là quá trình làm cho lối sống mới dần
dần trở thành thói quen, phong tục tập quan tốt đẹp, kế thừa và phát triển
những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Đời sống mới không phải
cái gì gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới.Cái gì cũ mà xấu
thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì
cũ mà tốt thì phải phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm, phải bổ
sung.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc
1.2.1. Khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc
 “Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được
dân tộc sáng tạo ra trong lịch sử, là những nét độc đáo rất riêng của dân tộc
này so với dân tộc khác.” (Một số vấn đề lý luận về bản sắc văn hóa dân


tộc, ThS. Hoàng Thị Hương)
1.2.2. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
1.2.2.1. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc trong
quá trình phát triển của dân tộc.
 Nói tới cốt cách của một dân tộc thì không chỉ nói tới những nét đặc sắc,

đậm đà được biểu hiện qua tính cách mà còn thông qua toàn bộ đời sống
vật chất và tinh thần của dân tộc. Cốt cách dân tộc là cái tương đối ổn
định, bền vững bởi nó được hình thành, tạo dựng và khẳng định trong lịch
sử tồn tại và phát triển của dân tộc. Giữ được cốt cách dân tộc sẽ giúp dân
tộc thích ứng được với những cái mới và "dân tộc hóa" cái mới để biến nó
thành tài sản của dân tộc, mang hồn của dân tộc.
 Thực tế, sự thiếu thốn, nghèo nàn về bản sắc văn hóa, sự mất mát về cốt
cách dân tộc nhiều khi còn đáng sợ hơn sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật
chất. Sự mất mát về bản sắc văn hóa dân tộc làm mất đi cốt cách dân tộc,
có thể làm mất đi ý nghĩa tồn tại của một dân tộc. Như vậy, sự phát triển
kinh tế có thể mang lại sự đầy đủ về vật chất và tiện nghi sinh hoạt nhưng
không đồng nhất với sự phồn vinh, thịnh vượng nếu ở đó thiếu vắng những
giá trị văn hóa dân tộc.
1.2.2.2. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở củng cố ý thức tự tôn dân
tộc và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững.
 Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ nhấn mạnh những nét đặc sắc
của dân tộc mà còn là giữ gìn những giá trị thuộc về dân tộc đó. Đồng thời
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chỉ có thể thực hiện được
trên cơ sở ý thức tự giác của cả cộng đồng dân tộc.
 Ý thức tự tôn dân tộc được củng cố thông qua việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong việc phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc mà cả đối với quá trình phát triển nói
chung, phát triển kinh tế nói riêng. ý thức đó có thể trở thành sức mạnh
giúp dân tộc vượt qua những khó khăn, thử thách trong quá trình phát
triển.
 Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ
hội nhập quốc gia sẽ góp phần phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế, bảo đảm
cho sự phát triển của dân tộc giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi
phương diện. Đảng ta khẳng định: trong điều kiện kinh tế thị trường và mở

rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao văn hóa
dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và
lòng tự hào dân tộc.
1.2.2.3. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là tiếp tục phát huy tính sáng tạo
của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
 Ngày nay, hội nhập quốc tế, một mặt, tạo điều kiện để các nền văn hóa dân
tộc được giao lưu, hợp tác và phát triển; mặt khác, cũng tạo ra xu hướng
toàn cầu hóa về ngôn ngữ, về văn hóa, về lối sống và quan niệm giá trị.
Quá trình đó đặt các dân tộc trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân
tộc, đồng thời còn ẩn chứa nguy cơ làm suy giảm tính sáng tạo của các dân
tộc trong quá trình phát triển.


 Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một mặt, phải gắn liền với
chống lạc hậu, lỗi thời "trong phong tục, tập quán, lề thói cũ"; mặt khác,
giữ gìn phải biết lọc bỏ - bổ sung - phát triển một cách sáng tạo, phù hợp
với đời sống hiện đại.
1.2.2.4. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là kế thừa và phát huy những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
 Trải dài theo năm tháng của lịch sử, mỗi dân tộc hun đúc cho mình rất
nhiều giá trị văn hóa trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những
truyền thống đó được lưu giữ, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện
mới và đáp ứng những yêu cầu phát triển của lịch sử. Những tinh thần đó
tiếp tục được bổ sung những nhân tố mới, cách thức biểu hiện mới để đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc tế. Ngày nay yêu
nước không chỉ để chiến thắng kẻ thù xâm lược mà còn là để xây dựng
một dân tộc phát triển về mọi mặt để có thể "sánh vai" cùng các dân tộc
khác trên trường quốc tế.
1.2.2.5. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với bảo vệ mối quan hệ hòa
hợp giữa con người với tự nhiên và xã hội.

 Ngày nay, trước sự tác động của biến đổi khí hậu và sự bất ổn tàn khốc của
chiến tranh, khủng bố đang hằng ngày hằng giờ cảnh báo cho loài người
phải biết quan tâm đến việc sống hòa hợp với tự nhiên và xã hội như một
nhân tố không thể thiếu để phát triển, trong đó có phát triển kinh tế.
 Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội không chỉ là môi trường sống
mà còn là môi trường văn hóa, nơi những giá trị văn hóa hay bản sắc văn
hóa dân tộc hình thành, tồn tại và phát triển. Để giữ gìn văn hóa nói chung,
bản sắc văn hóa nói riêng, tất yếu phải bảo vệ môi trường tự nhiên và xã
hội.
 Tóm lại, với Hồ Chí Minh, việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc là rất cần thiết, là việc phải làm, nên làm, nhưng quan trọng
hơn lại là việc biết vận dụng và phát triển những bản sắc ấy vào cuộc sống.
Đó chính là cách tốt nhất để bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc. Ở Hồ Chí Minh luôn có sự gắn bó chặt chẽ giữa truyền thống và
hiện đại. Theo Người, mọi hiện đại, tiên tiến đều bắt nguồn từ truyền
thống tốt đẹp. Từ tầm nhìn của một nhà văn hóa lớn, Người luôn nhắc nhở
mọi nhân dân, nhất là với cán bộ, Đảng viên phải biết quý trọng vốn cổ
dân tộc, “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.
II.

TÌNH HÌNH THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN
HOÁ DÂN TỘC HIỆN NAY
1. Thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc
hiện nay
 Hiện nay, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc
đang là một vấn đề đau đầu đối với các nhà lãnh đạo cũng như những nhà
nghiên cứu văn hoá. Thực tế, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền
thống dân tộc là trách nhiệm của mỗi cá nhân và xã hội bởi lẽ bản sắc văn
hoá cũng như truyền thống dân tộc là phạm trù đã được hình thành từ rất
lâu đời và dần được tích luỹ theo thời gian. Thế nhưng tại sao vấn đề này



lại tạo nên tiếng còi báo động đối với không chỉ là mỗi dân tộc mà còn là
cả đất nước Việt Nam? Muốn hiểu rõ, ta hãy nhìn vào thực trạng của việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc hiện nay.
 Một trong những thực trạng hiện nay đó là mối quan hệ song song giữa
phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát
triển chưa thực sự được nhận thức đúng đắn.
 Kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng liên tục, tỷ lệ đói nghèo không ngừng
giảm góp phần nâng cao vị thế của dân tộc trên trường quốc tế, tuy nhiên
sự phát triển đó vẫn chưa thật sự bền vững khi dựa trên nền tảng tinh thần
còn thiếu vững chắc. Việc đầu tư cho phát triển tập trung nhiều ở phát triển
kinh tế mà chưa có điều kiện đầu tư cho phát triển văn hóa nói chung và
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng. Bên cạnh đó, phát
triển kinh tế đâu đó vẫn có biểu hiện coi trọng lợi ích trước mắt; giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc tồn tại xu hướng chạy theo phong trào, khuôn mẫu
khiến cho bản sắc văn hóa vốn có của các dân tộc kém đa dạng, phong
phú. Từ đó dẫn đến trong đời sống xã hội, kinh tế có bước phát triển
nhưng bản sắc văn hóa dân tộc lại bị mai một, mất dần hoặc lai căng một
cách tự phát. Một trong những biểu hiện điển hình là cùng với phát triển
kinh tế thương mại và du lịch là sự “thương mại hóa”, “hàng hóa hóa”
những sắc thái văn hóa dân tộc dẫn đến giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc tự phát, phiến diện. Mặt khác, trong quá trình phát triển kinh tế
chúng ta vẫn còn tư duy phát triển những ngành công nghiệp dựa trên khai
thác tiềm năng thiên nhiên mà chưa chú trọng thích đáng đến phát triển
ngành công nghiệp văn hóa. Sự trì trệ của công nghiệp văn hóa dẫn đến hệ
quả “kép”cả về hiệu quả kinh tế và việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Tất yếu sẽ hình thành thứ văn hóa “ăn theo”, “bắt chước” phương Tây một
cách thiếu chọn lọc, tạo điều kiện cho “văn hoá xấu” thâm nhập vào đời
sống của ta. Đó là một nguy cơ làm nghèo kiệt đi bản sắc văn hóa dân tộc,

mất đi sức sáng tạo của một dân tộc thời hiện đại.
 Một thực tế điển hình là ở Việt Nam hiện nay thường có 3 dạng thức văn
hóa tồn tại, phát triển bên cạnh nhau, chồng lấn nhau là: văn hóa truyền
thống, văn hóa hàn lâm và văn hóa “chạy” theo thị trường. Trong đó, văn
hóa “chạy” theo thị trường – rất được phương Tây ưa chuộng mang ảnh
hưởng lớn nhất. Bản chất của văn hóa “chạy” theo thị trường là vì lợi
nhuận và biểu hiện ở “tính hiện đại” gắn liền với văn hóa phẩm theo kiểu
“đám đông”. Có nghĩa là những sản phẩm mang tính chất giải trí nhằm
quảng bá để thu hút sự chú ý của người tiêu dùng Việt có chứa các yếu tố
không phù hợp với thuần phong mỹ tục của người dân nơi đây. Một khi
các sản phẩm này được người ta chấp nhận rộng rãi, nhất là khi người Việt
mang căn bệnh sính ngoại và bệnh đám đông, nó sẽ gây nên thói quen xấu
cũng như việc hình thành những “tư tưởng lạ” trong tâm trí người Việt
rằng họ thích những điều “mới mẻ”, “hiện đại”, “giống Tây”. Thông qua
đó, nó tước đi sự nhạy cảm, cảm xúc văn hóa chân chính của công chúng,
thậm chí làm cho một bộ phận người dân coi các hành động bạo lực là
hoạt động bình thường và có thể chấp nhận được. Hậu quả lớn nhất của
văn hóa “chạy” theo thị trường là làm suy giảm tình thương đồng loại ở


con người, chứ không chỉ dừng lại ở sự vô cảm văn hóa.
 Một hiện thực khác ta có thể thấy là nghệ thuật văn hóa Việt Nam truyền
thống với nhiều thể loại, loại hình hiện đang bị mai một. Văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số đang đứng trước những thách thức lớn khi hàng
nghìn buôn, bản, làng truyền thống với giá trị văn hóa lâu đời đặc trưng
cho các dân tộc, đang có nguy cơ biến mất, hoặc bị cải tổ đến biến dạng,
rất cần được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo tồn, phát huy trong cuộc sống
đương đại. Trang phục, kiến trúc, phong tục tập quán, lễ hội, thậm chí là
ngôn ngữ đang đứng trước nguy cơ biến mất vì đã bị mai một nghiêm
trọng. Những loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống ngày xưa nay

không còn được giới trẻ ưa chuộng nữa. Sở dĩ những thể loại, loại hình đó
tồn tại lâu đời và có sức hấp dẫn mạnh mẽ vì nó là văn hóa được xây dựng
trên nền tảng của nền nông nghiệp lúa nước. Ngày nay khi công nghiệp tác
động mạnh mẽ vào đời sống nhân dân, các thể loại đó không còn khả năng
hấp dẫn và cuốn hút mạnh mẽ. Thanh niên ngày nay và cả tầng lớp trung
lưu không thích xem tuồng, chèo, hát ca trù vì diễn tiến nghệ thuật lúc
nghệ sĩ biểu diễn thường diễn ra chậm trong khi diễn tiến của cuộc sống đã
có nhiều ảnh hưởng của nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Đảng, Nhà
nước, Bộ Văn hóa và những nghệ sĩ, những nhà nghiên cứu mang tâm
huyết với các loại hình văn hóa truyền thống đang hết sức quan tâm, ra sức
bảo lưu, giữ gìn và cố gắng phát triển nhưng nếu chỉ có nỗ lực từ một phía,
không được sự quan tâm của đông đảo các ngành, các cấp và nhân dân thì
mong muốn ấy khó có thể thực hiện được.
 Thứ hai,“sức khỏe” của nền văn hóa dân tộc chưa thực sự được quan tâm
đúng mức do công tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không thể hiện rõ
nét mục đích và nhiệm vụ cụ thể trong quá trình xây dựng và phát triển.
 Khi “sức khỏe” đời sống tinh thần của dân tộc chưa được chăm chút, ý
thức trong việc giữ gìn văn hoá chưa được hình thành thì những cái mới lạ
từ bên ngoài sẽ có cơ hội xâm lấn và len lỏi vào giữa những cái được gọi
là văn hoá truyền thống của nhân dân. Đây là nguy cơ “hòa tan”, tự đánh
mất mình, mất bản sắc dân tộc trong phát triển kinh tế cũng như xây dựng
nền văn hóa dân tộc. Có thể nói, lòng tự tôn dân tộc và ý thức giữ gìn cốt
cách dân tộc chưa thật sự có chỗ đứng vững chắc trong đời sống tinh thần
của cộng đồng và xã hội. Đó là phải xem xét rằng các công tác giáo dục,
tuyên truyền và nhiều biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chỉ mới là
những giải pháp tình thế trước mắt,chưa thật sự đi vào chiều sâu một cách
có hệ thống vậy thì làm sao có thể tạo dựng trong lòng người nhận một giá
trị thật sự? Bên cạnh đó, bảo tồn những giá trị thuộc về bản sắc văn hóa
dân tộc còn thiếu tính toàn diện hoặc không kịp thời. Thực tế là việc giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc xuất phát từ nhận thức chưa thấu đáo

về những giá trị văn hóa dân tộc dẫn đến việc xuất hiện những sản phẩm
văn hóa "không giống ai", không rõ bản sắc văn hóa dân tộc. Có nghĩa là
những sản phẩm văn hoá đó, ta không phải ta mà tây cũng không phải tây.
Chính vì những kết quả trên ta nhận thấy được thực trạng rằng “sức khoẻ”
của nền văn hoá dân tộc đang thật sự có chiều hướng xuống dốc, nếu
chúng ta kịp thời đưa những bản sắc văn hoá truyền thống này trở lại quỹ









đạo của nó thì may thay ta còn giữ gìn được mai sau; ngược lại, nếu chúng
ta vẫn kiên trì một thái độ bàng quang đối với thực tế xảy ra trước mắt,
việc đánh mất bản sắc truyền thống dân tộc chỉ còn là vấn đề sớm hay
muộn mà thôi.
Ngày nay, khi mà toàn cầu hoá đang là xu hướng đối với thế giới, quốc gia
cần phải thay đổi và tiếp thu những nét đẹp, cái hay từ những nước bạn thì
tồn tại một số thành phần lạm dụng điều đó để “bắt chước” văn hoá nước
ngoài và cho rằng họ đang tiến bộ so với mọi người quanh họ. Điển hình là
việc ăn mặc quá sức gợi cảm, hở hang đi ra đường, ở đây xin nhấn mạnh
việc tiếp thu cái đẹp văn hoá từ bên ngoài là cần thiết thế nhưng ta vẫn
phải giữ được những nét truyền thống nhất của người Việt từ ngàn xưa đến
nay, do đó khi một người ăn mặc phản cảm và cho đây là “giống Tây”,
“sành điệu” thì đó không phải là sự tiếp nhận có chọn lọc, phù hợp văn hoá
người Việt. Trái lại, hành động này gây ảnh hưởng xấu đến bản sắc văn
hoá truyền thống dân tộc Việt Nam.

Thực trạng thứ ba, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc còn
mang tính “bao cấp”, dựa trên sự hỗ trợ của Nhà nước là chính.
Tính chủ động, tích cực của các chủ thể văn hóa dân tộc chưa được khơi
dậy, hầu hết sự tự giác vẫn chưa được đánh thức. Trong khi đó, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc luôn gắn với vai trò của các chủ thể sinh ra và lưu giữ
chúng. Do vậy, khi chủ thể vẫn còn “ngủ say” thì nhiệm vụ bảo tồn văn
hoá chắc chắn không thể đi vào hiện thực. Công ước UNESCO năm 2003
cũng đã khẳng định: "Những di sản văn hóa phải được chuyển giao từ thế
hệ này sang thế hệ khác, được các cộng đồng và các nhóm người không
ngừng tái tạo và hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục".
Thực tế, ngày nay, những bản sắc văn hoá mang đậm nét truyền thống của
dân tộc chưa hẳn đã được chuyển giao từ thế hệ trước sang thế hệ sau bởi
lẽ những lớp người trẻ ngày nay trở nên bận rộn và cấp tiến hơn bao giờ
hết. Thật vậy, họ đã dần lãng quên những giá trị tinh hoa vốn có của dân
tộc hoặc lạ thay, họ mang nặng một quan niệm khác về cái đẹp, một cái
đẹp hoàn toàn hiện đại, bon chen chứ không phải một cái đẹp truyền
thống, văn hoá. Hệ quả là, chỉ có người truyền đạt mà không có người kế
tục bởi những người tiếp nhận không có ý thức và tự giác giữ gìn; di sản
văn hoá, bản sắc dân tộc sẽ dễ dàng bị mai một và đến một ngày nào đó,
nó sẽ biến mất vĩnh viễn.
Chiếc áo dài tân thời – sản phẩm văn hóa mặc kết hợp cả văn hóa mặc
Đông – Tây đã và đang là vẻ đẹp văn hóa mặc mang bản sắc Việt Nam
cũng cần phải được nhận thức và giữ gìn. Do điều kiện sinh hoạt vật chất
ngày nay đã được cải tiến đầy đủ hơn nên nhiều người phụ nữ không được
mảnh mai và vì vậy không thích mặc áo dài ngay cả những ngày lễ, tết.
Tương tự, một số các nhạc cụ rất độc đáo của người Việt Nam đangít được
chú ý bảo tồn và phát huy nhưđàn đá Tây Nguyên – nhạc cụ một thời tạo
được ấn tượng sâu đậm cho khán giả trong và ngoài nước, hiện nay chỉ có
ít người biết sử dụng. Các nhạc cụ độc đáo của đồng bào các dân tộc miền
núi cũng có nguy cơ mai một trong bối cảnh nhạc hiện đại tràn lan của đời

sống âm nhạc ngày nay. Đô thị hóa nông thôn là một sự tiến bộ nhưng


cũng kéo theo nhiều yếu tố làm mai một những giá trị truyền thống của
văn hóa Việt Nam. Mối quan hệ làng xã truyền thống với tình làng nghĩa
xóm cũng không còn mặn nồng như trước.Đó là thực tế ngày nay khi các
thế hệ tiếp sau không dành những nỗ lực thích đáng trong việc bảo tồn và
phát huy truyền thống quý báu của dân tộc bởi lẽ họ còn chưa thật sự hiểu
hết ý nghĩa và cảm hết cái đẹp sâu sắc phía sau vẻ bề ngoài thô sơ đó.
 Tuy nhiên, bên cạnh những mặt hạn chế trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá
truyền thống dân tộc như xu hướng sính ngoại, nhận thức chưa thực sự sâu
sắc và các động lực dành cho việc phát triển văn hoá còn mờ nhạt, ta
không thể đánh đồng tất cả các lớp thanh niên hiện nay đều “say mê” trong
thực trạng tồi tệ đó. “Kết quả điều tra tình hình thanh niên năm 2010 của
Viện Nghiên cứu thanh niên cho thấy, nhìn chung thanh niên đô thị hiện
nay có thái độ tích cực đối với cuộc sống, thể hiện ý thức trách nhiệm đối
với xã hội. Điều này được nhìn nhận qua sự quan tâm của thanh niên đô
thị tới các vấn đề xã hội, kinh tế, hay các sự kiện chính trị, văn hóa nổi
bật ,đặc biệt là các vấn đề tác động trực tiếp đến cuộc sống thực tế hằng
ngày của thanh niên đô thị.” (ThS TRẦN KIM CÚC - Viện Văn hóa và phát
triển, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh)
 Thực tế vẫn có rất nhiều thành phần trong giới trẻ hiện nay vẫn tiếp tục giữ
gìn, kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc Việt
Nam. Họ biết cách tiếp thu một cách có chọn lọc các tinh hoa nhân loại,
kết hợp với bản sắc lâu đời của người Việt tạo nên sản phẩm văn hoá đẹp,
chiếm được thiện cảm của nhiều người cả trong và ngoài nước. Ngày nay,
ta vẫn nhận thấy rằng, thanh niên vẫn sắc son với truyền thống nhân văn,
nhân ái như: “Uống nước nhớ nguồn”, “Lá lành đùm lá rách”, “Tôn sư
trọng đạo”, Các hội sinh viên, hội thanh niên cũng như các tổ chức dành
cho lớp trẻ hiện nay giữ vững tinh thần tuyên truyền và phát triền nhận

thức cũng như ý thức về văn hoá dân tộc, về Đảng và tư tưởng của Hồ chủ
tịch. Một số các loại nhạc cụ truyền thống và các loại hình nghệ thuật
không chỉ sân khấu mà còn nhân dân vẫn còn được kế thừa. Nói như thế
không có nghĩa là mâu thuẫn với thực trạng báo động ở trên, việc duy trì
truyền thống vẫn còn được duy trì và kế tục song nó không còn mạnh mẽ
như trước bởi số lượng người bị tác động ngoại lai xâm lấn còn nhiều hơn
so với số lượng người giữ được nét văn hoá dân tộc.
 Ta thấy rằng, các giá trị truyền thống dân tộc đang thực sự bị mất dần do
sự thờ ơ của người kế tục, do nhận thức sai về giá trị văn hoá, do nhịp sống
hối hả hiện đại, tất cả tạo nên ý thức bàng quang đối với nền văn hoá dân
tộc. Bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc sẽ không thể được bảo tồn và
phát triển nếu chỉ do sự cố gắng từ một phía; đó cần là sự kết hợp, chung
tay của cả những nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu văn hoá và tầng lớp người
dân, các thế hệ già trẻ, đó là lực lượng của toàn dân tộc.
2. Các yếu tố tác động đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền
thống dân tộc hiện nay
2.1. Truyền thống giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá khứ
 Từ trước đến nay, nước ta được biết đến như là một quốc gia có nền văn
hiến lâu đời. Một dân tộc có kỉ cương, văn hóa, phong tục độc lập, khác


biệt với nước láng giềng phương Bắc. Mặc dù chúng ta đã từng dùng
chung một thứ chữ vuông với họ nhưng văn chương của chúng ta vẫn là
văn chương của người dân Đại Việt, thấm đẫm tinh thần dân tộc và bản sắc
văn hóa rất riêng. Việc sáng chế ra chữ Nôm, sáng tác văn học bằng chữ
Nôm (song song với chữ Hán) thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ về việc
giữ gìn bản sắc văn hoá Việt. Theo các công trình nghiên cứu, văn hóa Việt
Nam có nguồn gốc khu vực Đông Nam Á, hơn nữa nhiều hình tượng trong
văn hóa Trung Hoa có nguồn gốc vay mượn từ người Việt. Văn hóa Trung
Quốc giống như Ấn Độ, phương Tây chỉ là sự giao thoa của các luồng văn

hóa, khi gặp nhau ở Việt Nam đã bồi tụ phù sa, nhưng chất đất bản địa
ngàn năm vẫn không bị biến đổi.
 Có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam không có bản sắc văn hóa, văn hóa
Việt Nam chỉ là một nhánh nhỏ của nền văn hóa Trung Hoa, điểm khác
nhau là ở trình độ. Thêm vào đó văn hóa Việt Nam không có tính ổn định
bền vững mà liên tục biến đổi. Vì thế, trong khi rất nhiều cái mới du nhập,
chắc chắn việc giữ vững bản sắc sẽ xảy ra sự lung lay không ít. Ví dụ khi
văn hoá các nước phương Tây tràn qua những năm giữa thế kỉ 19. Lúc ấy,
nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã tổng kết trong sách “Thi nhân Việt
Nam”: “Chúng ta ở nhà tây, đội mũ tây, đi giày tây, mặc áo tây. Chúng ta
dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp còn gì nữa! Nói làm sao cho
xiết những điều thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta!
Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn giữ
nguyên hình ngày trước. Nào dầu tây, diêm tây, nào vải tây, chỉ tây, kim
tây, đinh tây” (Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 1988, tr.10).
 Lịch sử hình thành và phát triển truyền thống văn hoá của dân tộc Việt
Nam cũng là lịch sử hình thành và phát triển lối sống của người Việt Nam.
Nó được xây dựng qua một thời gian dài, phải nói là một thời kỳ lịch sử về
sản xuất, học tập, lao động và chiến đấu, đồng thời là sự sáng tạo trong
giao lưu văn hoá. Trải qua quá trình tiếp nhận, tiếp biến giữa các nền văn
hoá mà văn hoá Việt Nam nói chung, lối sống người Việt Nam nói riêng
được phát triển và ngày càng phong phú, đa dạng, đậm đà. Song, bản sắc
truyền thống của dân tộc ta vẫn là lối nhẹ nhàng, tế nhị, kín đáo, giản đơn
hoà nhập với thiên nhiên. Bên cạnh đó, trải qua quá trình tiếp biến các lối
sống văn hoá phương Đông, phương Tây và văn hoá xã hội chủ nghĩa,
những nét đặc sắc của lối sống dân tộc Việt Nam được tổng hợp và phát
huy hết sức mạnh mẽ đi cùng với thời thế. Tồn tại trong các lĩnh vực của
đời sống tinh thần, lối sống người Việt được làm giàu với tinh hoa văn hoá
và lối sống của nhiều dân tộc, chính xác là 54 dân tộc anh em. Tất cả hội
đủ các đặc điểm về phẩm chất cũng như phong thái văn hoá, văn minh độc

đáo của thế giới, tạo thành một lối sống vừa có tính nhân loại, vừa đậm đà
bản sắc Việt Nam.
 Chính những giá trị văn hoá lịch sử và truyền thống lâu đời về việc giữ gìn
đã không ngừng thôi thúc người Việt ngày nay hãy kế tục những bản sắc
tươi đẹp vốn có. Lời kêu gọi, ngày nay, trong một xã hội hiện đại, đã dần
bị thờ ơ nhiều hơn do con người thờ ơ hơn với những bản sắc của chính
dân tộc mình. Những truyền thống cũng không còn được nguyên vẹn bởi


2.2.








sự biến dạng, bóp méo trong thế giới cấp tiến hiện nay. Quan niệm về cái
đẹp trong con người dần thay đổi để kịp “chạy đua”, “sành điệu” với mọi
người xung quanh. Truyền thống giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong quá
khứ giờ đây chỉ là một ký ức trong tâm trí của mỗi con người
Lòng tự tôn dân tộc
Tự tôn dân tộc là việc đề cao vai trò và tầm vóc của quê hương đất nước,
cũng như dân tộc của chính quốc gia chúng ta. Giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc đề cập đến lòng tự hào và ý thức tự tôn dân tộc. Điều này
không chỉ làm nổi bật những nét đặc sắc của nền văn hiến nhân dân mà
còn là hành động giữ gìn những giá trị thuộc về người dân khu vực đó.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói, văn hóa phải "đi sâu vào
tâm lý quốc dân" để từ đó "văn hóa soi đường cho quốc dân đi".

Ý thức tự tôn dân tộc không chỉ thể hiện ở việc giữ gìn những giá trị văn
hoá và truyền thống hào hùng từ ngàn đời xưa mà còn là những hành động
cụ thể mang tính chất đoàn kết "lá lành đùm lá rách" trong những tình thế
đất nước đang gặp khó khăn. Hành động tự nguyện quyên góp tiền vàng
cho Chính phủ thời kỳ khủng hoảng kinh tế hay tự hào sử dụng những sản
phẩm nội địa góp phần phát triển đất nước chính là minh chứng khẳng
định giá trị của ý thức tự tôn dân tộc. Lại thực tế khác, khi tranh chấp vùng
biển Đông giữa ta và Trung Quốc, một lần nữa tinh thần yêu nước ấy lại
sục sôi quyết liệt trong từng con người Việt Nam. Chúng ta, kết tinh lại
như một làm sóng dâng trào, đã phản đối hành động sai trái của Trung
Quốc, khiến cho cả thế giới phải thấy rằng, đất nước, con người Việt Nam,
dù chỉ là một quốc gia nhỏ nhưng vẫn có chủ quyền và lãnh thổ riêng,
không thể nào xâm phạm được.
Bản sắc văn hóa dân tộc được biểu hiện ở lòng yêu nước nồng nàn, ý trí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình - làng xã - Tổ quốc, tất cả đều được Hồ chủ tịch lột tả đầy đủ trong
tác phẩm "Lòng yêu nước của nhân dân ta": Lòng nhân ái, "trong cái lý có
cái tình" , đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống. Đề cập đến đây ta cần xem xét về xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế, sự ảnh hưởng của hiện tượng này đến việc giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là tất yếu khách quan; đồng thời sự tác
động này tạo điều kiện cho nước ta mở rộng giao lưu giữa các nền văn
hóa, từ đó nâng cao tầm thế của đất nước Việt Nam đến với bạn bè thế
giới.
Nhưng, lòng tự tôn đó chỉ như ngọn đèn chập chờn lúc mờ lúc tỏ. Người
dân Việt Nam với tinh thần “sính ngoại” cao độ trong quá trình hội nhập
thế giới đã dần đánh mất đi lòng tự hào đối với dân tộc mình. Nhiều người
quan niệm rằng, tiến bộ và điều tất yếu, họ đúng, nhưng thiếu rằng điều đó
phải có giới hạn. Thực tế, nhiều người cuốn theo lối sống “hiện đại hoá”
tức “bắt chước” thế giới, đặc biệt là phương Tây. Họ không tồn tại một lập

trường nhất định về dân tộc và truyền thống, họ thích chạy theo xu hướng,
do đó họ rơi rớt phía sau những bản sắc văn hoá quý báu của dân tộc. Lòng
tự tôn không còn được giữ gìn kỹ lưỡng như ngày xưa chính bởi nhận thức
về dân tộc trong tâm trí người Việt ngày nay xuất hiện chiều hướng đi


xuống song song đó là tinh thần “hướng ngoại” không ngừng tăng lên.
2.3. Toàn cầu hoá
 Thế giới là một thực thể luôn vận động, nó kéo theo việc con người cũng
phải luôn thay đổi để thích nghi với sự thay đổi ấy. Nền văn hoá cũng thế.
Văn minh nhân loại hiện nay thay đổi không ngừng và luôn đặt ra một sự
cần thiết rằng chúng ta - những con người Việt cũng phải biết đổi thay.
Nhưng, sự đổi thay ấy cũng luôn phải đi kèm với sự phù hợp với bản sắc,
với thuần phong mỹ tục của người Việt. Một nền văn hoá chắc chắn sẽ thụt
lùi nếu không biết học hỏi và giao lưu với những tinh hoa của nền văn hoá
khác. Nhưng không phải vì thế mà bê nguyên của người khác vào thành
của mình. Như thế là đã hoà tan và phá huỷ tất cả những gì mà người đi
trước đã cố công gây dựng nên.
 Đứng trước xu thế và những thách thức của thế giới hiện nay, không một
nền văn hoá nào có thể tự tin tuyên bố rằng mình sẽ tồn tại vĩnh cửu mà
không có sự giao lưu. Nói đơn giản chúng ta không thể đóng cửa ru rú ở
nhà một mình không bao giờ giao tiếp với bất kì ai bên ngoài cả. Như thế
là chúng ta đã trực tiếp giết chết bản thân mình. Bối cảnh thế giới hiện nay,
các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá xã hội đang diễn ra vô cùng sôi
nổi, cũng vì thế mà trách nhiệm phải giữ một tinh thần tự cường vững
vàng trước những nền văn hoá khác. Sẵn sàng học tập tiếp thu nhưng luôn
phải có tâm lý phòng thủ. Để mở rộng giao lưu, hội nhập mà không đánh
mất bản sắc của mình, chúng ta phải trở về với Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, những
phải lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng, làm bản lĩnh. Nền tảng có

vững chắc, bản lĩnh có vững vàng mới tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân
loại một cách đúng đắn, mới chủ động, tự tin hội nhập và làm giàu thêm,
sáng lên đặc trưng văn hóa dân tộc.
 Bên cạnh sự giao lưu văn hoá về kinh tế, xã hội, thì bản lĩnh và tư tưởng
chính trị cũng là một vấn đề hiện nay khá là đáng quan tâm. Nước ta là
nước theo Xã hội chủ nghĩa, mà trên thế giới hiẹn nay chỉ còn tồn tại 5 đất
nước theo thể chế chính trị này. Chúng ta chọn chủ nghĩa Mác – Lê làm
kim chỉ nam cho tư tưởng chính trị, thứ mà thế giới hiện nay đang tranh
cãi khá nhiều về độ tin cậy và độ chính xác trong thời đại mới. Rất nhiều
những ý kiến trái chiều và những suy nghĩ cũng như các bài viết phân tích
về con đường chúng ta đang đi theo liệu có đúng hay không. Con đường
mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả đời để đưa con thuyền Việt Nam đi
đến thắng lợi và hiện nay, con tàu ấy vẫn vận hành khá tốt dù trên đường
đi không ít chông gai và nhiều lần hỏng hóc. Về cơ bản, chúng ta luôn phải
chủ động tiếp nhận những cái hay, cái tốt của các đất nước khác nhưng
đồng thời phải dựa trên lập trường tư tưởng vững vàng của ta, hết sức cảnh
giác không để những kẻ lợi dụng chính trị để chống phá nhà nước, chế độ.
Chúng ta xây dựng và giáo dục kỹ càng, đặc biệt là cho lớp trẻ, phải có
những định hướng rõ ràng về tư tưởng chính trị. Ý thức chính trị, tính nhạy
bén trong sự thay đổi tình hình chính trị thế giới luôn phải được nâng cao.
 Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và đặc biệt là truyền thông, Internet
cũng ảnh hưởng rất lớn đến lối sống và thói quen của con người. Khối


lượng trí tuệ nhân loại tăng lên không ngừng,làm tăng khả năng tổ chức
quản lý, làm thay đổi căn bản cơ cấu của xã hội. Thông tin và hàm lượng
tri thức đang thu hẹp về không gian nhưng tăng tốc về thời gian. Sự giao
lưu hợp tác cần phải được đẩy nhanh để loại bỏ sự chèn ép, tù túng. Hình
thành một lối sống hiện đại và công nghiệp. Giúp cho sự thành công và
hiệu quả càng tiến nhanh hơn.

 Có thế nói, toàn cầu hoá tác động rất lớn đến sự phát triển lối sống của xã
hội ta hiện nay, song nó cũng đặt ra những thách thức vô cùng bức xúc và
nan giải. Do bước ra khỏi biên giới nước ta rất nhiều điều lạ và phức tạp,
toàn cầu hoá cũng chính là cái phá vỡ nhiều hình thức và nội dung trong
lối sống truyền thống Việt Nam. Khi tối ưu hoá quá mức vai trò của việc
tiêu dùng, thì lối sống của người phương Tây đã thay đổi thói quen tiêu
dùng truyến thống thành tiêu thụ. Muốn sản xuất và dịch vụ phát triển thì
phải tiêu dùng nhiều. Cầu tăng thì cung mới tăng. Đó là quy luật của thị
trường hiện đại. Lối sống tiêu thụ phương Tây đã từng dẫn xã hội đó đến
sự biến chất, nhiều yếu tố phi nhân văn vẫn đang ảnh hướng mạnh tới ý
thức và hành vi nhiều người Việt Nam hiện nay mà nhiều người ví von là
“tư bản giãy chết”. Nền kinh tế của ta còn nghèo, bình quân thu nhập kinh
tế theo đầu người ở nước ta còn thấp. Năng suất lao đông của ta chưa cao,
sản phẩm lao động chưa thật dồi dào, thì sự tiêu thụ và hưởng thụ kinh tế
cho phù hợp ớ điều kiện kinh tế hiện thực là yêu cầu tất yếu để tiếp tục
phát triển kinh tế - xã hội. Lối sống tiêu thụ thuần tuý sẽ dẫn đến nguy cơ
khủng hoảng, nếu không nói là tư huỷ hoại nền kinh tế khi nó không có kể
hoạch để thực hiện những mục tiêu đúng đắn, nhất là dẫn đến khủng hoảng
lối sống.
 Lối chơi thời thượng, đề cao vai trò của đồng tiền, tuyệt đối hoá đồng tiền,
sùng bái hàng ngoại trở thành một cách nghĩ, cách sống của một số nhà
kinh doanh đang gặp thời, hãnh tiến, tạo lối sống xa lạ với truyền thống
dân tộc. Nhu cầu hưởng thụ đồng thời muốn khẳng định bản thân, một số
bộ phận người Việt cho rằng cứ sủ dụng hàng ngoại là chất, là mốt dẫn đến
sự phát triển các loại dịch vụ xa xỉ, thậm chí là phi pháp và thác loạn. Lối
sống lạnh lùng kiểu tiền trao cháo múc của tư bản đã phá huỷ không ít
những giá trị truyền thống về tình nghĩa của người Việt, xem rẻ nhân phẩm
con người, làm lu mờ những giá trị đạo đức. Tình trạng lười lao động, ăn
chơi, kiếm tiền trên công sức của người khác.
3. Giải pháp đề xuất

3.1. Việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là thiết yếu đối với
sự phát triển của mỗi quốc gia.
 Đó là khía cạnh về mặt tinh thần, là nét đẹp, nét riêng của từng vùng lãnh
thổ. Đừng vội khẳng định văn hóa nước ngoài “hay” và “ hơn” văn hóa
nước nhà, mà hãy tự hỏi liệu trong chúng ta đã hiểu được mấy phần về
truyền thống văn hóa nước nhà? Việc tìm hiểu khó khăn? Có lẽ là không,
khi mà việc tìm kiếm thông tin chỉ bằng cái click chuột! Nên nhớ, việc tìm
hiểu văn hóa nước mình cũng là biểu hiện của lòng yêu nước, nâng cao
lòng tự hào về những giá trị văn hóa đặc sắc của cha ông, biết ơn những
thế hệ đi trước, yêu cái đẹp quê hương mình. Tại sao chúng ta lại phải






3.2.




3.3.


chạy theo những thứ xa hoa trong khi những thứ ngay gần mình đẹp đẽ
đáng tự hào đến vậy? nước ta đang phải đối mặt với vấn đề vô cùng nhức
nhối: “Làm sao để giữ gìn và phát huy nét đẹp văn hoá truyền thống dân
tộc?”
Dưới đây là những biện pháp tổng quan nhất để dần thay đổi và gìn giữ bộ
mặt của đất nước. Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành

mạnh, phong phú, đa dạng Đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn hoá trong
các môi trường gia đình, trường học, khu dân cư, doanh nghiệp thể hiện
trong mọi hành động, sinh hoạt hằng ngày, cách ứng xử và các mối quan
hệ giữa con người với nhau góp phần làm cho các giá trị văn hoá thấm
nhuần vào trong tư tưởng con người và trong mọi mặt của đời sống. Đảng,
Nhà nước và các cấp chỉ đạo cần có kế hoạch cụ thể đưa phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” vào chiều sâu, thực hiện nghiêm
túc, không được lơ là.
Bên cạnh đó phải có biện pháp xử lý đối với những hành vi làm suy thoái
đạo đức văn hoá, ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục mê tín dị đoan, bạo lực,
gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc Đẩy mạnh công cuộc
nuôi dưỡng giáo dục học sinh và sinh viên – thế hệ tương lai của đất nước,
đưa vào chương trình học nhiều nội dung liên quan đến thực tiễn về văn
hoá Việt Nam, kêu gọi thế hệ trẻ biết giữ gìn và phát huy những truyền
thống văn hoá. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá, chú trọng nâng cao đời
sống văn hoá ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng
thụ văn hoá giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn. Nhà
nước cần đề ra các chính sách tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu
quả công tác tuyên truyền văn hóa đến người dân. Có thể đề ra các mức
phạt cho những hành vi xuyên tạc, bôi xấu nền văn hóa nước nhà tùy theo
mức độ nặng nhẹ
Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng và xây dựng lối sống
văn hóa cho học sinh sinh viên thông qua các hoạt động xã hội
Nhà trường đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
Thông qua việc tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị đầu khóa, với các nội
dung nhằm nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết xã hội của sinh viên;
quán triệt các Nghị quyết của Trung ương Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhà trường, giới thiệu
về tổ chức và các hoạt động của Đoàn, hội. Góp phần nâng cao nhận thức
chính trị, hiểu biết xã hội của sinh viên; giúp họ tin tưởng vào công cuộc

đổi mới hiện nay, vào con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; tránh được âm
mưu lôi kéo của kẻ thù; hình thành nhân cách, hoài bão tốt đẹp.
Bên cạnh đó, các hoạt động từ thiện xã hội của sinh viên cần được tập
trung tổ chức, bằng việc giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ, những người
tàn tật khó khăn, ủng hộ đồng bào lũ lụt và tham gia các hoạt động kinh tế
- xã hội góp phần phát triển kinh tế văn hóa vùng sâu, vùng xa, qua đó
giáo dục truyền thống cách mạng, lòng nhân ái, thương yêu đùm bọc lẫn
nhau, ý thức chung sống trong cộng đồng của người trẻ.
Không ngừng phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật
Bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, cách mạng Chú




3.4.




III.

trọng phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam độc đáo, đậm đà bản sắc
dân tộc, giàu chất nhân văn, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử
dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái
đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác.
Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Đầu tư cải tạo, nâng cấp các công
trình văn hoá, nghệ thuật lâu đời. Khuyến khích công dân tìm tòi, đến gần
hơn với các loại hình truyền thống thông qua việc tổ chức các cuộc thi,
chuyến tham quan bảo tang lịch sử, Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc
các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị

các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc. Xây dựng và thực
hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết
các dân tộc thiểu số.
Phát triển hệ thống thông tin đại chúng
Chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, cần tận
dụng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản
biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân
và đất nước; thông qua truyền thông, internet, có thể truyền tải nét đẹp văn
hoá của vùng miền mình chia sẻ đến các nước bạn qua mạng xã hội;
khuyến khích người dân tìm hiểu sâu hơn về các loại hình nghệ thuật văn
hoá nước nhà thông qua internet; khắc phục xu hướng thương mại hoá, xa
rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản.
Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất
bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt
yêu cầu của thời kỳ mới. Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng
thời có biện pháp quản lý, hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các
hoạt động lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản động, lối sống
không lành mạnh.

Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
CÁC VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
 Không phải ngẫu nhiên mà Đảng ta luôn khẳng định, “chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho
mọi hành động của mình”, là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và
nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, khắc phục khó
khăn, xây dựng đất nước không ngừng phát triển. Một đất nước vững
mạnh là một đất nước không chỉ có nền kinh tế phát triển mà còn phải có
nền văn hoá tốt đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh: tiến lên CNXH phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con
người là quyết định; để đưa đất nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm
vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con người và

thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa. Văn hoá là linh hồn, diện
mạo của dân tộc. Với nhận thức là văn hóa có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc
và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm “Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng”, “nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất
là dân”.
 Vì vậy, văn hóa cũng phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm: Vì nhân dân


phục vụ và phát huy sứ mạng của toàn dân làm văn hóa. Chính vì thế,
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị
trí quan trọng. Qua bao nhiêu năm tranh đấu, trau dồi kinh nghiệm, bằng
vốn sống dồi dào phong phú và trái tim nhiệt huyết đầy yêu thương luôn lo
nghĩ cho quê hương đất nước mình, Người đã viết nên một hệ thống tư
tưởng vô cùng đúng đắn và sâu sắc, mang đậm tinh thần tự tôn dân tộc. Và
cho dù ở thời đại nào, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chưa bao giờ trở nên lạc
hậu, luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động của đồng bào Việt, bởi dù đi
đâu về đâu, nền văn hoá luôn là điều khiến nhân dân ta rất đỗi tự hào.
Không phải ngày nay chúng ta mới thấy được ý nghĩa và giá trị thời đại
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ rất lâu, nhân loại tiến bộ trên thế giới, nhất
là những trí thức lớn, những chính khách giàu lòng bác ái, đã từng ca ngợi
và bày tỏ sự khâm phục tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
 Nhưng, có thể nói, trong bối cảnh thế giới đang có những diễn biến phức
tạp, đan xen những thời cơ và thử thách, những tiêu cực và tích cực, những
nghịch lý cuộc đời... thì ý nghĩa và giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí
Minh càng được tỏa sáng hơn bao giờ hết. Trải qua ngàn lăm lịch sử dựng
nước và giữ nước, theo tiếng gọi của Tổ quốc, ông cha ta đã cầm súng lên
đường bảo vệ non sông, chiến đáu cho quê hương đất nước mình được
nguyên vẹn, tự do. Ngày nay, khi đã sống trong thời bình, nhân dân không
lo chiến tranh bom đạn, thì dường như Tổ quốc ta lại đang phải chịu một
sự xâm lăng khác không kém phần nguy hiểm đó là sự xâm lăng văn hoá.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá lại càng trở nên đáng trân trọng hơn
bao giờ hết. Bởi trong bối cảnh thế giới đang đổi mới từng ngày, toàn cầu
hóa không còn là hiện tượng mới mẽ; nó là một xu thế tất yếu mà mọi dân
tộc, dù muốn hay không cũng đều phải chịu sự tác động của nó. Toàn cầu
hóa đang dần đưa lối sống Phương Tây vào nước ta, dẫn đến nhiều lối
sống đi ngược lại chuẩn mực đạo đức và văn hoá từ ngàn đời nay của dân
tộc ta.
 Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hoá là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh
những giá trị văn hóa của Việt Nam, của Phương Đông và Phương Tây,
của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế mà cốt lõi là sự kết
hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc. Người
nhấn mạnh: “Phương Đông hay Phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt ta phải
học lấy”; song điều cốt yếu là “đừng biến ta thành kẻ bắt chước” vì “cái
gốc của văn hóa mới là dân tộc”. Trần Hưng Đạo từng nói “nếu giặc tiến
công như vũ bão thì không đáng sợ, chỉ sợ giặc gặm nhấm như tằm ăn
dâu”. Sự xâm lăng văn hoá cũng đáng sợ như vậy. Mỗi cá nhân và tập thể
cần nhanh chóng hướng lối sống và hành động của mình theo lời Bác dạy
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trước khi quá muộn, để biết trân trọng và giữ
gìn nền văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã nêu cao giá trị và vai trò to lớn của nền văn hoá trong sự phát
triển của một quốc gia: Văn hoá soi đường cho quốc dân đi. Để văn hóa
thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và
quan hệ con người là yêu cầu rất cao, là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài. Chỉ
khi nào được mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các


đoàn thể, tôn giáo, nhà trường và gia đìnhtham gia tích cực, thường xuyên,
liên tục, bền bỉ thì văn hóa mới có thể thực hiện được những nhiệm vụ đã
đề ra. Do đó, Đảng và Nhà nước đưa ra những chính sách tích cực trong
việc xây dựng một xã hội văn minh với nền văn hóa dân tộc sâu sắc.

TỔNG KẾT
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, trong đó tư tưởng của Người về văn
hóa chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Đó là một hệ thống các quan điểm lý luận
mang tính khoa học và cách mạng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt Nam.
Được kết tinh và chắt lọc những giá trị cả văn hóa phương Tây, phương Đông, của
truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế.
Mục tiêu là “tất cả vì nhân dân phục vụ” là phương châm hành động của mỗi cán
bộ trong ngành văn hóa. Để trở thành công sở văn hóa, không chỉ đơn thuần là hoàn
thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch năm, hay phòng làm việc ngăn nắp, sạch đẹp
Mà điều quan trọng là hoàn thành nhiệm vụ của một công sở có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ từng bước được nâng cao, thường xuyên tự trau dồi bản thân về chính trị tư
tưởng, phẩm chất đạo đức. Cán bộ công chức của cơ quan phải có mặt đẩy đủ, đúng
giờ, trang phục đồng bộ, có mang phù hiệu. Thái độ giao tiếp nhã nhặn, lịch sự, tạo ấn
tượng khi người dân đến giao dịch và để lại cảm giác thoải mái, dễ chịu, khi học ra về.
Nét đẹp văn minh còn thể hiện trong từng công việc, trong quy định tiếp nhận hồ sơ,
công khai liệt kê đầy đủ các loại giấy tờ, đúng hẹn trả lời cho người dân. Tránh tình
trạng gây phiền hà, nhũng nhiễu, chờ đợi không cần thiết.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc xây
dựng và phát triển nền văn hóa nước ta. Nó mãi là ánh sáng soi đường cho công cuộc
xây dựng và phát triển nên văn hóa nước ta. Là thế hệ trẻ, tương lai của đất nước, noi
theo tấm gương sáng của Hồ Chí Minh, với những phẩm chất tinh hoa của dân tộc,
công dân Việt Nam thời kỳ mới quyết tâm xây dưng đất nước. “Vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hôi công bằng, dân chủ văn minh.”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> />


×